Phật Học Vấn Đáp


Qủa vị Bất Thoái tu vô lượng kiếp mới được. Sao về cực lạc liền chứng ngôi Bất Thoái?
Kinh Vô Lượng Thọ (Đại Bản) ghi: “Người sinh về Cực Lạc, trụ trong Chánh Định Tụ”. Kinh A Di Đà ghi: “Chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc đều là bậc A bệ bạt trí”. Hỏi: Nếu luận bàn rộng về quả vị Bất Thoái, phải nói đến công đức tu tập trong vạn kiếp, nhưng sao chỉ niệm Phật một đời, thậm chí chỉ mười niệm lúc sắp chết đều được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn sinh về cõi Cực Lạc, chứng được Bất Thoái. Chỉ luận về công hạnh hẳn đã có sai khác như thế, thì làm sao phù hợp?
Đại Từ Ân tự Sa Môn Khuy Cơ | Dịch Giả :Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn | Xem: 314

8/30/2022 1:14:12 PM

Bất Thoái và Chánh Định, tuy khác tên gọi nhưng ý nghĩa giống nhau. Người tu hành có hai loại: người ở cõi uế, kẻ ở cõi tịnh.

Tu nhân ở cõi uế, cần phải trải qua vạn kiếp; còn khởi hạnh ở cõi tịnh vốn có nhiều đường. Nay trình bày về Bất Thoái. Luận Thập Trụ Tỳ bà sa nêu ra bốn loại:

  1. Vị Bất thoái: Chính là vạn kiếp tu nhân, ý nói thành tựu được Duy Thức Quán[33] thì không rơi vào hạnh Ác Luật Nghi[34], không còn luân hồi sinh tử nữa.
  2. Hạnh Bất Thoái: Đã được Sơ Địa, thành tựu Chân Duy Thức Quán, xả bỏ tâm Nhị Thừa, bất thoái hạnh lợi tha.
  3. Niệm Bất thoái: Địa thứ Tám trở lên, thật chứng trí vô công dụng[35], lúc định hoặc tán đều được tự tại, không có niệm lui sụt.
  4. Xứ Bất thoái: Tuy không có văn kinh luận minh chứng, nhưng dựa vào lý để thành lập. Vì sao? Như luận Tỳ Bà Sa nói: “Hàng A la hán căn thoái, nếu đắc quả trong cõi người thuộc Dục giới, thì gặp năm duyên lui sụt, sợ mất Thánh quả, khởi tu hoặc[36]. Đó là: đi xa, nhiều bệnh, thích tụng kinh điển, thích hòa giải tranh tụng, thích làm việc Tăng. Nếu đắc quả trong cõi trời, không gặp các duyên lui sụt, liền đạt được Bất Thoái, chứng nhập Vô Dư Niết bàn[37]”. Hành giả cũng như vậy, chưa đạt được ba Bất Thoái trước trong cõi người, nếu ở Sa bà thì sẽ trôi lăn trong sinh tử, đó là lẽ tất nhiên. Bởi vì cõi nhiễm này có năm duyên lui sụt:
  5. Mạng sống ngắn ngủi, nhiều bệnh tật.
  6. Nhiều duyên xấu ràng buộc, ngăn ngại tịnh tâm.
  7. Những tạp thiện của ngoại đạo làm loạn chánh hạnh.
  8. Cảnh giới sáu trần khuấy động tịnh tâm.
  9. Không thường thấy Phật, chẳng nghe được lời chỉ dạy của Phật.

Nếu thường ở trong cõi này thì gặp năm duyên lui sụt đó. Nhưng vãng sinh Tịnh Độ thì gặp được năm duyên tối thắng:

  1. Mạng sống lâu dài, không có bệnh tật.
  2. Bạn tốt dìu dắt.
  3. Toàn là chân chánh, không có tà vạy.
  4. Hoàn toàn thanh tịnh, không có cấu nhiễm.
  5. Luôn luôn phụng sự chư Phật.

Nhờ năm duyên này, nên được Bất Thoái. Xét về hành vị không thể sánh bằng, nhưng được cõi tốt duyên lành, lại không lui sụt. Giống như người ác thường làm việc bất thiện, gặp được bạn lành, xót thương khuyên bảo không còn kết thân với kẻ ác nữa, thường theo người hiền, cho đến suốt đời không tạo tội ác nữa.

____________
[33] Duy thức quán (Duy thức Pháp Thân quán): chỉ pháp quán về lý Pháp Thân, tức quán Phật và tâm là một thể. Pháp quán tự tánh thanh tịnh Phật tính là quán Phật từ tâm mình hiển bày, pháp quán Duy thức Pháp Thân thì quán Pháp Thân Phật đồng thể với Pháp Thân của mình, cho nên tên thì khác mà thể thì đồng (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1151).

34] Ác luật nghi (Bất luật nghi, Ác giới): Vô biểu sắc bất thiện sinh khởi do tham lợi hoặc do cuộc sống mà làm các nghiệp sát sinh…

Theo Luận Câu xá, q. 14: Ác luật nghi là điều mà người trí quở trách, nhàm chán, nên gọi là Ác hành, vì nó làm chướng ngại giới luật thanh tịnh, nên gọi là Ác giới; vì không ngăn hành vi ác của thân và ngữ, nên gọi là Bất luật nghi.

Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, 27 (bản Bắc): có 16 loại Ác luật nghi: 1. Nuôi dê cho mập, đem bán để lấy lời; 2. Mua dê làm thịt bán để lấy lời; 3. Nuôi heo cho béo, đem bán để lấy lời; 4. Mua heo làm thịt bán để lấy lời; 5. Nuôi trâu bò cho mập đem bán để lấy lời; 6. Mua trâu bò làm thịt bán để lấy lời; 7. Nuôi gà cho mập, đem bán để lấy lời; 8. Mua gà làm thịt bán để lấy lời; 9. Đánh cá; 10. Săn bắn; 11. Cướp giật; 12. Giết người; 13. Giăng lưới bắt chim; 14. Nói ly gián; 15. Làm cai tù; 16. Dùng chú thuật điều khiển rắn giúp người xem vui, thu lợi để kiếm sống.

Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân 6, nêu ra 12 loại Ác luật nghi: 1. Kẻ làm hàng thịt; 2. Đầu đảng giết người; 3. Nuôi heo; 4. Nuôi gà; 5. Đánh cá; 6. Săn bắn; 7. Giăng lưới bắt chim; 8. Bắt rắn; 9. Chú long; 10. Cai tù; 11. Làm kẻ cướp; 12. Vương gia sai bắt giặc (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr 84).

[35] Trí vô công dụng: trí tuệ không cần dụng công mà có được. Đối với Tiểu Thừa, Vô công dụng trí là trí huệ không do gia hạnh mà vẫn có được nhậm vận tự tại, là một trong Tứ trí do quả viên đức phân ra. Đối với Đại Thừa, Vô công dụng trí là trí của Bồ tát từ Bát địa trở lên, không nhờ thêm sự dụng công, tự nhiên khế hợp với chân tính. Trong mười địa của Bồ tát thừa, từ Bát địa trở lên là Vô công dụng địa, được trí nhậm vận vô công dụng, tự tại làm lợi ích cho chúng sinh, không bao giờ có niệm lui sụt (TĐPH Huệ Quang, t. 7, tr. 6070).

[36] Tu hoặc: còn gọi Tư hoặc. Gọi đủ là Tu đạo sở đoạn hoặc. Các Hoặc được đoạn trừ ở giai vị Tu đạo, tức các phiền não thuộc về mê sự: tham, sân, si được đoạn trừ khi hành giả tu tập đến giai vị Tu đạo (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4622).

 [37] Vô dư Niết bàn: Niết bàn hoàn toàn không có chỗ nương trụ, đoạn hết phiền não chướng, diệt hết quả khổ Dị thục do thân ngũ uẩn tạo thành; một trong bốn loại Niết bàn; một trong Cửu đế ( TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 6074).


Trích từ:  Tây Phương Yếu Quyết Thích Nghi Thông Quy .

Câu Hỏi Ngẫu Nhiên

Thẻ
Niệm Phật        Cực Lạc        Công Đức        Luận        Hạnh       

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật