Sao không đốn ngộ ở nơi một pháp, vạn hạnh tự viên mãn, lại lẩn quẫn trong con đường tiến tu, nhọc... Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ | Dịch Giả :Hòa Thượng Thích Minh Thành | Xem: 14


Câu Hỏi

Sao không đốn ngộ ở nơi một pháp, vạn hạnh tự viên mãn, lại lẩn quẫn trong con đường tiến tu, nhọc nhằn nơi hạnh lành nhỏ bé? Thiền Tông cho rằng một niệm không sanh khởi, chẳng hiện mảy trần. Nếu tranh nhau đuổi theo sóng nắng, chấp chặt hoa đốm trong hư không, dùng huyễn để tu huyễn, rốt cuộc không đạt được lý thể.

Trả Lời

Chư Phật biết rõ hư huyễn mới có thể độ chúng sanh mê huyễn. Bồ Tát thấu suốt tánh không, do đó từ tánh không mà kiến lập giáo hóa.

Kinh Niết Bàn nói:

“Đức Phật bảo rằng:

Hết thảy các pháp đều là tướng như huyễn, Như Lai ở trong đó dùng sức phương tiện không nhiễm trước gì cả. Tại sao? Vì pháp chư Phật vốn như thế”.

Trung Luận nói: “Do có nghĩa Không nên tất cả pháp được thành lập”.

Vì vậy, “Đốn” giống như hạt giống gom chứa tất cả. “Tiệm” giống như mầm cành phát sanh theo sau. Lại ví như đài cao chín tầng có thể nhanh chóng thấy được, nhưng muốn lên đỉnh cần theo nấc thang mà lên.

Đốn ngộ tâm tánh thì ngay nơi tâm là Phật. Người người đầy đủ tánh Phật nhưng cần phải tích lũy công đức, tu tập khắp cả vạn hạnh.

Lại giống như lau gương một lúc lau hết nhưng dần dần sẽ trong sáng. Vạn hạnh thì nhanh chóng tu hành, còn ngộ thì dần dần thù thắng. Đó gọi là viên mãn dần dần, chẳng phải dần dần viên mãn; cũng là vị thứ trong chỗ không có vị thứ, hạnh ở trong chỗ không hạnh.

Thế nên, thấu suốt quả bao quát nhân; từ nơi sâu kín mà đến chỗ hiển bày đều cần phải nhờ sự trợ giúp của căn lực từ thiện mới có thể lợi mình lợi người.

Đài cao chín tầng được thành từ một sọt đất đầu tiên. Hành trình ngàn dặm ắt nhờ vào một bước ban đầu. Sông nước cuồn cuộn phát khởi từ đầu nguồn hẹp nhỏ. Cây to sum xuê được sinh trưởng từ mầm chồi nhỏ bé. Đạo chẳng bỏ sót những hạnh nhỏ, tối tăm hoàn toàn không cự tuyệt một tia sáng.

Do đó, một câu kinh ngấm vào lòng trải qua nhiều kiếp vẫn không tiêu mất. Một điều lành nhập tâm muôn đời cũng chẳng quên.

Trong kinh Niết Bàn Đức Phật nói rằng:

“Tu một tâm niệm lành có thể phá trừ trăm điều ác, như mảnh kim cương rất nhỏ có thể phá vỡ núi Tu di to lớn, cũng như một đốm lửa có thể thiêu cháy tất cả, lại giống như một giọt thuốc độc có thể hại chúng sanh. Việc lành nhỏ bé cũng vậy, có thể phá trừ sự tà ác cực lớn”.

Trong kinh Nhật Ma Ni Bảo có nói:

“Đức Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: Ta quán xét chúng sanh tuy họ trải qua mấy ngàn muôn ức kiếp vẫn ở trong ái dục, bị tội ác che đậy. Nếu nghe kinh Phật, vừa xoay đầu lại phát khởi niệm lành thì tất cả tội ác đều tiêu diệt”.

Luận Đại Trí Độ nói:

“Khi Như Lai thành đạo có mười cách mỉm cười mà quán xét thế gian. Có nhân nhỏ quả lớn, duyên nhỏ báo lớn: như cầu Phật đạo, tán thán một bài kệ, xưng một câu Nam mô Phật, dâng một nén hương, ắt đều được thành Phật.

Huống gì nghe biết Thật tướng của các pháp không sanh diệt, chẳng phải không sanh chẳng phải không diệt mà nhân duyên hạnh nghiệp cũng không thiếu. Vì thế nên Đức Phật mỉm cười”.

Bậc Cao đức ngày xưa hỏi:

Lương Võ Đế cất chùa, độ Tăng vô số mà Tổ Đạt Ma lại bảo là không có công đức. Bồ Tát xả bỏ đất nước thành trì, xây dựng chùa tháp, lẽ nào là việc làm suông hay sao?

Đáp:

Lời nói ấy của Tổ sư chẳng hủy hoại nhân quả phước đức. Võ Đế không thông suốt, công đức hữu vi có giới hạn, còn phước của Không Vô tướng chẳng thể nghĩ lường được. Tổ sư phá trừ tham trước của ông ấy, nếu không tham trước thì đều là vô vi.

Bồ Tát cũng làm Vua Chuyển Luân, phước báo như thế nhân quả rõ ràng, đâu thể là không.

Nếu thấu suốt Lý thì sử dụng nó đồng lượng với pháp giới không bao giờ cạn hết. Nếu không thông đạt Lý thì trở thành quả báo hữu vi luân hồi, chẳng nên tham trước.

Quốc Sư Huệ Trung nói:

“Chư Phật Bồ Tát đều đầy đủ hai loại phước trí trang nghiêm, lẽ nào lại bác không có nhân quả? Chỉ cần đừng đem Lý ngưng trệ Sự, dùng Sự chướng ngại Lý, thì trọn ngày hành mà không trái với vô hành”.

Pháp Sư Sanh hỏi: “Tại sao khảy móng tay, chắp tay đều là nhân để thành Phật?”.

Đáp:

“Tất cả pháp đều không có tánh cố định mà theo chỗ thích ứng tùy duyên. Nếu lấy tham làm duyên thì thích ứng với quả báo trời người. Nếu hướng về Bồ đề làm duyên thì thành tựu quả Phật.

Chân như còn không giữ tự tánh, huống gì việc lành nhỏ bé này. Lại nói: muôn điều lành, về mặt Lý đều đồng với vô lậu”.

Muôn việc lành vốn có, đều nhờ Lý phát khởi; Lý đã không khác thì việc lành đâu có hai. Như Lai Tạng Tánh vốn là chánh nhân, từ nơi tánh ấy mà phát sanh muôn điều lành.

Giáo lý Tông Thiên Thai nói:

“Nếu xem thường việc thiện nhỏ, chẳng thể thành Phật, đó là tiêu diệt giống Phật ở thế gian”.

Còn nói: “Cơ thiện có hai:

Một là cảm hoa báo của trời người.

Hai là cảm quả báo Phật đạo.

Nếu dùng mắt Phật soi sáng trọn vẹn thì muôn việc lành của chúng sanh rốt cuộc đều được đến chỗ thành Phật. Đây là ý chính của việc lớn mà Đức Phật ra đời”.

Tôn giả Kinh Khê nói, một điều lành nhỏ cũng giúp tiến đến Bồ đề, như cầm dao cầm đuốc mà nắm ngay cán. Nếu làm lành mà chỉ theo hình tướng bên ngoài thì như cầm vào lưỡi dao, chụp vào ngọn lửa.

Trong kinh Pháp Hoa nói rõ, người tâm tán loạn mà niệm Phật, khen ngợi vài lời, dùng tay vẽ tượng, nhóm cát thành tháp, dần dần tích lũy công đức đều thành tựu Phật đạo.

Kinh Đại Bi nói:

“Đức Phật bảo A Nan:

Nếu có chúng sanh ở nơi chỗ chư Phật vừa phát lòng tin, gieo trồng chút ít căn lành, rốt cuộc chẳng tiêu mất. Dù cho trải qua trăm ngàn muôn ức Na do tha kiếp lâu xa, nhưng căn lành nhỏ ấy ắt trợ giúp đạt được Niết Bàn. Như một giọt nước gieo vào biển cả, dù trải qua thời gian lâu dài, rốt cuộc chẳng hao tổn”.

Thế nên, bậc Đại Thánh thuận theo căn cơ uyển chuyển để thích ứng, Đại thừa và Tiểu thừa chẳng mất, tiếp dẫn kẻ sau thích ứng người trước. Bán giáo và Mãn giáo chẳng phế bỏ hoặc tán thán Tiểu thừa để dẫn về chỗ sâu xa cùng tột, hoặc quở trách Bán giáo sợ bị ngưng trệ nơi pháp môn ban đầu.

Lá vàng chẳng phải vàng ròng, nắm tay không lẽ nào lại là chân thật? Đó đều là ý chỉ của giáo lý khen ngợi và chê trách; đều là sự thi thiết quyền biến dẫn dụ để hóa độ.

Song, người không đạt được ý chỉ chấp vào lời nói phương tiện, tranh phải quấy lẫn nhau, xác định lấy và bỏ. Hoặc chấp vào Tiểu thừa mà ngưng trệ nơi Đại thừa, trái ngược đánh mất tông chỉ; hoặc căn cứ vào Đại thừa mà làm trở ngại Tiểu thừa, tổn hại trí tuệ quyền biến.

Hơn nữa, tuy là tôn sùng Đại thừa nhưng chẳng hiểu rõ ý chỉ Đại thừa, chỉ lo bài xích Tiểu thừa mà hạnh Tiểu thừa cũng chẳng làm được, khởi ý thì dựa vào hư giả, phát ngôn thì vượt quá phận mình, đoạn dứt bánh xe chánh pháp, chê bai phỉ báng Bát Nhã. Lỗi lầm sâu xa cùng cực chẳng gì hơn điều này, do đó mãi chìm đắm trong địa ngục Vô gián muôn kiếp chưa ra khỏi.

Kinh Tịnh Danh nói:

“Không có trí tuệ phương tiện thì bị trói buộc, có trí tuệ phương tiện là cởi mở, không có phương tiện trí tuệ thì bị trói buộc, có phương tiện trí tuệ là cởi mở”.

Đâu nên chấp vào quyền biến phỉ báng chân thật, tổn hại Có bài bác Không. Chỉ cần Đại Tiểu thừa đồng thời hoằng truyền, vận hành cả Có lẫn Không. Nhất tâm Tam Quán thì không lỗi lầm vậy.

Thế nên thuận Pháp thể, mảy may chẳng lập; tùy theo trí dụng, sự nghiệp lớn hằng hưng khởi. Thể chẳng lìa Dụng nên lặng lẽ mà thường chiếu soi; Dụng chẳng lìa Thể nên chiếu soi mà hằng lặng lẽ.

Do đó, thường ở nơi Thể mà vẫn thường khởi Dụng, hằng chiếu soi hằng lặng lẽ.

Nếu trở về tông chỉ thì Thể và Dụng đều lìa, nào có chiếu soi, nào có lặng lẽ. Đâu nên theo Thể mà chướng ngại Dụng, chấp vào bản tánh, hủy hoại nhân duyên. Lý Sự chẳng dung thông, Chân và Tục trở thành ngăn cách. Vậy thì tâm bi đồng thể không được vận hành, lòng từ vô duyên chẳng thể thành tựu.

Đã xem thiện ác là khác nhau, làm sao có thể cứu độ khắp cả người oán kẻ thân? Đó là điều rất sai lầm, lỗi ấy thật to lớn!

Bậc Cao đức thuở xưa nói:

“Bậc thiện tri thức tuy thấy rõ tánh Phật vốn bình đẳng với Phật, nhưng nếu luận về công phu thì chưa bằng các bậc Thánh. Cần phải từ hôm nay luôn luôn huân tu”.

Cổ đức nói: “Tỳ kheo đọa làm nấm trả nợ tuy không thấu đạt lý nhưng vẫn có hạnh. Thời nay có nhiều người học mà lý hạnh đều mất”.

Nên biết, thấy tánh nhưng chưa thấu triệt, chỉ là sự hiểu biết nương tựa theo ngôn ngữ, đến khi kiểm điểm lại thì chánh hạnh và trợ hạnh đều mất. Do đó, các bậc Thánh thuở trước hoàn toàn chẳng xem thường thứ lớp. Tự xét lại lòng đâu thể dễ dàng.

Vì vậy, Lục tức Phật phân biệt để khỏi lẫn lộn, Thập địa biện biệt rõ công phu. Nếu đứng về mặt “tức” thì Phật nào có phàm thánh; nếu bàn về “lục” (sáu bậc) phàm thánh cách nhau như trời với đất.

Vả lại, nếu luận về Lý, Sơ địa đầy đủ tất cả địa; nếu nói về hạnh thì địa sau vượt hơn địa trước rất xa. Chỉ như vừa bước lên Bát địa, một niệm làm lợi ích chúng sanh, các địa vị thấp hơn dù trải qua nhiều kiếp cũng không bằng được.