Không rõ sư tên họ là gì, mọi người thường thấy sư cưỡi bát gỗ qua sông, nên gọi là Bôi Độ.
Ban đầu, sư ở Kí Châu, không tu tế hạnh, nhưng thần lực siêu việt, thế gian không ai lường được.
Có lần, sư nghỉ lại qua đêm tại một gia đình ở phía bắc. Trong nhà có một tượng Phật bằng vàng, sư lén mang đi. Chủ nhà thức dậy, cho người đuổi theo. Sư đi rất chậm mà họ phi ngựa đuổi theo không kịp. Đến sông Mạnh Tân, sư lại thả bát gỗ xuống nước để sang sông, tuy không có gió thổi mà đi nhanh như bay. Không bao lâu, sư sang đến bờ, vào kinh đô. Năm đó, sư khoảng 40 tuổi.
Sư thường mặc áo quần rách rưới lam lũ, không đủ che thân, nói năng tùy tiện, mừng giận bất thường. Có lúc trời giá lạnh mà tắm gội, hoặc mang giày cỏ lên non, hoặc đi chân trần vào phố chợ, chỉ mang theo một giỏ sậy, không có vật gì khác. Có lần sư đến chùa Diên Hiền, đạo nhơn Pháp Ý tiếp đãi sư ở một phòng riêng.
Một hôm, sư muốn sang sông Qua Bộ, đến gặp chủ thuyền xin đi nhờ nhưng ông ta không cho. Sư bèn đặt chân vào trong bát gỗ, nhìn quanh, ngâm thơ ê a, cái bát tự nhiên trôi thẳng, đưa sư sang tới bờ.
Đến Quảng Lăng, sư gặp hội bát quan trai tại nhà họ Lý trong thôn. Dù không quen biết, nhưng sư vẫn đi thẳng vào ngồi trong trai đường, đặt giỏ sậy giữa nhà. Mọi người thấy sư rách rưới sinh tâm bất kính. Ông Lý thấy giỏ sậy nằm chắn lối đi, muốn dời qua chân tường, nhưng mấy người nhấc lên cũng không nổi. Thụ trai xong, sư đến lấy mang đi nhẹ nhàng, và cười nói:
– Tứ thiên vương, Lý gia!
Khi ấy, một đứa bé nhìn thấy trong giỏ sậy có bốn tiểu nhi cao vài tấc, mặt mũi khôi ngô, áo quần đẹp đến tìm thì không thấy đâu.
Vài ngày sau, mọi người thấy sư ngồi dưới tàng cây rậm rạp ở phía đông nhà, ông Lý đến lễ bái thỉnh sư về, cúng dường mỗi ngày. Sư không ăn chay mà lại uống rượu ăn thịt chẳng khác gì người thế tục, bá tánh cúng dường, có lúc nhận lúc không.
Lưu Hưng Bá người nước Bái làm thứ sử Duyện Châu, sai sứ giả sang thỉnh. Sư mang theo giỏ sậy, Hưng Bá cho người nhấc lên xem thử, nhưng hơn mười người vẫn không nhấc nổi. Hưng Bá đích thân đến nhìn, chỉ thấy một chiếc áo rách và một cái bát gỗ.
Sau, sư trở về nhà họ Lý, ở lại đây hơn hai mươi ngày. Sáng sớm hôm ấy bỗng nhiên sư nói:
– Ta muốn một chiếc cà sa, trưa nay phải có.
Ông Lý hết lòng lo liệu, nhưng đến trưa vẫn chưa có. Sư nói:
– Ta đi đây một chút!
Đến tối, không thấy sư trở về, cả thôn thoảng nghe có mùi hương lạ, mọi người nghi ngờ, chia nhau đi tìm khắp nơi. Đến chân núi phía bắc, mọi người thấy sư nằm trên tấm cà sa rách, an nhiên thị tịch, nơi đầu và chân đều mọc lên hoa sen thơm ngát, suốt một ngày mới héo. Người khắp vùng chung nhau lo lễ an táng sư. Vài hôm sau, một người từ phương bắc đến kể:
– Tôi gặp sư quảy giỏ sậy đến Bành Thành.
Nghe thế, mọi người đào quan tài lên, chỉ thấy còn lại một đôi giày.
Khi sư đến Bành Thành, cư sĩ Hoàng Hân là người tin sâu Phật pháp đến đảnh lễ và thỉnh về nhà. Gia đình ông ta rất nghèo, chỉ ăn lúa mì mà thôi, nhưng sư vui vẻ ở lại đây nửa năm, một hôm sư nói với Hân:
– Hãy tìm ba mươi sáu cái giỏ sậy, ta cần dùng đến nó.
Hân thưa:
– Nhà con chỉ được mười cái, vì không có tiền nên không mua thêm được, e rằng con không lo đủ cho thầy!
Sư nói:
– Ông hãy tìm kỹ lại, trong nhà ắt có đủ.
Hân bèn lục tìm khắp, quả đủ ba mươi sáu cái, rồi bày ra hết trong sân. Tuy có đủ, nhưng nhiều cái đã hư rách. Đến khi Hân lần lượt xem lại tất cả đều thành đồ mới. Sư âm thầm đậy giỏ lại rồi bảo Hân mở ra, thì thấy trong các giỏ đều đầy ắp tiền bạc lụa là. Người hiểu biết cho rằng sư đã phân thân đến nước khác nhận vật cúng dường, trở về bố thí cho Hân. Hân thụ nhận tất cả rồi dùng vào việc tu tạo công đức.
Khoảng một năm sau, sư từ biệt ra đi. Hân chuẩn bị nhiều lương thực cúng dường, nhưng sáng hôm sau nhìn thấy lương thực vẫn còn nguyên, không biết sư đi đâu.
Sau, Trên đường đến Ngô quận, sư gặp người câu cá, liền đến xin. Ông ta đưa một con cá chết, sư cầm lật qua lại rồi thả xuống sông, cá sống lại bơi đi. Một lát sau, gặp ông chài, sư lại đến xin cá. Ông chài tức giận mắng chửi, không cho. Sư nhặt hai viên đá ném xuống sông, bỗng có hai con trâu húc nhau trong lưới, khi lưới rách nát, trâu biến mất sư cũng không còn ở đó. Đến Tùng Giang, sư lật ngửa dù làm thuyền để qua sông. Sư đến huyện Diệm ở Cối Kê rồi lên núi Thiên Thai, ở đây được vài tháng, lại trở về kinh đô. Sư ở đâu cũng chỉ một thời gian ngắn, đến đi không cố định, được người thỉnh mời có lúc đến, lúc không.
Bấy giờ, ở Nam Châu có một gia đình họ Trần rất giàu. Khi sư đến, cả nhà đều hết lòng kính phụng. Nghe ở kinh đô lại có một Bôi Độ, năm cha con họ Trần không tin, tìm đến xem, quả rất giống sư Bôi Độ đang ở nhà mình. Ông Trần dọn ra một hộp mật gừng, một con dao và một chiếc khăn tay ướp hương huân lục. Sư ăn hết mật gừng, những thứ còn lại đem để trên đùi. Mọi người đều nghi là sư Bôi Độ ở nhà mình, liền cho hai người em ở lại theo dõi, ba người còn lại quay về nhà, thấy sư Bôi Độ ở nhà cũng có cây dao, khăn thơm.v.v..chỉ khác là không ăn mật. Sư bèn nói với ông Trần:
– Cây dao này lụt quá, ông mài lại giúp tôi!
Hai người em trở về báo rằng sư Bôi Độ kia đã đến chùa Linh Thứu.
Một hôm sư nói với ông Trần là cần gấp hai tấm giấy màu vàng để làm sách, rồi viết lên mặt sau hai chữ Bất thành. Ông Trần bèn đến hỏi sư là viết sách gì thế. Sư không đáp, cuối cùng chẳng ai biết được ý sư.
Bấy giờ, sứ giả nước Ngô là Chu Linh Kỳ đi sứ Cao Ly, trên đường trở về gặp gió bão, thuyền phiêu bạt suốt chín ngày rồi lạc đến một hòn đảo, trên đảo có một ngọn núi rất cao. Linh Kỳ vào núi đốn củi, nhìn thấy một người đi đường, bèn dẫn mọi người lần theo để xin ăn. Đi hơn mười dặm, họ nghe tiếng khánh và mùi hương trầm, bèn cùng nhau lễ bái, niệm danh hiệu Phật. Chẳng mấy chốc, họ nhìn thấy một ngôi chùa rất tráng lệ, trang hoàn bằng bảy báu, lại thấy hơn mười người bằng đá, họ cùng lễ bái rồi quay trở về. Đi được mấy bước, họ nghe tiếng xướng đạo, [1] bèn quay lại nhìn kĩ vẫn là người đá. Linh Kỳ và mọi người đều cho là thánh tăng, bèn nói với nhau:
– Chúng ta là những ngưòi có tội nên không nhìn thấy được các ngài!
Họ cùng nhau chí thành sám hối, liền thấy được người thật. Chư tăng trong chùa dọn cơm nước tiếp đãi, thức ăn cũng là rau nhưng hương vị khác hẳn thế gian. Ăn xong, họ cùng nhau đảnh lễ, xin phép trở về quê nhà. bấy giờ có một vị tăng đến nói:
– Nơi này cách kinh đô hơn hai mươi vạn dặm, nhưng nếu chí tâm thì nhất định đi rất nhanh.
Vị tăng lại hỏi Linh Kỳ:
– Ông có biết ngài Bôi Độ không?
Linh Kỳ thưa:
– Dạ con biết!
Vị tăng chỉ lên vách phía bắc, ở đó có treo cái hồ lô, tích trượng, bình bát, và nói:
– Đây là chỗ ở của sư Bôi Độ, nay tôi nhờ ông mang bình bát và hộp thư này đến cho sư.
Rồi đưa riêng một cây gậy trúc và dặn:
– Ông ném cây gậy này xuống biển ngay trước mũi thuyền, đóng cửa ngồi yên không cần chèo chống, thuyền vẫn lướt nhanh.
Nói xong, vị tăng từ biệt và sai một sa di tiển đến cổng, lại dặn dò thêm:
– Các vị theo lối này bảy dặm sẽ thấy thuyền, không cần đi theo lối cũ.
Theo lời vị tăng, mọi người đi về hướng tây khoảng bảy dặm thì đến nơi. Ông ta làm y như lời vị Tăng dạy chỉ nghe tiếng thuyền lướt qua cây cối, núi non, hoàn toàn không thấy nước. Ba ngày sau, thuyền dừng ở sông Hoài tại Thạch, thì không thấy cây gậy trúc nữa. Thuyền đi theo sông Hoài đến Chu Tước, mọi người thấy sư Bôi Độ ngồi trên chiếc thuyền lớn, cầm cành lan quất vào mạn thuyền nói:
– Ngựa! ngựa! Sao không đi?
Người bên đường đứng xem rất đông, Linh Kỳ và mọi người trên thuyền từ xa đỉnh lễ. Sư xuống thuyền nhận thư và bình bát, mở thư xem, nhưng chữ viết trong thư không ai hiểu được. Sư cười lớn nói:
– Bảo ta trở về ư!
Nói xong, sư ném bình bát lên mây rồi lại đón lấy, nói:
– Đã bốn ngàn năm, ta không nhìn thấy cái bát này!
Sư thường ở chùa Diên Hiền với sư Pháp Ý. Người bấy giờ cho cái bát đó là vật khác thường, nên tranh nhau đến xem.
Có nô tỳ tên Dữu Thường ăn trộm đồ vật rồi bỏ trốn, tìm bắt khắp nơi nhưng không được, họ đem việc này hỏi sư, sư đáp:
– Nó chết rồi! Chôn ở bên sông tại Kim thành.[2]
Họ đến xem quả đúng như vậy.
Khổng Ninh Tử đương thời làm quan thị lang, mắc bệnh lị, cho người mang thư đến thỉnh sư, sư chú nguyện xong và nói:
– Khó qua khỏi, vì ta thấy bốn quỷ đều bị thương.
Ninh Tử khóc lóc nói:
– Trước đây Tôn Ân làm loạn, nhà cửa bị quân lính tàn phá, cha mẹ và chú đều chịu cảnh khổ sở.
Không bao lâu, Ninh Tử qua đời.
Sau, mẹ của Tề Giai là Hồ thị bị bệnh, nhưng không ai trị khỏi. Gia đình thiết lễ trai tăng cúng dường, một vị tăng khuyên ông ta đến thỉnh sư, được sư chú nguyện, bệnh bà ấy lành hẳn, Tề Hài kính phục, xin làm đệ tử, nhân đó viết truyện ký về sư.
Những chuyện thần kỳ của sư, xưa nay không thể nào ghi hết. Tháng 9 niên hiệu Nguyên Gia thứ ba (427), sư từ biệt Tề Hài, đi về hướng đông và gởi lại Tề Hài một vạn lạng bạc thay sư sắm sửa lễ vật cúng dường chư tăng. Sư đi đến bờ hồ ở Xích Sơn thì mắc bệnh rồi viên tịch. Tề Hài làm lễ trai tăng như lời sư dặn và thỉnh nhục thân sư về an táng tại núi Phú Chu tỉnh Kiến Khang.
Niên hiệu Nguyên Gia thứ tư (428) có Thiệu Tín ở Ngô Hưng tôn sùng Phật pháp, mắc bệnh thương hàn, không ai dám chăm sóc. Ông ta buồn khóc niệm bồ tát Quán Âm, bỗng thấy một vị tăng đến nói:
– Ông đừng đau buồn! Tôi là đệ tử sư Bôi Độ, thầy tôi sẽ đến trị liệu cho ông:
Thiệu Tín thưa:
– Sư Bôi Độ viên tịch đã lâu, sao đến đây được?
Vị tăng nói:
– Sống lại có khó gì?
Nói xong, vị tăng liền lấy trong đai ra một hộp thuốc đã tán nhỏ, cho uống, bệnh liền lành hẳn.
Lại có Đỗ Tăng Ai nhà ở chân núi phía nam, trước đây đã từng hầu hạ sư, con trai bị bệnh rất nặng, ông ta buồn tủi vì không còn được sư chú nguyện. Hôm sau, ông bỗng thấy sư đến nói chuyện như lúc sống còn chú nguyện cho con ông hết bệnh.
Tháng ba niên hiệu Nguyên Gia thứ năm (429), sư trở lại nhà Tề Hài. Lữ Đạo Huệ nghe nói rất xót xa, còn các vị như; Đỗ Thiên, Kỳ Thủy, Khâu Hy.v.v..nhìn thấy sư, họ đều kinh ngạc đến lễ bái. Sư nói với mọi người:
– Năm nay có đại nạn, phải siêng tu phước, sư Pháp Ý rất có đức, hãy đến nương theo, và tu sửa chùa chiền để trừ tai họa.
Một lát sau, ngoài cửa có một vị tăng gọi sư, sư bèn từ biệt, nói:
– Bần đạo sẽ về Giao Quảng, không trở lại nữa.
Tề Giai cùng mọi người lễ bái, ân cần đưa tiễn, thế rồi sư biến mất. Gần đây, mọi người bảo cũng có thấy sư.