Home > Khai Thị Phật Học > Ngu-Trang-Ngu-Dot
Ngu Trang (Ngu Dốt)
Sa Môn Thích Đạo Thế chùa Tây Minh | Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, Việt Dịch


Thiên này có ba phần: Thuật ý, Bàn Đà, Tạp si.

Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý

Ngu si đần độn, là gốc rễ của mọi thứ bệnh, là nguồn gốc làm chướng ngại đạo, khiến cho mờ mịt trong ba hữu chìm đắm giữa bốn lưu, sáu tình luôn đóng lại ba độc luôn mở ra; hỏi đến sướng miệng mở lời thành xằng bậy, quá ngu si không thể giúp đỡ làm cho phấn chấn, thích danh tiếng không thể đầy đủ để đạt mục đích; góp thiện tâm bằng đầu ngọn cỏ, nhổ hung tàn từ nơi nguy hiểm, ngu dốt không phân biệt được cây đậu cây lúa, đâu biết ngu si mê muội là tội lỗi không gì lớn hơn!

Thứ hai: PHẦN BÀN ĐÀ

Như trong Thiện Kiến Luật nói: Bàn Đà, Trung Hoa nói là Lộ Biên Sanh. Tại vì sao? Bởi vì mẹ của Bàn Đà vốn là con gái gia đình Trưởng giả rất giàu có, Trưởng giả chỉ có một cô con gái này, thương yêu rất sâu nặng, làm lầu cao bảy tầng dành riêng cho con gái, sai một người tôi tớ cung cấp cho những thứ cần dùng. Người tôi tớ trưởng thành được dịp thuận tiện qua lại tư thông với nhau, bèn cùng với người tôi tớ tìm cách lo liệu: Nay thiếp cùng chàng trốn đến nước khác! Ba lần hỏi ý người tôi tớ như vậy, người tôi tớ nói rằng không thể nào đi được. Cô gái nói với người tôi tớ rằng: Nếu chàng không đi thì cha mẹ thiếp biết chắc chắn sẽ giết chàng. Người tôi tớ trả lời rằng: Nếu tôi đi đến nơi khác thì nghèo túng không có của cải, làm sao sinh sống được? Có gái nói với người tôi tớ rằng: Chàng cứ đi theo thiếp, thiếp sẽ lấy trộm châu báu cùng chàng mang đi. Người tôi tớ trả lời rằng: Nếu như vậy thì tôi đi cùng nàng. Cô gái này ngày ngày lấy trộm châu báu đưa cho người tôi tớ, mang ra cất giấu ở bên ngoài. Đoán chừng được đủ gánh dành cho hai người, cô gái khiến người tôi tớ đi ra ở bên ngoài trước cùng đợi nhau. Cô gái này thì mượn áo quần nô tỳ mặc vào khóa trái cửa mà ra ngoài, cùng với người tôi tớ theo nhau rời xa đến nước khác, tìm nơi dừng lại sinh sống. Trong một vài năm thì mang thai sắp sinh con, tâm tự nghĩ rằng: Nay mình ở đây nếu sinh đẻ thì không có ai để sắp xếp giúp đỡ. Suy nghĩ nhớ đến mẹ nên muốn được trở về nhà, cùng với chồng trù tính, nhưng người chồng không đi, nói rằng nếu quay về thì nhất định sẽ giết chết tôi. Người chồng đi vào núi đốn củi không ở nhà, sau đó người vợ đóng cửa mà đi. Người chồng trở về không thấy vợ mình, liền hỏi hàng xóm có thấy vợ mình không? Đáp rằng: Vợ ông đã đi rồi. Người chồng lập tức đuổi theo đến giữa đường thì gặp, người vợ đã sinh một cậu con trai. Người chồng nói với vợ rằng: Nàng vì sắp sinh cho nên phải đi, nay nàng đã sinh thì đâu cần phải đi chứ? Người vợ nghe lời liền quay về. Sau đó không lâu, lại tiếp tục mang thai, sắp sinh lại ra đi, đến được nửa đường lại sinh một cậu con trai, người chồng đuổi theo giữa đường thì gặp và cùng quay về. Cả hai cậu bé đều sinh ra ở bên đường, cho nên nhân tiện đặt tên là Bàn Đà. Anh em Bàn Đà và các trẻ nhỏ hàng xóm cùng chơi đùa, hai cậu bé mạnh hơn đánh những trẻ nhỏ hàng xóm, những đứa trẻ nắng rằng: Bọn mày không có lục thân quyến thuộc, cô đơn ở nơi này, sao dám đánh bọn tao? Hai cậu bé nghe mắng như vậy trở về nhà khóc tức tưởi, hỏi mẹ về việc này. Mẹ im lặng không trả lời. Hai cậu bé khóc to nức nở không chịu ăn uống. Mẹ thấy hai con không chịu ăn uống nghĩ mà thương con bèn nói cho biết sự thật ấy. Hai cậu bé nghe rồi liền nói với mẹ rằng: Đưa con về nhà ngoại chứ không thể nào ở đây được. Mẹ không đồng ý, hai cậu bé khóc tức tưởi không thôi. Mẹ cùng với chồng trù tính liền cùng nhau đưa đến bên ngoài cổng nhà ngoại, nhờ người báo cho cha mẹ biết. Cha mẹ nghe rồi trả lời rằng: Để hai đứa trẻ đi vào, còn cha mẹ chúng không cần phải gặp mặt. Trưởng giả liền sai người đón hai đứa trẻ vào. Vào nhà rồi lấy nước ấm pha hương tắm rửa mặc áo quần đeo chuỗi ngọc, ôm lấy hai đứa trẻ đặt trên hai đùi gối, hỏi rằng: Mẹ cháu ở nơi xứ người sinh sống ra sao, không quá nghèo túng thiếu thốn chứ? Hai đứa trẻ đáp rằng: Ở xứ người nghèo thiếu đốn củi để bán mà tự sinh sống. Người mẹ nghe mà nghĩ thương bèn lấy túi đựng vàng bạc sai người đưa cho con gái, nói cho biết rằng: Con để hai đứa trẻ lại đây mẹ tư nuôi dưỡng chăm sóc, con đem vàng bạc này trở về nơi ở trước đây có thể tự mình sinh sống, không cần phải để cho mẹ gặp mặt làm gì. Hai đứa trẻ lớn lên cưới vợ cho chúng, ông bà tuổi già đến lúc sắp mất, đem tất cả gia nghiệp của mình giao cho hai đứa cháu. Ông bà đã mạng chung, người anh đem việc nhà giao cho người em rồi xuất gia, xuất gia không bao lâu thì đạt được quả vị La hán. Người em chán ngán cõi tục, sau đến nơi người anh mà mong cầu xuất gia, người anh liền độ cho em. Người anh dạy cho một bài kệ, bốn tháng học không thuộc, quên trước mất sau. Người anh trách móc nghĩ rằng: Người này không có duyên với Phật pháp. Thế là bảo nên quay về nhà, liền thâu ca sa đuổi ra ngoài cổng, người em bị đuổi ra ngoài cổng thì đứng lại khóc nức nở không muốn về nhà. Lúc bấy giờ Đức Thế tôn dùng Thiên nhãn quan sát nhìn các chúng sanh, thấy Châu La Bàn Đà hợp duyên có thể hóa độ, Ngài liền đi đến người em hỏi vì sao mà khóc. Bàn Đà trả lời đầy đủ với Đức Thế tôn về nhân duyên bị người anh đuổi. Đức Phật biết không phải là khả năng Thanh Văn mà độ được, thế là dẫn đến chỗ khác. Đức Thế tôn an ủi tâm tư Bàn Đà, liến lấy một ít vải bông trắng đưa cho Châu La Bàn Đà và bảo rằng: Con cầm vải bông này hướng về phía mặt Trời mà giũ sạch, nên khởi lên ý nghĩ này: Lấy cáu bẩn lấy cáu bẩn! Đức Thế tôn dạy bảo xong thì đi vào thôm xóm, thọ nhận sự thỉnh cầu của mẹ Tỳ Xá Khư. Đức Thế tôn đến nửa đường quán sát thấy Bàn Đà sắp đạt được đạo quả, Ngài liền thuyết kệ rằng:

Người đi vào vắng lặng hoan hỷ,
Thấy pháp trong lòng được an lạc,
Trước tiên vui nhất là không giận,
Không làm tổn hại đến chúng sanh.
Thế gian không có dục lạc nào,
Vượt ra khỏi vòng vây ái dục,
Nếu như điều phục được Ngã mạn,
Thì đây là niềm vui bậc nhất.

Lúc bấy giờ Châu la bàn đà, từ xa nghe kệ này liền đạt được quả vị A la hán.

Lại trong kinh Tăng Nhất A hàm nói: Chu lợi bàn đặc, Đức Phật dạy nắm cái chổi quét (Tảo Tuệ) khiến học thuộc, thuộc chữ Tảo thì quên chữ Tuệ, thuộc chữ Tuệ thì quên chữ Tảo, trải qua mấy ngày mới thuộc được hai chữ Tảo Tuệ. Tiếp tục nói hai chữ Trừ Cấu, Bàn đặc suy nghĩ: Tro đất gạch đá, nếu trừ bỏ thì được thanh tịnh; phiền não ràng buộc là cấu bẩn, trí tuệ có năng lực diệt trừ, nay mình dùng trí tuệ để quét sạch sẽ các phiền não ràng buộc.

Lại trong Tân bà sa Luận nói: Người anh giảng dạy một bài kệ Già đà, trải qua bốn tháng mà học không thuộc được, người anh trách mắng đuổi về. Lúc bấy giờ Đức Thế tôn trông thấy khóc lóc thật đáng thương, liền dùng thần lực chuyển kệ Già đà mà người em đã học trước kia, tiếp tục giảng dạy cho biết, lập tức học được thuộc lòng. Qua 4 tháng đã dụng công vất vả, lại được dạy cho bài tụng để trừ sạch bụi bẩn, mà bảo cho biết rằng: Hôm nay có những Tỳ kheo từ nơi khác đến, thì con đều có thể vì họ mà chùi tất cả bụi bẩn trên giày dép cho họ! Tiểu Lộ cung kính vâng theo lời dạy thực hành nghiêm túc. Đến lúc chiều tối có một Tỳ kheo, giày dép dính đất bụi bẩn, Tiểu Lộ vẫn miệt mài lau chùi, một chiếc rất sạch, nhưng một chiếc lau mãi mà không làm sao sạch được, liền dấy lên nghĩ rằng: Vật bên ngoài dính đầy bụi bẩn, tạm thời hãy còn có thể chùi sạch, ví như tham dục sân si và những cáu bẩn bên trong, vấy nhiễm lâu dài nơi tâm nhờ vào đâu mà có thể sạch được? Lúc dấy lên ý niệm này, thì quán bất tịnh và trì tức niệm liền hiện rõ ở trước mắt, tiếp theo thứ tự liền đạt được quả vị A la hán. Hỏi: Tiểu Lộ vì duyên gì mà ám độn như vậy? Đáp: Tôn giả Tiểu Lộ, ở trong giáo pháp của Đức Phật Ca diếp Ba xưa kia, thọ trì đầy đủ ba Tạng của Đức Phật, bởi vì cáu bẩn tham tiếc giáo pháp che lấp tâm tư mà không hề giản giải cho người khác, nghĩa lý lĩnh hội từ lâu bị bỏ quên, do nghiệp ấy cho nên nay phải chịu quả báo vô cùng ám độn như vậy. Có nơi nói rằng: Tôn giả ấy đã từng ở trong thành Bà la ni tư làm người buôn heo, trói năm trăm con heo chuyển đến đặt trên thuyền vượt sông đến bờ bên kia, đến lúc xuống thuyền, bởi vì hơi thở không thông cho nên năm trăm con heo đều đã chết; bởi vì nghiệp lực ấy mà bị ám độn như vậy. Có nơi nói rằng: Tôn giả ấy xưa ở trong đời khác, đã từng bít chặt cửa hang của loài thú Cù Đà, khiến không vượt ra ngoài được, mà chết ở trong hang, bởi vì nghiệp ấy cho nên ám độn như vậy.

Lại trong kinh Xứ Xứ nói: Đức Phật dạy: Xưa kia Tỳ kheo Chu lợi bàn đặc, học hỏi trải qua hai mươi bốn năm, chỉ được năm chữ Nhiên Giải Câu Bất Ưu. Tại vì sao? Bởi vì túc mạng vốn có, lại được thấy năm trăm Đức Phật thảy đều biết thông suốt các kinh, nhưng bởi vì cất giấu kinh đạo không chịu chỉ bày cho người khác. Về sau bị bệnh hai mươi bốn ngày, lúc sắp chết mới hối hận gọi người dạy cho. Nhờ có một chút phước thiện này cho nên biết được năm chữ, huống hồ đem tất cả giảng dạy cho người, thì phước thiện có được không thể kể hết.

Lại trong kinh Pháp Cú nói: Thời Đức Phật tại thế có một Tỳ kheo tên là Chu lợi bàn đặc, lúc mới làm người xuất gia bẩm tính rất ám độn, Đức Phật bảo năm trăm vị A la hán ngày ngày dạy dỗ, trong ba năm không được một bài kệ. Bốn chúng đệ tử trong nước đều biết người này thật ngu tối. Đức Phật thương xót dạy cho một bài kệ: Giữ miệng giữ ý thân đừng phạm, thực hành như vậy được độ thoát. Nay ông tuổi già mới thuộc được một bài kệ, mọi người đều biết đó không lấy gì làm lạ, bây giờ Ta sẽ giải thích về nghĩa lý ấy cho ông. Bỗng nhiên tâm tư thông suốt đạt được quả vị A la hán. Lúc ấy vua Ba tư nặc cung thỉnh Đức Phật và chúng Tăng, thiết hội tại chánh điện. Đức Phật muốn hiện rõ uy thần của Bàn đặc, đưa bình bát khiếm ôm theo sau mà đi. Lính giữ cổng biết Bàn đặc nên giữ lại không cho đi vào, nói rằng: Ông làm Sa môn mà một bài kệ không thuộc được, làm sao thọ nhận cúng dường, tôi là người phàm tục mà còn biết được bài kệ, huống là Sa môn mà không có trí tuệ, bố thí cho ông chẳng ích lợi gì cho nên không cần phải bước vào cổng. Bàn đặc liền dừng lại bên ngoài cổng. Đức Phật an tọa trên chánh điện rửa tay lau mặt đã xong, Bàn đặc nâng bình bát duỗi cánh tay từ xa mà trao cho Đức Phật. Nhà vua và quần thần phu nhân Thái tử cùng 4 chúng đệ tử trong pháp hội, trông thấy cánh tay đưa vào mà không thấy thân hình người ấy, cảm thấy quái lạ mà thưa hỏi Đức Phật: Đây là cánh tay của người nào? Đức Phật bảo rằng: Chính là cánh tay của Tỳ kheo Bàn đặc có đức có tài ấy mà. Thế là thỉnh vào chánh điện uy thần gấp bội thường ngày. Nhà vua thưa với Đức Phật rằng: Nghe Tôn giả Bàn đặc bổn tánh ngu si đần độn mới biết được một bài kệ, duyên gì mà đắc đạo? Đức Phật bảo với nhà vua rằng: Học không cần phải nhiều thực hành mới là bậc nhất, Bàn đặc có tài có đức hiểu được nghĩa của một bài kệ, tinh hoa lý lẽ với thần thái, thân miệng ý vắng lặng, thanh tịnh như vàng ngọc cõi Trời; tuy là học nhiều mà không thực hành thì chỉ có mất ý thức tâm tưởng chứ có lợi ích gì đâu! Ngay sau đó Đức Thế tôn liền thuyết kệ rằng:

Tuy học thuộc ngàn chương,
Câu nghĩa không chính xác,
Không bằng một điểm chính,
Nghe có thể diệt ý.
Tuy học thuộc ngàn lời,
Không biết nghĩa ích gì,
Không bằng một ý nghĩa,
Nghe thực hành giải thoát.
Tuy học thuộc nhiều kinh,
Không hiểu nghĩa ích gì?,
Hiểu nghĩa một câu pháp,
Thực hành nên đắc đạo.

Cùng nghe kệ này có hai trăm Tỳ kheo đạt được quả vị A la hán, nhà vua và quần thần phu nhân Thái tử, mọi người đều hoan hỷ.

Lại trong kinh Pháp Cú Dụ nói: Xưa có một nước tên là Đa ma la, cách đô thành bảy dặm có một tinh xá, có năm trăm Sa Môn thường ở trong đó đọc tụng kinh điển hành đạo. Có một Tỳ kheo già tên gọi Ma ha lô, là người rất ám độn, năm trăm Đạo nhân thay nhau cùng chỉ dạy, trong mấy năm Trời không học được một bài kệ, mọi người cùng khinh chê không mong cùng gặp gỡ nhau, mà thường cho trông giữ tinh xá sai khiến quét dọn rác rưỡi. Sau đó vào ngày Quốc vương thỉnh các Đạo nhân vào cung cúng dường, Tỳ kheo Ma ha Lộ tự nghĩ rằng: Mình sống giữa thế gian mà ám độn như vậy, không biết một bài kệ nên bị mọi người khinh rẻ, sống có ích gì? Thế là nắm dây thừng đi đến dưới cây to trong vườn phía sau muốn tự thắt cổ chết. Đức Phật dùng Đạo nhãn từ xa trông thấy như vậy, hóa làm Thọ thần hiện ra nửa thân người mà trách mắng rằng: Tỳ kheo quái gở, vì sao làm như vậy? Ma ha lô bèn trình bày đầy đủ mọi nỗi đắng cay. Hóa thần trách rằng: Không được làm điều này, hãy tạm thời nghe Ta nói! Vào thời xa xưa lúc Đức Phật Ca diếp tại thế, ông làm Sa môn thông suốt Tam Tạng, có năm trăm đệ tử cho mình là người nhiều trí tuệ mà khinh mạn mọi người, tham tiếc ý nghĩa kinh điển mà không giảng dạy chỉ bày, vì vậy đời đời sanh ra các căn ám độn, chỉ nên tự trách mình chứ tại sao tự coi rẻ mình? Ngay sau đó Đức Thế tôn hiện bày hình tượng thần thông sáng chói, vì Tỳ kheo mà thuyết kệ rằng:

Người tự quý thân mình,
Giữ gìn thật cẩn thận,

Hy vọng muốn giải thoát,
Học đích thực không ngủ.
Thân là vật quý nhất,
Nên tự mình gắng học,
Lại mới dạy cho người,
Không biết mệt là trí.
Học trước phải sửa mình,
Sau đó sửa cho người,
Điều phục thân vào tuệ,
Ắt trở lại bậc cao.
Thân không lợi ích được,
Sao có thể lợi người,
Tâm điều phục ngay thẳng,
Nguyện nào không đạt được?
Trước do mình tạo ra,
Sau chính mình nhận lấy,
Làm ác tự mình chịu,
Như thép xuyên qua ngọc.

Tỳ kheo Ma ha lô thấy Đức Phật hiện thân tướng sáng ngời, buồn vui xem trong sợ hãi, rập đầu lạy dưới chân Đức Phật, tư duy nghĩa lý bài kệ, liền đi vào Định ý đạt được quả vị A la hán, tự biết túc mạng vô số đời kiếp của mình, Tam Tạng kinh điển tức thì xuyên suốttrong tâm. Đức Phật bảo với Ma ha lô: Khoác y ôm bát đến Vương cung thọ được, ngồi ở phía trên năm trăm Đạo nhân, nghĩa Đạo nhân này là năm trăm đệ tử đời trước của ông, lại vì họ thuyết kinh khiến đạt được dấu tích của đạo, và làm cho Quốc vương sáng tỏ tin vào tội phước! Lập tức vâng theo lời Đức Phật dạy mà đi thẳng vào Vương cung ngồi ở chỗ phía trên. Mọi người trong lòng cảm thấy lạ không rõ nguyên cớ, tất cả theo ý nhà vua không dám quở trách gì, nghĩ rằng người ngu si đó không hiểu được tâm bố thí làm cho mệt mỏi. Nhà vua liền bưng thức ăn tự tay mình đặt vào mà suy nghĩ xem xét sự việc này là thế nào. Ma hô lô liền nói về bố thí cho mọi người nghe, âm thanh giống như sấm động ngôn từ trong trẻo giống như mưa tuôn. Đạo nhân trên chỗ ngồi kinh sợ tự hối hận, đều đạt đến quả vị La hán; thuyết pháp cho nhà vua không có gì không giải thích rõ ràng, văn võ bá quan đều đạt được quả vị Tu đà hoàn.

Thứ ba PHẦN TẠP SI

Đập muỗi: Trong Thập Tụng Luật nói: Đức Phật thuyết kinh Bổn Sanh cho các Tỳ kheo rằng: Quá khứ có người nhuộm áo hói đầu, cùng với con trai mang áo đến bên bờ nước giặt giũ rồi phơi khô mang trở về. Lúc bấy giờ Trời rất nóng nên mắt tối sầm, giữa đường gặp một tán cây, bèn lấy bọc áo gối dưới mà ngủ. Có con muỗi bay đến hút máu trên đầu người ấy, cậu con trai thấy cha rất mệt nỏi đã nằm ngủ, thì phát ra Ác ý mắng rằng: Con muỗi ti tiện xấu xa này, tại vì sao đến hút máu cha ta? Liền cầm cây gậy to sắp đánh con muỗi. Con muỗi bay đi mà gậy đánh vào đầu, người cha chết tại chỗ. Lúc ấy Thọ thần liền thuyết kệ rằng:

Thà rằng cùng người trí tuệ kết thù,
Chứ không thân thiết với người ngu,
Ngu vì muỗi mà hại đến cha,
Muỗi bay mà đánh vỡ đầu cha.

Đập ruồi: Trong kinh Hiền Ngu nói: Trong nước Xá Vệ có một ông lão xuất gia, đứa con nhỏ thì làm Sa di, cùng với cha đi vào thôn khất thực, thôn xa Trời tối, cha già đi chậm, người con sợ thú dữ nên giúp người cha đi nhanh, đẩy cha ngã xuống đất lập tức mà chết. Đức Phật dạy: Ta biết tâm con không có Ác ý, không nhận chịu tội lỗi sát hại, đây là do thời quá khứ người cha bị bệnh đang nằm ngủ, có nhiều ruồi nhặng bay đến liên tục quấy nhiễm làm cho phiền muộn. Người cha khiến đuổi ruồi, ruồi bay đến trên trán người con, liền dùng gậy đánh ruồi nhưng lại giết chết con mình, cũng không phải vì Ác ý mà nay trở lại trả báo lẫn nhau thôi.

Cứu vầng trăng: Trong Tăng Kỳ Luận nói: Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Vào thời quá khứ có khu thành tên gọi Ba la nại, nước tên gọi Già Thi, ở nơi rừng sâu vắng lặng có năm trăm con khỉ đi khắp nơi trong rừng, đến dưới một cây Ni câu luật, dưới tán cây có cái giếng, trong giếng có vầng trăng ảnh hiện. Lúc ấy con khỉ đầu đàn trông thấy hình ảnh vầng trăng này liền nói với bầy đàn rằng: Vầng trăng hôm nay chết mà rơi vào trong giếng, nên cùng nhau kéo lên, đừng để cho thế gian tối tăm trong đêm dài! Cùng nhau bàn luận rằng: Làm sao có thể kéo lên được? Lúc ấy con khỉ đầu đàn nói: Tôi biết cách kéo lên, tôi nắm lấy cành cây, mọi người nắm lấy đuôi tôi, lần lượt nối tiếp nhau mới có thể kéo lên. Lúc ấy những con khỉ trong đàn lập tức như lời khỉ đầu đàn nói, lần lượt nắm lấy nhau, một lát chưa đến mặt nước, chuỗi dây khỉ thì nặng mà chành cây thì yếu nên gãy lìa, tất cả những con khỉ rơi vào trong giếng nước. Lúc bấy giờ Thọ thần liền thuyết kệ rằng:

Những con thú này thật ngốc nghếch,
Bầy đàn khờ dại cùng theo nhau,
Vì thế tự sanh ra khổ não,
Sao có thể cứu được vầng trăng?

Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Con khỉ đầu đàn lúc bấy giờ nay chính là Đề bà đạt đa. Bầy khỉ lúc bấy giờ nay chính là Lục quần Tỳ kheo. Lúc bấy giờ đã từng trải qua tùy thuận với nhau nhận chịu những khổ não, bây giờ lại như vậy.

Ghen ghét hình ảnh Trong kinh Tạp Thí Dụ nói: Có hai vợ chồng đến gần vò rượu bồ đào muốn lấy rượu trong vò, hai vợ chồng cùng nhau trông thấy hình ảnh của mình, cả hai người ghen nhau và nói rằng giấu người nào ở trong vò. Hai người đánh nhau đến chết không thôi. Lúc ấy có Đạo nhân thấy sự tình như vậy bèn đập vỡ vò rượu, rượu đã không còn mà hai người cũng không có, ý hiểu ra biết là hình ảnh nên trong lòng rất hổ thẹn. Tỳ kheo liền nói cho nghe về pháp quan trọng, hai vợ chồng đều đạt đến địa vị A Duy Việt trí. Đức Phật dùng làm ví dụ, trông thấy hình ảnh mà đánh nhau là ví như người trong ba cõi, không biết năm ấm bốn Đại đều là Khổ Không, thân phát sinh ba Độc mà sanh tử không dứt.

Phân y: Trong Thập Tụng Luận nói: Đức Phật trú tại nước Kiều tát la, cùng với Đại Tỳ kheo Tăng an cư. Có hai Tỳ kheo già, hết mùa Hạ có được nhiều đồ vật bố thí, tự nghĩ rằng người ít mà đồ vật nhiều, không dám phân chia, sợ rằng phạm vào tội ấy. Tỳ kheo Bạt Nan đà biết chuyện nên đi đến chia phần, hỏi hai Tỳ kheo rằng: Ông có được y mà phân chia chưa vậy? Đáp rằng: Chưa phân chia được. Hai Tỳ kheo già hỏi rằng: Ông có thể phân chia hay không? Đáp rằng: Có thể, trong này nên làm yết ma! Liền mang y và đồ vật đến đặt ở phía trước, Bạt Nan đà phân ra làm ba nhóm, giữa hai Tỳ kheo này đặt một nhóm, tự mình đến đứng giữa hai nhóm y mà nói rằng: Ông nghe tác pháp yết ma!

Hai người các ông nhận một nhóm, như vậy hai ông có đủ ba, Hai nhóm gộp lại thuộc về tôi, như vậy mình tôi có cả ba.

Hỏi rằng: Yết ma như vậy được không? Đáp rằng: Được! Bạt Nan đà gánh y sắp đi, Tỳ kheo kia nói: Đại đức Thượng tọa ơi, y và đồ vật chúng tôi chưa phân chia! Bạt Nan đà nói: Cho ông phân chia, người biết cách nên tặng cho một chiếc y đẹp. Người kia nói: Sẽ tặng cho! Bạt Nan đà từ giữa nhóm này lấy chiếc y rất giá trị đặt vào một nơi, còn lại phân ra làm hai phần, phân chia rồi gánh đi.

Các Tỳ kheo nghe rồi thưa với Đức Phật, Đức Phật quở trách nhiều rồi bảo với các Tỳ kheo: Bạt Nan đà này không chỉ đời này mới chiếm đoạt, mà đời trước cũng đã chiếm đoạt, đó chính là ở đời quá khứ trong một eo sông có hai con rái cá, bắt được con cá chép to trong dòng sông nhưng không làm sao chia phần được. Hai con rái cá canh giữ, có con Dã Can đến uống nước, thấy hai con rái cá bèn nói rằng: Các cháu ở nơi này làm những gì? Rái cá đáp rằng: Cậu ơi, chúng cháu bắt được con cá chép này ở đại eo sông này nhưng không làm sao chia phần được, cậu có thể chia phần được không? Dã Can nói: được chứ, trong này nói kệ phân làm ba phần. Liền hỏi rái cá rằng: Các cháu, ai là người thích vào chỗ cạn? Đáp rằng: Là rái cá kia. Hỏi rằng: Ai thích vào chỗ sâu? Đáp rằng: Là rái cá kia. Dã Can nói: Các cháu nghe ta nói kệ:

Vào chỗ cạn nên cho cái đuôi,
Vào chỗ sâu nên cho cái đầu,
Phần thịt thân hình nằm ở giữa,
Nên giao cho người biết cách chia.

Dã Can ngậm thân cá quay về, Dã Can mái nói kệ:

Ông từ nơi nào đi về đây,
Đầy miệng được thân cá giữa sông,
Chẳng có đầu có đuôi như vậy,
Thịt cá chép ăn thật là ngon?
Dã Can đực nói kệ rằng:

Người có tướng nói năng tiếp xúc,
Mà không biết phương pháp phân biệt,
Người có khả năng biết phân biệt,
Như quan che giấu những cái được,
Cá chép không có đầu có đuôi,
Vì vậy cho nên tôi được ăn.

Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Hai con rái cá lúc ấy nay chính là hai Tỳ kheo già. Con Dã Can lúc ấy nay chính là Bạt Nan đà. Bạt Nan đà này đời trước đã từng chiếm đoạt, đời này lại chiếm đoạt làm thành lầu cao.

Trong kinh Bách Dụ nói: Xưa kia có người ngu si đần độn không biết gì, đến nhà người giàu có thấy ba tầng lầu cao rộng nghiêm trang tráng lệ, liền dấy lên nghĩ rằng: Mình có tiền của không thua kém người kia, tại sao không làm nhỉ? Thế là kêu thợ mộc mà hỏi rằng: Biết làm nhà vua kia không? Thợ mộc đáp rằng: Nhà ấy do tôi làm. Nhân tiện nói rằng: Nay hãy làm cho tôi! Thợ mộc liền đào đất đắp thành làm lầu. Người ngu si thấy đắp thành bèn nói với thợ mộc rằng: Tôi không muốn làm hai tầng dưới, trước tiên hãy làm tầng nhà cao nhất kìa. Thợ mộc đáp rằng: Không bao giờ có chuyện này, đâu có chuyện không làm tầng cuối dưới thấp mà làm được tầng thứ hai kia, không làm tầng thứ hai thì làm sao tiến hành tầng thứ ba được? Người ngu si khăng khăng nói: Tôi không cần hai tầng dưới mà nhất định phải làm tầng trên cho tôi! Người lúc ấy nghe rồi thì sinh ra quái lạ mà cười nhạo. Vì như bốn chúng đệ tử của Thế tôn mà không chịu khó tu tập cung kính Tam bảo, lười nhác buông trôi mà lại mong cầu đạo quả, không mong ba quả vị dưới thấp mà chỉ muốn đạt được quả vị A la hán thứ tư, cũng bị người đương thời giễu cợt, như hạng người ngu si kia không có gì khác nhau. Không dựa theo thứ tự Tam Thừa mà trước tiên học Đại thừa cũng lại như vậy, cho nên trong kinh Phật Tạng nói: Không trước tiên học theo Tiểu Thừa sau đó học theo Đại thừa thì không phải là đệ tử Phật.

Mài dao: Trong kinh Bách Dụ nói: Xưa có một người, bần cùng khốn khổ làm việc cho nhà vua, ngày tháng kéo dài thân thể gầy yếu, nhà vua thấy thương xót ban cho một con lạc đà chết. Người bần cùng có được rồi lập tức lột da, hiềm nỗi dao cùn cho nên tìm đá muốn mài dao. Thế là lên trên lầu cao tìm được một hòn đá mài, mài dao cho sắc đi xuống mà lột da. Như vậy nhiều lần đi lại mài dao, sau đó chuyển sang khổ vì sợ không có khả năng lên lầu nữa, bèn treo con lạc đà trên lầu ngay nơi hòn đá mài dao, thật là làm trò cười cho thiên hạ. Giống như người ngu si phá hủy cấm giới, dùng nhiều tiền bạc để mà tu phước, hy vọng được sanh lên cõi Trời mà trái lại phải chịu tai ương của mình. Như treo con lạc đà trên lầu mài dao, dụng công rất nhiều mà có được rất ít lợi ích.

Bán hương: Trong kinh Bách Dụ nói: Xưa có Trưởng giả đi vào biển lấy hương Trầm Thủy, tích góp cả năm Trời mới được một xe, đến chợ mà bán. Bởi vì hương Trầm Thủy có giá đắt đỏ cho nên cuối cùng không có ai mua. Nhiều ngày không bán được nên tâm sinh ra mệt mỏi chán nản, thấy người ta bán than thì bán được mau chóng, bèn đốt cháy làm than bán được giá trị không bằng nửa xe; người ngu si giữa thế gian cũng lại như vậy, có vô lượng phương tiện chịu khó cầu mong Phật quả, chỉ vì khó đạt được liền sanh tâm lùi bước, không bằng phát tâm cầu quả Thanh Văn, mau đoạn tuyệt sanh tử làm bậc A la hán.

Đánh cược bằng cái bánh: Trong kinh Bách Dụ nói: Xưa có hai vợ chồng có ba cái bánh, vợ chồng cùng phân chia mỗi người ăn một cái, còn lại một cái để dành, cùng nói lời yêu cầu rằng: Nếu ai có nói trước thì không cho ăn bánh. Đã đưa ra yêu cầu rồi thì vì một cái bánh cho nên hai người không dám nói. Lát sau có giặc cướp vào nhà trộm cướp lấy tiền bạc của cải trong nhà, tất cả mọi thứ đều thuộc về tay giặc cướp. Hai vợ chồng bởi vì trước đã yêu cầu cho nên mắt nhìn không nói năng gì. Giặc cướp thấy không nói năng gì thì chiếm đoạt người vợ trước mặt người chồng, người chồng mắt trông thấy lại cũng không nói gì. Người vợ thì gọi to là có giặc cướp, nói với người chồng rằng: tại sao người ngu si vì một cái bánh mà thấy giặc cướp không kêu lên? Người chồng vỗ tay cười nói: Cô vợ quái gở ơi, tôi đã giành được bánh không thể chia cho em đâu. Người đời nghe chuyện không có ai là không chê cười giễu cợt. Người phàm phu cũng lại như vậy, vì một chút danh lợi mà trá hiện im lặng cao siêu, để cho các loại ác tặc phiền não hư giả thừa cơ chiếm đoạt, đánh mất thiện pháp của mình mà rơi vào ba nẻo dữ, cũng không sợ hãi cầu mong con đường vượt khỏi thế gian, còn vui đùa mê mãi với 5 dục, cho dù gặp phải khổ đau vô cùng cũng không lấy gì làm lo sợ, giống như hạng người ngu si kia không có gì khác.

Sợ vợ: Trong Kinh Bách Dụ nói: Xưa có một người lấy hai cô vợ xinh đẹp, nếu gần gũi một cô này thì bị một cô kia nổi nóng, không làm sao xử lý êm đẹp được, thế là ở giữa hai cô vợ đích thân nằm ngữa không cử động. Gặp Trời mưa to mái nhà lâu ngày bị dột, nước và đất cùng giọt xuống rơi vào trong mắt. Bởi vì trước đó có yêu cầu nên không dám ngồi dậy tránh đi, thế là khiến cho đôi mắt bị mất ánh sáng. Phàm phu thế gian cũng lại như vậy, gần gũi bạn bè tà vạy quen thói làm điều phi pháp, tạo ra nghiệp chướng oán kết rơi vào ba đường ác hiểm, ở mãi trong sanh tử làm mất ánh sáng mất trí tuệ, giống như ông chồng ngu si kia vì hai bà vợ của mình cho nên cả hai con mắt đều bị mù.

Ngậm gạo: Trong kinh Bách Dụ nói: Xưa có một người đến nhà người vợ, trông thấy người ta giã gạo thì đi đến chỗ ấy trộm gạo ngậm vào miệng. Người vợ đến thấy chồng muốn cùng chồng trò chuyện, trong miệng đầy gạo nên cũng không nói năng gì được, xấu hổ với vợ cho nên không chịu nhả ra, vì vậy không nói gì cả. Người vợ cảm thấy quái lạ sao không trò chuỵên, đưa tay sờ xem, nói là miệng chồng bị sưng, nên nói với cha mình rằng: Chồng con mới đến, bất ngờ bị sưng miệng, cũng không làm sao trò chuyện được. Người cha vợ lập tức gọi thầy thuốc chữa trị. Lúc ấy thầy thuốc nói rằng: Bệnh này rất nặng trạng thái giống như đá nhét chặt, dùng dao cắt mổ mới có thể chữa lành được mà thôi. Lập tức lấy dao mổ toạc miệng ra, gạo từ bên trong chảy ra làm sáng tỏ sự việc. Người thế gian cũng lại như vậy, làm những việc xấu xa phạm vào giới thanh tịnh, che giấu lỗi lầm của mình không chịu bày tỏ rõ ràng, rơi vào địa ngục ngạ quỷ súc sanh, giống như người ngu si kia vì một chút xấu hổ cho nên không chịu nhổ gạo ra, lấy dao mổ miệng mới bày ra lỗi lầm của mình.

Bắt chước: Trong kinh Bách Dụ nói: Xưa có một người muốn làm vừa ý, nhà vua hỏi người khác rằng: Làm sao để vừa ý nhà vua? Có người nói cho biết rằng: Nếu muốn làm vừa ý nhà vua thì ông nên bắt chước hình dáng của nhà vua. Người này thấy mắt nhà vua nheo, thì bắt chước nhà vua nheo mắt. Nhà vua hỏi rằng: Ông bị bệnh chăng, hay là trống gió chăng, vì sao mà mắt bị nheo? Người ấy trả lời nhà vua rằng: Tôi không bị bệnh về mắt, cũng không bị trúng gió, muốn làm vừa ý nhà vua, thấy mắt nhà vua nheo cho nên bắt chước nhà ấy mà. Nhà vua nghe nói vậy thì nổi giận đùng đùng, sai người lập tức đuổi ra khỏi đất nước. Người thế gian cũng như vậy, ở trong Phật pháp muốn được gần gũi, cầu mong thiện pháp để tự tăng trưởng cho mình. Đã được gần gũi mà không hiểu Như lai Pháp Vương vì chúng sanh cho nên dùng các loại phương tiện thị hiện những lỗi lầm thiếu sót, liền sinh ra giễu cợt hủy báng học theo những điều không đúng. Vì nguyên nhân này, ở trong Phật pháp vĩnh viễn đánh mất thiện căn của mình, rơi vào ba đường ác, giống như người ngu kia bắt chước nhà vua cũng lại như vậy.

Sợ cây: Trong kinh Bách Dụ nói: Ví như con Dã Can ở bên dưới tán cây, gió thổi cành gãy rơi xuống trên lưng nó, thế là nhắm mắt không muốn thấy cây, rời bỏ mà đi đến ở nơi trống trải, thậm chí tối ngày cũng không chịu trở về; từ xa trông thấy gió thổi cành cây đung đưa từ trên xuống dưới, thì nói là cây gọi mình quay về dưới tán cây. Đệ tử ngu si cũng lại như vậy, đã được xuất gia được gần gũi thầy dạy, vì một chút trách mắng thì lập tức tránh xa, tiếp tục về sau thì gặp phải ác tri thức, não loạn mãi không thôi mới chịu trở về bên thầy dạy. Đi về như vậy thật sự là người ngu si mê hoặc.

Tụng rằng:

Lưới ái giăng đầy tâm tối đen,
Tham si trái ngược với trí minh,
Tuy được nhờ đuốc tuệ soi chiếu,
Mà ngu muội hãy còn mù mắt.
Gàn bướng luôn luôn không giác ngộ,
Chủng tử trí tuệ chưa nảy mầm,
Tự mình không ngưỡng mộ bạn hiền,
Sao có thể thức tỉnh tâm tư?