Tại sao toàn bộ giáo lý của Phật Giáo gồm có cả đại thừa và tiểu thừa? Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang | Xem: 17


Câu Hỏi

Tại Sao Toàn Bộ Giáo Lý Của Phật Giáo Gồm Có Cả Đại Thừa Và Tiểu Thừa?

Trả Lời

Muốn nhận thức vấn đề, chúng ta phải xét cái nguyên lý "Phật Giáo vì căn cơ chúng sinh mà thiết lập", nói khác đi cho dễ hiểu, là do nhu cầu mà có và phải có. Vì vậy, vấn đề lịch sử của giáo lý Phật Giáo chưa tìm xét đầy đủ, nhưng giá tìm xét được đầy đủ đi nữa cũng không đủ để phủ nhận hay thành lập giáo lý Đại thừa. Đức Phật đã tuyên bố bất cứ giáo lý nào của Ngài cũng do căn cơ—do nhu cầu của người mà thiết lập và phải thiết lập. Tiểu thừa có là có vì sự nhu cầu giáo lý ấy. Đại thừa cũng vậy, sự nhu cầu đã có và còn có mãi thì Đại thừa đã có, phải có và còn có mãi trong toàn bộ giáo lý của Phật Giáo. Cho nên đối với giáo lý ngày nay, không phải tranh chấp giáo lý nào nguyên thỉ, giáo lý nào tiến triển mà cần phải chú ý vấn đề nhu cầu. Mà nói đến vấn đề nhu cầu thì giáo lý nào cũng vậy, dầu nguyên thỉ, dầu tiến triển, nếu cung ứng cho sự nhu cầu được là có, cần có và có mãi một cách có giá trị, trái lại, nếu không cần cho sự nhu cầu của con người thì dầu có cũng không có giá trị, nữa là cần có và có mãi. Xưa, sự nhu cầu nào đã vì đó mà có ra giáo lý Đại thừa thì ngày nay và ngày sau, sự nhu cầu ấy vẫn còn và vẫn còn đòi hỏi giáo lý Đại thừa.

Sự nhu cầu ấy là gì? Là thật hiện trí giác vô thượng và cứu vớt chúng sinh khổ não, nói tóm là thành Phật. Phải thật hiện trí giác vô thượng mới giác ngộ hoàn toàn và thanh tịnh triệt để, phải giáo hóa chúng sinh khổ não mới tự lợi cứu cánh và lợi tha viên mãn, nói tóm là phải thành Phật mới đạt đến, mới thật hiện tất cả nhu cầu cao tột của con người. Thành Phật, như vậy, là sự nhu cầu hợp lý tuyệt đối phải có. Mà sự nhu cầu ấy phi giáo lý Đại thừa, không có giáo lý chi có thể cung cấp cho nó, làm cho nó thật hiện.

Đức Phật chưa bao giờ tuyên bố không ai có thể thành Phật. Ở tiểu thừa vì sự nhu cầu này chưa có—căn cơ còn kém cõi nên Ngài chưa tuyên bố gì, nhưng vẫn tuyệt nhiên không tuyên bố có ai không thể thành Phật, không tuyên bố địa vị La hán tức là địa vị Phật đà, nhất là không tuyên bố chỉ có ngài mới là đức Phật. Trái lại, chính trong giáo lý tiểu thừa, ở đâu đức Phật cũng tỏ lộ ra cái ý La hán chưa phải Phật đà, mà lại chủ trương bình đẳng: ai cũng có thể như Ngài. Bởi vậy, đến một giáo lý cao hơn để cung ứng cho một nhu cầu xứng hợp với ý muốn của Phật, nhu cầu muốn thành Phật, thì đức Phật minh bạch tuyên bố "ai cũng có Phật tánh", "tất cả đều có thể thành Phật", và "Ngài xuất hiện giữa thế gian này chỉ vì một đại sự duy nhất: khai thị Phật tri kiến cho chúng sinh ngộ nhập." Giáo lý ấy, vì vậy, đức Phật mệnh danh là Đại thừa.

Nhưng địa vị Phật đà có những gì? Phải có những gì mới thành Phật? Giáo lý Đại thừa có gì mà chỉ nó mới làm cho ta thành Phật? Tại sao giáo lý tiểu thừa không thể cung ứng cho sự nhu cầu ấy được? Đó là 4 câu hỏi để chứng minh toàn bộ giáo lý của Phật Giáo có Đại thừa, phải có Đại thừa. Dưới đây là sự giải đáp tuần tự.

Trước hết, địa vị Phật đà là địa vị có đủ ba đức: 1) trí đức, là giác ngộ tận cùng tất cả tánh tướng dụng của các pháp, 2) đoạn đức, là diệt hết sạch phiền não si mê, 3) ân đức, là giáo hóa cứu độ tất cả muôn loài. Do ba đức này, địa vị Phật đà là Địa vị vô thượng: địa vị hoàn toàn. Như vậy, phải có ba đức mới gọi là Phật. Chính vì ba đức này mà địa vị La hán không phải tức là địa vị Phật đà. Mà ba đức đó, tiềm năng của chúng nó là bi, trí, dũng, những tiềm năng mà hễ có tâm thức là có đủ tất cả, cho nên ba đức không một hữu tình nào không thể hoàn thành, chứ đừng nói là loài người. Nói khác đi, ai cũng có thể thành Phật như đức Phật đã chứng minh và tuyên bố, vì ai cũng cụ thể tất cả tiềm năng của ba đức ở địa vị Phật đà cả.

Thứ hai, địa vị Phật đà đã có 3 đức vĩ đại như vậy thì hoàn thành nó, tất phải có những cái nhân vĩ đại. Cái nhân ấy, như vừa nói, thì có thể thấy là bi trí dũng chứ không chi khác. Nhưng bi trí dũng phải hoạt dụng ra cho thành trí đức, đoạn đức, ân đức, nói tóm, là phải thực hành bồ tát hạnh: có bồ tát hạnh mới thành quả vị Phật đà. Bồ tát hạnh gồm có hai phần căn bản phải có, là 1) đại nguyện, 2) đại hạnh. Đại nguyện là trên, quyết chí thật hiện cho được trí giác vô thượng, dưới, quyết chí giáo hóa cho khắp muôn loài chúng sinh. Vì đại nguyện đó mà phải có đại hạnh. Đại hạnh là đại phước đức tức thật hành mọi sự tự lợi lợi tha, và là đại trí tuệ tức thật hành mọi cách tự giác giác tha. Có đại nguyện và đại hạnh như vậy mới thật hiện đại quả là địa vị Phật đà.

Thứ ba, chỉ có giáo lý đại thừa có 7 thứ vĩ đại (trong phần đại cương giáo lý đã trình bày) mới chỉ rõ Bồ tát hạnh, làm cho ta trải qua ba vô số kiếp thật hiện được quả vị Phật đà. Điều này không còn phải thảo luận gì nữa. Vấn đề đã hết nghi địa. Bởi một lẽ rất giản dị, Phật quả chỉ là đại quả mà Bồ tát hạnh chỉ là đại hạnh của giáo lý đại thừa. Giáo lý nào có tính chất như vậy cũng tức là giáo lý đại thừa rồi, dù giáo lý ấy nằm trong kinh luận tiểu thừa chăng nữa.

Nhưng sự thực, trong kinh luận tiểu thừa không có giáo lý đó, nên giáo lý này không thể thay vì giáo lý đại thừa, làm cái việc của đại thừa là làm cho người thành Phật. Tại sao, đó là lời giải thích của câu hỏi thứ tư. Sự giải thích ấy là chúng ta không thể tìm thấy những đức tánh vĩ đại của quả vị Phật đà và dĩ nhiên cũng không tìm thấy những hành vi vĩ đại của Bồ tát hạnh trong giáo lý tiểu thừa. Giáo lý phải có lý, có hạnh, có quả, mới là giáo lý. Nghĩa là phải có lý thuyết, có phương pháp thực hiện lý thuyết, và có kết quả của sự thực hiện ấy, mới là một giáo lý cụ thể. Mà ở tiểu thừa, về "lý", tuy thỉnh thoảng Phật đã chỉ dạy một cách quan trọng, những căn bản của giáo lý đại thừa, nhưng chỉ hé ra một vài câu lưa thưa, đôi ba chữ rải rác. Đến như "hạnh" và "quả" thì tuyệt nhiên không có tính chất vĩ đại của đại hạnh và đại quả. Bởi vậy, về phần "lý", giá nếu có tìm thấy được đôi phần hợp với giáo lý đại thừa thì chỉ có thể do đó, chứng minh đại thừa cũng là giáo lý nguyên thỉ mà thôi, không thể làm căn bản phát khởi đại hạnh để thật hiện đại quả được. Cũng bởi vậy, giáo lý tiểu thừa mà học cho thấu lý, làm cho đến hạnh thì mới càng thấy chỉ có thể được quả La hán, một quả vị nhỏ hẹp, chỉ tương đương với lý và hạnh đã làm nhân địa cho nó mà thôi. Giáo lý tiểu thừa nếu về "lý" mà thuyết minh rõ tánh tướng dụng, về "hạnh" mà buộc phải tự giác giác tha, về "quả" mà có đủ trí đức, đoạn đức và ân đức, thì hành giả tiểu thừa đã chẳng chống với giáo lý đại thừa và đã chẳng không tự thấy mình cũng là đức Phật vị lai trong khi lạy Phật.

Cho nên, nói tóm, Phật Pháp do căn cơ mà thiết lập. Có căn cơ nhu cầu tiểu thừa nên có giáo lý tiểu thừa, có căn cơ nhu cầu đại thừa nên cógiáo lý đại thừa, cho đến thấp hơn hai giáo lý này, có những căn cơ chỉ nhu cầu nhân thiên phước lạc nên có giáo lý biến tướng là nhân thừa và thiên thừa. Phật Pháp như một viên ngọc pha lê mà bốn phía vật gì cũng ảnh hiện đủ cả, nên toàn bộ của Phật Pháp là đủ và phải đủ cả đại thừa và tiểu thừa. Đó là nói phần bao quát chứ chưa nói đến phần đặc biệt. Nếu ở phần này thì " Phật ra đời là để làm cho người thành Phật", như vậy giáo lý của Ngài đương nhiên chỉ là Đại thừa; ở Đại thừa đó, vì căn cơ nghĩa là vì cung ứng cho mọi nhu cầu, Phật đã tỉa ra, thiết lập tiểu thừa cho đến nhân thừa, thiên thừa. Phần đại cương giáo lý, với ba hệ thống đã vạch, đã nói kỹ càng những điểm trên đây.