Skip Navigation LinksHome > Học Phật > Tự Điển Phật Học

Tự Điển Phật Học

A Á Â Ă B C D Đ E É È Ê G H I Í J K L M N O Ó Ô Ơ P Q R S T U Ú Ù Ư V W X Y Ý

Rờ Voi


(摸象, mozō, mô tượng): thí dụ nói về việc câu nệ vào ngôn ngữ văn tự của kinh điển, luận thư Phật Giáo mà không biết được toàn thể của Phật đạo. Câu chuyện “hạt tử mô tượng (瞎子摸象, người mù rờ voi)” này được thuật lại rất rõ trong các kinh như Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) 32, Thú Điểu Phẩm (獸鳥品) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經) 19, Nghĩa Túc Kinh (義足經) quyển Hạ, v.v. Như trong Lăng Nghiêm Kinh Chứng Sớ Quảng Giải (楞嚴經證疏廣解, CBETA No. 288) có đoạn rằng: “Hữu chư manh nhân, quần thủ mô tượng, kỳ mô tỷ giả vân tượng như ky; kỳ mô dịch giả vân tượng như trụ; kỳ mô vĩ giả vân tượng như trửu, kỳ mô phục giả vân tượng như thạch, nãi chí mô nhãn tắc vân như cổ phong thác, mô nhĩ tắc vân như đảo thùy diệp, mô đề tắc vân như phú địa bôi (有諸盲人、群手摸象、其摸鼻者云象如箕、其摸股者云象如柱、其摸尾者云象如帚、其摸腹者云象如石、乃至摸眼則云如鼓風橐、摸耳則云如倒垂葉、摸蹄則云如覆地杯, có các người mù lấy tay rờ voi, người rờ lỗ mũi thì bảo con voi giống như cái nia; người rờ bắp đùi thì bảo con voi giống như cột nhà; người rờ đuôi thì bảo con voi giống như cái chổi; người rờ bụng thì bảo con voi giống như tảng đá; cho đến người rờ con mắt thì bảo giống như ông bễ thổi gió; rờ lỗ tai thì bảo giống như lá rũ xuống; rờ móng chân thì bảo giống như cái bát úp xuống).” Hay như trong Tông Giám Pháp Lâm (宗鑑法林, CBETA No. 1297) quyển 33, có câu: “Mô tượng manh nhân thuyết dị đoan, hô ngưu hoán mã các ban ban (摸象盲人說異端。呼牛喚馬各般般, rờ voi người mù nói khác nhau, bảo trâu luận ngựa thảy oang oang).”