Thiên này có 2 phần: Thuật ý, Dẫn chứng.
Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý
Phàm làm điều thiện cảm được vui sướng như bóng thuận theo hình, gây điều ác chuốc lấy khổ đau như tiếng phát ra âm vang. Vì vậy giàu như Chu Bá, sang giống Tiêu Tào, gấm vóc làm áo, vàng bạc làm nhà, đằng trước là mây cuộn rồng bay, phía trên là gió mát phụng kêu, đàn sáo vang vang cung điện rực rỡ, dung mạo thân thiện trước hàng lang dài giày ngọc ở bậc thềm đỏ, mang vòng vàng ở chiếc khóa xanh, ăn thì cao lương mỹ vị đầy mâm, của ngon vật lạ đầy đủ trước mắt, thay mùi đổi vị thường xuyên, hương thơm ngào ngạt sực nức, ngồi thì nhà cao gác đẹp thềm ngọc mành châu, đàn sáo tiêu diệt trầm bổng réo rắt, nằm thì đèn lan chiếu sáng màn thêu rủ bóng, chăn gấm đã bày nệm tơ lướt nhẹ, đi thì xe bốn ngựa kéo bay bổng vút nhanh, kiệu hoa chuông ngân vang động sấm rền, muôn ngàn binh lính hầu hạ mờ mờ ảo ảo nhộn nhịp đầy đường. Sơ lược kể ra nhân của phước đức cảm báo tốt lành như vậy, nhờ vào xưa kia thực hành bố thí mà hưởng thụ lợi ích cao đẹp này.
Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG
Như kinh Hiền Ngu nói: Xưa thời Đức Phật tại thế, trong nước Xá vệ có một Trưởng giả, rất giàu sang phóng khoáng sanh được một cậu con trai, diện mạo đoan chánh hiếm có ở thế gian, cha mẹ vui mừng sung sướng, nhân đó đặt tên cho con là Đàn di ly. Tuổi dần lớn lên thì người cha qua đời, vua Ba tư nặc liền dùng tước vị của người cha mà phong cho người con. Được nhà vua phong cho tước vị rồi, nhà cửa gia đình ấy thay đổi có nhiều vật báu, trong các kho tàng thảy đều chứa đầy các loại vật quý. Lúc ấy Thái tử nhà vua tên là Tỳ Lưu Ly, gặp
phải bệnh sốt cao đột ngột, các thầy kê đơn thuốc chữa trị thưa với nhà vua rằng: Cần phải có Ngưu Đầu Chiên Đàn dùng để xoa trên thân thể thì sẽ được trừ khỏi căn bệnh. Nhà vua lập tức chiêu mộ tìm kiếm, nếu ai có được, giá trị một lạng sẽ thưởng cho ngàn lượng vàng. Nhưng mà không có ai mang đến cả, có người thưa với nhà vua, trong nhà của Đàn di ly có rất nhiều. Lúc ấy nhà vua nghe rồi tự mình đi đến cầu xin, đến trước cổng nhà Trưởng giả Đàn di ly, thấy cửa ngoài nhà ấy thuần là bạc trắng, liền sai người làm đi vào thông báo cho biết. Lúc ấy người canh cổng đi vào thưa với tất cả rằng: Vua Ba tư nặc nay đang ở ngoài cổng. Trưởng giả nghe rồi lập tức ra ngoài đón tiếp long trọng, mời nhà vua đi vào phòng khách. Nhà vua đi vào trong cổng thấy có một cô gái, dung mạo đoan chánh ở thế gian không ai sánh được, ngồi nơi giường bạc trắng xe sợi bạc trắng, mười người hầu gái đứng hai bên. Lúc ấy nhà vua hỏi rằng: Đây là vợ khanh chăng? Trưởng giả đáp rằng: Là tỳ nữ canh cổng. Người hầu gái ấy có nhiệm vụ là thông báo rõ ràng tin tức. Tiếp tục đi vào cổng giữa thuần là lưu ly đen pha hồng, trong cổng có cô gái ngồi nơi giường lưu ly, dung mạo đoan chánh gấp bội cô gái trước, người hầu hai bên lại gấp bội số trước. Tiếp tục đi vào cổng trong thuần là vàng ròng, trong cổng có một cô gái dung mạo đoan chánh, lại càng đẹp gấp bội, ngồi nơi giường vàng ròng xe sợi vàng ròng, người hầu hai bên lại gấp bội số trước. Nhà vua lại hỏi rằng: Đây là vợ khanh chăng? Trưởng giả đáp rằng: Là tỳ nữ canh cổng. Đi vào đến trong nhà thấy mặt đất là lưu ly, trong phòng chạm khắc các loài thú vật, gió thổi lay động làm cho hình dáng hiện rõ ra trên mặt đất. Nhà vua thấy nói là nước, hãi sợ không dám đi tới, nói với Trưởng giả rằng: Ta đi qua nhiều nơi không có nơi nào làm hồ ở trước cung điện. Đàn di ly thưa với nhà vua: Đây là mặt đất bằng lưu ly, chứ không phải là nước. Ngay lúc ấy cởi vòng xuyến bằng vàng trên tay ném vào mặt đất, vướng bức tường mới dừng lại. Nhà vua biết là đất rồi thì cùng đi vào bên trong bước lên cung điện bảy báu. Người phụ nữ ở trong cung điện ngồi nơi giường lưu ly, lại có giường bằng vật báu mời nhà vua ngồi. Lúc ấy người phụ nữ thấy nhà vua mà trong đôi mắt tuôn trào dòng lệ. Nhà vua hỏi rằng: Vì sao không vui mà trong đôi mắt lệ trào? Người phụ nữ đáp rằng: Đại vương, chỉ vì giờ đây ngửi thấy mùi khói trên thân nhà vua, vì vậy mà nước mắt trào ra. Nhà vua bèn hỏi rằng: Tro nhà không nhóm lửa ư? Đáp rằng: Không. Nhà vua lại hỏi rằng: Dùng gì để nấu ăn? Người phụ nữ đáp rằng: Lúc muốn ăn thì mọi thứ tự nhiên hiện ra. Nhà vua lại hỏi rằng: Ban đêm không cần đến ánh sáng ư: Người phụ nữ trả lời nhà vua rằng: Dùng ngọc ma ni để mà soi chiếu, khắp nhà đều rất sáng. Lúc ấy Đàn di ly quỳ thưa với nhà vua rằng: Đại vương, vì sao phải vất vả tinh thần sức lực mà đến nơi này? Vua Ba tư nặc đem sự việc trả lời đầy đủ. Trưởng giả nghe rồi liền đưa nhà vua đi vào mọi nơi chỉ rõ các kho tàng chứa đầy bảy báu, hương Ngưu Đầu tích chứa không thể kể hết được. Nhà vua cần gì cứ tùy ý mà lấy! Nhà vua lấy hai lạng hương Ngưu Đầu sai người chuyển về trước. Nhà vua cung kính nói cho biết rằng: Nay có Đức Phật xuất thế, khanh có nghe không vậy? Đàn di ly đáp rằng: Thế nào gọi là Phật? Nhà vua bèn giải thích cho nghe, Đàn di ly hoan hỷ lập tức đi đến trú xứ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho nghe đạt đến quả vị Tu đà hoàn, ngay sau đó xuất gia đạt được quả vị A la hán, có đủ Tam minh Lục thông và Bát giải thoát. A nan thấy rồi bèn thưa với Đức Phật rằng: Đàn di ly này vốn có gieo trồng nghiệp gì mà sanh ở trong loài người lại thọ nhận phước báo cõi Trời, còn được gặp Thế tôn mà xuất gia đắc đạo? Đức Phật bảo với A nan: Chính là từ chín mươi mốt kiếp quá khứ, có Đức Phật xuất thế, danh hiệu Ty bà thi; sau khi nhập Niết bàn, ở trong thời Tượng pháp có năm Tỳ kheo, cùng lập yêu cầu thỏa thuận với nhau ở trong một khu rừng, tinh cần hành đạo. Nói với một Tỳ kheo: Nơi này cách xa thành ấp nên khất thực rất vất vả mệt nhọc, ông hãy làm phước suốt mùa Hạ khất thực cung cấp nuôi sống chúng tôi! Tỳ kheo ấy lập tức đi vào thành, khuyến khích các đàn việt hàng ngày đưa thức ăn cơm nước giúp cho. Bốn người yên thân chuyên tinh hành đạo đạt được quả vị A la hán, bèn nói với người này: Nhờ vào ông cho nên chúng tôi được yên ổn, công việc đã làm xong, ông nguyện cầu những điều gì? Người ấy nghe rồi hoan hỷ phát nguyện: Khiến cho tôi ở đời sau sanh trong loài người, trên cõi Trời được giàu sang tự nhiên gặp Phật đạt được đạo quả! Nhờ vào công đức này, từ lúc ấy đến nay suốt chín mươi kiếp không rơi vào ác đạo, sanh trong loài người, trên cõi Trời thường ở nơi giàu sang cao quý, những nhu cầu tự nhiên xuất hiện, nay gặp được Ta nên xuất gia đắc đạo.
Lại trong kinh Hiền Ngu nói: Xưa vào thời Đức Phật tại thế, trong nước Xá Vệ có một Trưởng giả, gia đình rất giàu tiền bạc châu báu vô lượng không thể tính kể được, sanh ra một cậu con trai, thân thể sắc vàng đoan chánh ít người sánh kịp, cha mẹ thấy rồi vô cùng vui mừng sung sướng, nhân đó đặt tên cho con, gọi là Kim Thiên. Ngày cậu bé sinh ra thì trong nhà tự nhiên xuất hiện một giếng nước, dọc ngang tám thước, sâu cũng tám thước, suốt đời sử dụng luôn luôn hợp với ý người, muốn áo có áo, cần ăn có ăn, vàng bạc châu báu và tất cả mọi nhu cầu, dấy lên nguyện vọng có được như ý liền có được. Cẫu bé đến tuổi trưởng thành thì không hiểu nhiều tài nghệ, người cha nghĩ rằng: Con trai mình đoan chánhdung mạo ít người sánh bằng, phải tìm cô gái danh tiếng dung mạo đẹp đẽ thân thễ tuyệt với giống như con trai mình, mới cầu thân xứng đáng với nhau. Lúc ấy ở nước Xà bà có Đại Trưởng giả, lại sanh được một cô gái tên là Kim Quang Minh, đoan chánh lạ thường, thân thể sắc vàng sáng rực chiếu rọi khác hẳn mọi người. Ngày cô gái sinh ra cũng có giếng nước tám thước tự nhiên xuất hiện, giếng đó cũng luôn luôn có các loại vật báu, áo quần, đồ ăn thức uống tự nhiên xuất hiện, tất cả mọi nhu cầu thích hợp với tình người. Cha mẹ cô gái cũng tự nghĩ rằng: Con gái mình đoan chánh xinh đẹp tuyệt vời giữa mọi người, cần phải tìm được người tài đức thân thể sắc vàng sáng ngời giống như con gái mình, mới cho kết hôn với nhau. Tên gọi của cô gái ấy truyền khắp mọi nơi, Kim Thiên toại nguyện cưới về làm vợ. Sau đó Kim Thiên thỉnh Phật và Tăng cúng dường bữa cơm, bữa cơm xong rồi, Đức Phật thuyết pháp cho nghe, vợ chồng Kim Thiên và cha mẹ của họ, thảy đều đạt được quả vị Tu đà hoàn. Vợ chồng Kim Thiên cùng thưa với cha mẹ cầu xin xuất gia, cha mẹ liền thuận theo. Đã xuất gia rồi cả hai vợ chồng đều đạt được quả vị A la hán, tất cả mọi công đức thảy đều đầy đủ.
A nan thấy rồi bèn thưa với Đức Phật rằng: Vợ chồng Kim Thiên vốn có gieo trồng phước thiện gì, mà sanh vào nhà dòng họ cao quý, thân thể sắc vàng lại có giếng nước tám thước tự nhiên xuất hiện sản sinh ra các loại vật dùng như vậy? Đức Phật bảo với A nan: Trong chín mươi kiếp quá khứ xa xưa, sau khi Đức Phật Ty bà thi nhập Niết bàn, có các Tỳ kheo đi khắp nơi giáo hóa, đến trong một thôn xóm, người trong thôn thấy các vị Tăng nên tranh nhau cùng cúng dường. Lúc ấy có hai vợ chồng, nhà nghèo túng không có gì cả. Người chồng thấy mọi người cúng dường chúng Tăng, về bên vợ khóc nỉ non buồn phiền, nước mắt rơi trên cánh tay người vợ. Người vợ liền hỏi chồng: Vì sao mà khóc nỉ non vậy? Chồng trả lời vợ rằng: Lúc cha tôi còn sống tích trữ tiền của đầy kho giàu có khó mà kể được, cuối cùng trong người tôi nghèo túng khốn khổ hết sức, ngày xưa tuy có mà không bố thí, hôm nay gặp Tăng nghèo thiếu không có gì để bố thí, thân đời trước không bố thí nay khiến cho nghèo thiếu như vậy, bây giờ lại không bố thí thì đời sau càng nghèo khổ hơn, tôi suy nghĩ như vậy mà xót xa buồn phiền quá đỗi. Vợ nói với chồng rằng: Cho dù có ý mà cứ rỗng không thì chẳng có tiền có thể bố thí, biết phải làm thế nào? Vợ lại nói với chồng: Thử đến nhà cũ tìm kiếm mọi chỗ xem sao, biết đâu sẽ có được! Chồng liền đi đến nhà cũ tìm kiếm được một đồng tiền vàng, mang về nơi vợ. Người vợ lúc bấy giờ có một chiếc gương sáng, còn có được một cái bình, chứa đầy nước trong, đặt đồng tiền vàng vào trong bình, lấy chiếc gương đặt phía trên. Hai vợ chồng một lòng mang đến bố thí Tăng, phát nguyện mà đi. Nhờ vào công đức này, từ lúc đến nay trong chín mươi kiếp không rơi vào ác đạo, sanh trên cõi Trời hay trong loài người luôn luôn vợ chồng, thân thể sắc vàng hưởng thụ phước báo vui sướng, ngày nay được gặp Ta cho nên xuất gia đắc đạo.
Lại trong Kinh Xuất Diệu nói: Xưa ở thời Phật tại thế, trong nước Ca tỳ la vệ có người em cùng lứa với Mục kiền liên, rất giàu có và đầy đủ bảy báu tiền của, kho tạng chứa đầy, nô tỳ tôi tớ không thể nào tính xuể. Lúc ấy Mục kiền liên nhiều lần đến nhà em trai mà bảo với em rằng: Nghe em keo kiệt ganh ghét không thích bố thí, Đức Phật thường dạy bố thí đạt được phước báo vô số, nay em bố thí sẽ được vô lượng phước thiện. Người em nghe anh chỉ bảo nên mở kho bố thí, lại làm kho mới mong muốn thọ nhận báo ứng đó, chưa quá một tuần mà tiền bạc châu báu cạn kiệt, kho cũ đều trống rỗng mà kho mới không có báo ứng. Người em buồn phiền đến nơi người anh nói rằng: Trước đây được anh khuyến khích bố thí sẽ có nhiều báo ứng, không dám làm trái lời anh chỉ bảo, mọi người đến cầu xin mở kho bố thí hết, kho cũ đều trống rỗng mà kho mới không có báo ứng, mong rằng không phải vì anh đã nghi ngờ lầm lỡ chăng? Người anh nói: Thôi, thôi! Đừng nói lời như vậy, đừng khiến cho người ngoại đạo tà kiến nghe thấy lời vụng về này, nếu giả sử phước đức là vật có hình dáng, thì cõi hư không bao la cũng không chứa đựng hết được, nay anh tạm thời chỉ rõ cho em một chút báo ứng thôi. Liền dùng thần lực đưa tay nắm người em đi đến cõi Trời thứ sáu, thấy có cung điện bằng bảy báu tạo thành, gió thơm, hồ tắm, kho tạng tràn đầy không thể nào tính xuể, Ngọc Nữ vây quanh mấy ngàn vạn cô, toàn là nữ chứ không có nam. Bèn hỏi anh rằng: Đây là cung điện gì mà nguy nga đồ sộ như vậy? Mục kiền liên bảo với em rằng: Em tự mình đến hỏi. Người em liền tự mình đến gần hỏi Thiên nữ rằng: Đây là cung điện gì mà làm thành từ bảy báu, nguy nga đồ sộ lơ lững ở giữa hư không như vậy, ai có phước đức ở trong đó hưởng thụ báo ứng vậy? Thiên nữ trả lời rằng: Trong nước Ca tỳ la vệ thuộc cõi Diêm phù đề, Đức Phật Thích Ca có người đệ tử đầy đủ thần thông, tên gọi là Mục kiền liên, người ấy có người em trai thảo hiền là một Trưởng giả rất giàu có, nhờ thích bố thí nên sau này sẽ sinh ra ở đây, mà làm người chủ cho chúng tôi. Người em nghe nói mà hoan hỷ làm cho tâm thiện phát sinh mạnh hơn, về đến chỗ anh nói rõ đầy đũ sự việc ấy. Mục kiền liên bảo rằng: Nói là người bố thí thì có báo ứng hay là không có báo ứng vậy nhỉ? Người em trong lòng xấu hổ đến xin sám hối người anh. Sau đó về đến trong nhà lại tu phước thiện nhiều hơn, sau khi mạng chung liền sanh lên cõi Trời, hưởng thụ quả báo này.
Lại trong Kinh Thọ Đề Già nói: Thời Đức Phật tại thế, có một Trưởng giả rất giàu có, tên là Thọ Đề Già, kho tàng tràn đầy vàng bạc đầy đủ, nô tỳ xếp thành hàng, không có điều gì đang mong cầu nữa. Có một chiếc khăn tay bằng vải bông trắng nõn đang treo bên hồ, vì Trời nổi gió thổi bay đến trước cung điện nhà vua. Nhà vua liền tập trung tất cả quần thần ngồi lại cùng nhau bàn luận tìm hiểu, kể ra các quẻ bói để hỏi, cảm thấy quái lạ về nguyên cớ của chiếc khăn. Các quan đều nói rằng đất nước sắp hưng thịnh nên Trời ban tặng chiếc khăn bằng vải bông trắng nõn. Thọ Đề không nói gì. Nhà vua nói với Thọ Đề: Các quan đều vui mừng, sao khanh không nói gì? Thọ Đề trả lời nhà vua: Không dám dối gì nhà vua, chiếc khăn vải bông trắng nõn này là ở nhà hạ thần lau chìu thân thể, đang treo bên hồ, vì Trời nổi gió thổi bay đến trước cung điện nhà vua, cho nên im lặng không nói. Sau đó mấy ngày có một đóa hoa bằng vàng chín màu, lớn bằng bánh xe, rơi xuống trước cung điện nhà vua. Nhà vua lại tập trung các quan hỏi đáp giống như trước. Thọ Đề trả lời nhà vua rằng: Hạ thần không dám dối gì nhà vua, là đóa hoa úa tàn trong vườn sau nhà của hạ thần rụng xuống, vì Trời nổi gió thổi bay đến trước cung điện nhà vua, cho nên im lặng không nói. Nhà vua nói với Thọ Đề: Nhà khanh có thể như vậy, khanh cần phải trở về tùy ý làm sao cho điều hòa chừng mực, Ta sẽ dẫn hai mươi vạn người, đi đến nhà khanh để xem thử. Thọ Đề trả lời rằng: Mong nhà vua cho cùng đi không cần phải đi trước! Bởi vì nhà của hạ thần tự nhiên có giường chiếu, không cần phải có người sắp đặt, đồ ăn thức uống tự nhiên không cần đến người nấu nướng, tự nhiên bưng đến không cần phải kêu gọi, tự nhiên bưng đi không cần phải nhìn lại. Nhà vua liền dẫn theo hai mươi vạn người, đến cổng phía Nam nhà Thọ Đề Già mà đi vào, có một Đồng tử đoan chánh đáng yêu, nhà vua nói với Thọ Đề rằng: Là con trai của khanh phải không? Đáp rằng: Là tôi tớ giữ cửa của hạ thần. Một lát lại đi về phía trước đến cổng nhà trong, có một Đồng Nữ nhan sắc đoan chánh, màu da tươi sáng như ngọc thật là đáng yêu, nhà vua nói với Thọ Đề rằng: Là con gái khanh hay là vợ khanh vậy? Đáp rằng: Là tỳ nữ giữ cửa của hạ thần. Một lát tiếp tục đi về phía trước đến trước phòng chính, bạc trắng làm tường thủy tinh làm đất, nhà vua trông thấy nói là nước nên nghi ngờ không thể đi tới. Thọ Đề tiến lên dẫn đường đưa nhà vua lên phòng chính, ngồi trên sập vàng gác chân trên ghế ngọc. Vợ của Thọ Đề Già ngồi trong một trăm hai mươi lớp màn che bằng vàng bạc, vén màn mà đi ra, để chào nhà vua, trong đôi mắt rướm lệ. Nhà vua nói với Thọ Đề: Vợ khanh chào Ta tại sao rơi nước mắt? Thọ Đề đáp rằng: Hạ thần không dám dối gì nhà vua, ngửi thấy mùi khói nơi thân nhà vua nên trong đôi mắt tuôn chảy nước mắt. Nhà vua nói: Dân chúng thắp sáng bằng dầu mờ, chư hầu thắp sáng bằng mật, Thiên Tử thắp sáng bằng sơn, sơn cũng không có khói, sao có thể chảy nước mắt? Thọ Đề đáp rằng: Nhà hạ thần có một viên ngọc thần gọi là Minh Nguyệt, treo ở trên phòng chính, ngày đêm không khác nhau, không cần đến ánh sáng lửa đèn. Trước phòng chính của nhà Thọ Đề có mười hai tầng lầu cao, dẫn nhà vua đi lên xem, nhìn thấy bốn phía không rõ ràng như nhìn qua ánh trăng. Đại thần thưa với nhà vua, sách lược quốc gia là chuyện lớn, nhà vua nên trở về. Nhà vua nói trong chốc lát còn có thể chịu được. Lại dạo qua đất vườn bất giác như trải qua cả tháng, hỏi đáp giống như trước. Thọ Đề lấy bảy báu bố thí cùng với lụa là gấm vóc, hai mươi vạn người ngựa đều mang nặng, cùng lúc trở về nước. Nhà vua nói với quần thần: Thọ Đề Già ấy là dân của Ta, vợ con nhà cửa hơn xa đối với Ta, Ta muốn chinh phạt, nên chiếm lấy hay không? Các quan đều nói: Nên chiếm lấy. Nhà vua sau đó dẫn bốn mươi vạn quân binh, đánh chiêng gõ trống bao vây nhà Thọ Đề, hơn mấy trăm lớp. Trong cổng phía Nam nhà Thọ Đề Già có một lực sĩ, tay nắm gậy vàng một mình đánh lại bốn mươi vạn quân binh. Người ngựa đều ngã nhào tay chân bị trói chặt, eo lưng mềm nhũn giống như trạng thái say khướt, đầu ác nặng trũi không thể nào đứng dậy được. Ngay sau đó Thọ Đề cưỡi xe vân mẫu, đến hỏi mọi người, lúc này cần gì tự làm khổ mình mà nằm dưới đất không đứng lên được? Mọi người trả lời rằng: Đại vương sai đến muốn chinh phạt Trưởng giả, gặp lực sĩ của Trưởng giả tay cầm gậy vàng, một mình đánh bại bốn mươi vạn quân binh, người ngựa đều ngã nhào không thể nào đứng dậy được. Thọ Đề hỏi rằng: Muốn đứng lên được hay không? Mọi người đều nói rất mong được đứng dậy. Thọ Đề liền phát ra thần lực, khiến cho bốn mươi vạn người ngựa đều đứng lên, cùng lúc trở về nước. Nhà vua lập tức sai sứ gọi Thọ Đề Già đến ngồi cùng xe mà đi, hướng đến nơi Đức Phật thưa rằng: Thưa Đức Thế tôn, đời trước Thọ Đề làm công đức gì mà đạt được quả báo như vậy? Đức Phật dạy: Hãy lắng nghe, trước kia có năm trăm người cùng men theo vùng núi non hiểm trở, trên đường đi gặp Đạo nhân bị bệnh, nhường cho nhà cửa lương thực đèn đuốc của mình; lúc bấy giờ cầu xin nhiều nguyện, Trời tự nhiên cung cấp cho mình, từ hư không xuất hiện, hóa thành thân mười tám thước, phát ra ánh sáng to lớn, chiếu sáng khắp nơi thế giới. Lại nguyện làm Phật phá tan Thiết Vi, vạc nóng nở hoa địa ngục tỏa ngát chiên đàn, ngạ quỷ làm Sa môn, La sát ngồi tụng kinh; năm trăm người buôn mang nặng vật báu ấy, nhờ cung cấp cho tăng mắc bệnh, thuận theo Tăng cầu xin Trời cung cấp, nay được cảm báo này. Người bố thí lúc ấy nay chính là Thọ Đề Già, Đạo nhân mắc bệnh lúc ấy nay chính là thân Ta, năm trăm người buôn lúc ấy nay đều đạt được quả vị A la hán.
Lại trong kinh Bách Duyên nói: Thời Đức Phật tại thế, trong thành Xá vệ có một Trưởng giả tên gọi là Thiện Hiền, tiền của châu báu vô lượng không thể nào tính xuể, người vợ sinh được một bé gái đoan chánh tuyệt trần hiếm có ở thế gian, trên đỉnh đầu tự nhiên có một hạt ngọc quý báu, ánh sáng chiếu rọi trong thành, cha mẹ vô cùng vui mừng, nhân đó đặt tên cho con, gọi là Bảo Quang. Tuổi dần lớn lên thể tánh thật là điều thuận, ưa thích ban ân huệ giúp người. Hạt ngọc quý báu tên đỉnh đầu khi có người đến cầu xin, liền lấy mà giúp cho, chốc lát lại sanh ra như trước. Cha mẹ hoan hỷ dẫn đến nơi Đức Phật, tâm sinh vui thích mà cầu xin xuất gia. Đức Phật bảo rằng: Thiện lai Tỳ kheo ni, tóc trên đầu tự nhiên rụng hết, pháp phục mang trên thân trở thành Tỳ kheo ni, tinh cần tu tập đật đến quả vị A la hán, chư Thiên và người thế gian đã trông thấy đều rất tôn kính ngưỡng mộ. Lúc ấy các Tỳ kheo thấy sự việc này rồi thưa thỉnh hỏi về nhân duyên, Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: trong chín mươi kiếp quá khứ xa xưa, có Đức Phật xuất thế, danh hiệu là Ty bà thi; sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, có vị vua tên là Phạm Ma Đạt Đa, thâu lấy Xá lợi dựng tháp bằng bốn thứ báu để thờ phụng cúng dường. Lúc ấy có một người đi vào trong tòa tháp này, mang một hạt ngọc quý báu đạt vào đỉnh đầu tòa tháp rồi phát nguyện mà đi. Nhờ vào công đức này, suốt chín mươi kiếp không rơi vào đường ác, sanh lên cõi Trời hay trong loài người thường có hạt ngọc quý báu cùng sanh ra theo mình, hưởng thụ vui sướng tự nhiên, cho đến ngày nay được gặp Ta mà xuất gia đắc đạo. Các Tỳ kheo nghe rồi hoan hỷ vâng mạng thực hành.
Lại trong kinh Bách Duyên nói: Thời Đức Phật tại thế, trong thành Ca tỳ la vệ có một Trưởng giả, giàu có vô lượng không thể nào kể xiết, người vợ sanh ra một cục thịt tròn, Trưởng giả trông thấy rồi lòng dạ vô cùng sầu não, nói là điềm chẳng lành, bèn đi đến nơi Đức Phật thỉnh cầu thưa hỏi lành dữ. Đức Phật bảo với Trưởng giả: Ông đừng nghi ngờ kỳ quái, chỉ cần nuôi nấng cho tốt, qua bảy ngày sau ông sẽ tự nhiên thấy mà thôi! Lúc ấy Trưởng giả nghe lời như vậy rồi vui mừng không thể nói được, về đến trong nhà nhắc nhủ nuôi nấng chu đáo. Sau bảy ngày, cục thịt tròn mở ra xuất hiện một trăm cậu bé, diện mạo đoan chánh tuyệt trần hiếm có ở thế gian. Tuổi dần lớn lên được gặp Phật mà xuất gia đạt đến quả vị A la hán, chư Thiên và người thế gian mà trông thấy đều rất tôn kính ngưỡng mộ. Lúc ấy các Tỳ kheo thấy sự như vậy rồi bèn thỉnh cầu Đức Phật giảng giải về nhân duyên đắc đạo. Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Trong chín mươi kiếp quá khứ xa xưa, có Đức Phật xuất thế, danh hiệu là Ty bà thi; sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, lúc ấy nhà vua nước kia tên là Bàn Đầu Mạt Đế, thâu lấy Xá lợi dựng tòa tháp bằng bốn thứ báu, cao một do tuần để mà thờ phụng cúng dường. Lúc ấy có hơn một trăm người cùng một ấp trỗi lên các loại âm nhạc, ôm hoa cầm hương cúng dường tòa tháp ấy, tất cả cùng phát nguyện: Nhờ công đức này khiến cho chúng con vào đời sau sanh ở một nơi cùng làm anh em. Phát nguyện này rồi tất cả đều tự quay trở về nhà mình.
Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Cần phải biết rằng một trăm người cùng một ấp lúc ấy nay chính là một trăm Tỳ kheo này. Nhờ vào sức mạnh của lời thề nguyện lúc ấy, cho nên suốt chín mươi kiếp không rơi vào ba nẻo tối tăm, sanh trên cõi Trời hay giữa loài người thường cùng sinh ramột nơi hưởng thụ vui sướng tự nhiên, cho đến bây giờ được gặp Ta, vẫn cùng sanh ra một nơi mà xuất gia đắc đạo. Các Tỳ kheo nghe rồi hoan hỷ phụng hành.
Tụng rằng:
Chứa đá cho rằng chẳng chân thật,
Bình trang hoàng tin là giả tạm,
Trộm áo che đậy trên cổng cao,
Gió thổi bay xuống cửa sổ đen,
Tế phượng chỉ có tâm kinh hãi,
Văn hầu rốt cuộc thích đồng hoang,
Chân tướng há rõ ràng cách thức,
Phù vinh chưa thể nào buông bỏ,
Khách mũ mão hình tích khác lạ,
Xe theo lối cũ mãi ruỗi rong,
Đã vậy bỗng ngừng tiếng trịnh trọng,
Tự nhiên loạn chuẩn mực khắp nơi,
Phú quý rổng không tranh danh lợi,
Vinh nhục hư giả mắng chưởi nhau,
Chốc lát gió thổi thành mây khói,
Bọt nước huyễn ảo đâu giữ được?
NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG
Sơ lược dẫn ra 6 chuyện: 1. Vương Văn Độ thời Tấn; 2. Trương Thị thời Tấn; 3. Lưu Bá Tổ thời Tấn; 4. Thái Thú Lý Thường thời Tấn; 5. Trung Thư Lệnh Sầm văn Bổn thời Đường; 6. Biệt Giá Thẩm Dụ Thiện thời Đường.
1. Thời nhà Tấn có Vương Văn Độ trấn giữ vững Quảng Lăng, bỗng nhiên thấy hai lính hầu cầm tấm bia bắn tên đến mời. Vương Văn rất kinh ngạc hỏi lính hầu rằng tôi làm quan ở đâu? Lính hầu nói: Ngài làm Thứ Sử hai châu Từ Duyễn và là tướng quân vùng Bắc Bình. Vương Văn nói: Tôi đã làm là quan này tại sao lại mới gọi vậy? Lính hầu nói: Đây là giữa cõi người mà thôi, nay được làm là quan ở trên cõi Trời. Vương Văn rất sợ hãi, chốc lát thấy đến đón quan, người mặc áo đen và binh lính mặc áo làm bia bắn tên rất nhiều. Vương Văn sau đó bệnh mà chết.
Chuyện trên đây trích từ U Minh Lục.
2. Thời nhà Tấn ở Trường An có người tên là Trương Thị, ngày một mình ở trong nhà, có con chim Gáy từ ngoài bay vào đậu trên giường, Trương Thị ngạc nhiên, bày tỏ lòng dạ mà khấn nguyện rằng: Chim Gáy nay đến đây, nếu là họa của tôi, thì bay lên cái lọng che; nếu là phước của tôi, thì bay vào lòng tôi. Chim Gáy vỗ cánh bay vào lòng, thế là hóa thành một cái móc, từ đó tài sản tự nhiên sinh ra vô cùng nhiều.
3. Thời nhà Tấn ở vùng Bác lăng có Lưu Bá Tổ làm Thái Thú Hà Đông, nơi dừng lại ở trên cái lọng che có thần linh luôn luôn nói cho biết, chốn Kinh sư sắp có chiếu thư tuyên bố tin tức, nhất định là báo cho Bá Tổ biết trước. Bá Tổ hỏi rằng thần linh ăn thứ gì? Đáp rằng muốn được ăn gan dê. Liền mua gan dê, ở phía trước mà cắt ra, cắt nhỏ từng miếng theo dao biến mất không hiện ra, hai chiếc gan dê hết sạch. Có một con mèo nhỏ bé ở trước án thư, lính hầu đưa dao muốn chặt đầu, Bá Tổ trách mắng ngăn lại, tự mình nâng lên đặt trên cái lọng che. Chốc lát cười lớn mà nói rằng: Xưa nay ăn gan mê mẩn, bỗng nhiên mất đi hình dáng cùng với Phủ Quân gặp nhau thật là xấu hổ. Sau Bá Tổ được làm chức quan Tư Lệ, thần linh lại nói cho biết trước, ngày đó tháng đó Bá Tổ sẽ nhận thư đến. Đến kỳ hạn giống như lời báo trước. Đến khi vào phủ Tư Lệ thì thần linh đi theo trên cái lọng che, nhất định là nói rõ sự việc trong tỉnh lỵ. Bá Tổ rất sợ hãi, nói với thần linh rằng: Nay chức quan đang là Thứ Sử, tả hữu quý nhân nghe thần linh ở đây nên có thể làm tổn hại nhau. Thần linh đáp rằng: Như Phủ Quân đã suy nghĩ thì nên rời xa nhau là tốt. Thế là bặt dứt không một tiếng động.
4. Thời nhà Tấn có lý Thường, tự là Nguyên Văn, người nước Tiêu. Lúc trẻ có một Sa môn, đến gặp Lý Thường nói rằng: Phước báo của ông sắp đến, mà lại đối đãi thuận theo, ông có thể giữ nghèo hèn mà tu đạo không ra làm quan, thì phước thiện tăng thêm đối đãi không còn, ông hãy cố gắng lên! Lý Thường tánh tình nóng nảy lại nhà nghèo, chỉ hỏi chuyện làm quan sẽ đến nơi nào chứ hoàn toàn không tìm hiểu về ý tu đạo, vì vậy cho một quyển kinh nhưng Lý Thường không chịu lấy, mà vẫn hỏi về con đường vinh hoa sang hèn như thế nào. Sa môn nói: Được mang đai vàng tía cao nhất tại ba quận, nếu như có thể ở tại một quận mà dừng lại thì cũng là tốt rồi. Lý Thường nói: Tạm thời được phú quý, nào quan tâm đến tai họa về sau. Nhân đó giữ ở lại đêm, Lý Thường ban đêm thức dậy thấy Sa môn, thân nằm đầy cả giường, đi vào gọi người nhà, lớn nhỏ đều nhìn trộm; lại biến thành con chim lớn bay lên đậu tên xà nhà, Trời sáng trở lại thân hình bình thường mà đi. Lý Thường tiễn đưa ra ngoài cổng bỗng nhiên không thấy nữa, biết là người thần, vì vậy thờ Phật mà cũng không thường xuyên tinh chuêyn. Về sau làm Thái Thú quận Tây Dương Giang Hạ Lư Giang gặp loạn Long Tương tướng quân Đại Hưng Trung Dự Tiền Phụng mà bị chém chết.
Câu chuyện trên đây trích trong Minh Tường Ký.
5. Thời nhà Đường có Trung Thư Lệnh Văn Bổn, người vùng Giang Lăng, thuở trẻ tin Phật thường niệm tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, từng chèo thuyền ở Ngô Giang bị hư thuyền nên người trên thuyền chết hết, Văn Bổn chìm vào trong nước, nghe có người nói: Chỉ cần niệm Phật chắc chắn không chết. Như vậy nói ba lần. Lát sau theo làn sóng nổi lên từ trong nước, đã đến được bờ Bắc tức thì thoát chết. Sau ở Giang Lăng thiết trai, tăng đồ quy tụ tại nhà mình, có một khách Tăng đi sau một mình, nói với Văn Bổn rằng: Thiên hạ đang loạn lạc, ông may mắn không gặp phải tai họa ấy, cuối cùng gặp thời thái bình sẽ được giàu sang. Nói xong đi nhanh ra ngoài, tiễn đưa ra bên ngoài thì không thấy nữa. Lát sau Văn Bổn ăn bữa cơm, từ trong bát cơm của mình gặp được hai hạt Xá lợi. Về sau quả nhiên giống như lời nói, Văn Bổn tự mình hướng đến nói rõ sự việc như vậy.
6. Thời nhà Đường có Thượng Thư Bộ Hộ Vũ Xương Công Đới Văn Trụ, thướng qua lại với Biệt Giá Thẩm Dụ Thiện ở Thư Châu. Văn trụ qua đời vào năm thứ bảy niên hiệu Trinh Quán nhà Đường, đến tháng tám năm thứ tám, Dụ Thiện ở châu phủ mộng thấy chính mình đi đường phố Nam phía Tây phướng Nghĩa Ninh ở chốn Kinh sư, bỗng nhiên gặp Văn Trụ mặc áo cũ sách dung mạo thật tiều tụy, trông thấy Dụ Thiện mà vui buồn lẫn lộn. Dụ Thiện hỏi rằng ông ở thưở bình sinh tu phước, nay thì làm gì? Văn Trụ đáp rằng: Tôi ở lúc còn sống tấu sai giết oan người ta, sau khi tôi chết người khác giết mổ trâu dê cúng tôi, bởi vì hai điều này, trả lời biện giải thì khổ đau cay đắng không thể nào nói hết, bây giờ cũng hiểu rõ tình cảnh rồi. Nhân đó nói với Dụ Thiện rằng: Tôi ở thưở bình sinh cùng với ông là bạn tốt, cuối cùng không thể nào tiến cử địa vị quan tước cho ông, trong lòng rất ân hận, nay ông tự mình được làm ngũ Phẩm Văn Thư, đã vượt quá Văn Trụ, vui mừng giúp nhau, cho nên đem báo cho nhau biết. Nói xong mà tỉnh giấc đến nói cho mọi người biết, mong giấc mộng có bằng chứng. Mùa Đông năm ấy Dụ Thiện vào Kinh tham gia tuyển chọn, có bị phạt bằng tiền đồng không được làm quan, lại hướng về mọi người nói là giấc mộng không linh ứng. Mùa xuân năm thứ chín Dụ Thiện trở về Giang Nam, đi đến Từ Châu bỗng nhiên nhận được chiếu thư, trao cho Dụ Thiên tước vị Ngũ Phẩm làm trong phủ Vụ Châu, đến anh làm Lại Bộ Thị Lang, nghe chiếu mới nên Dụ Thiện hỏi rõ như vậy.
Hai chuyện trên đây trích từ Minh Báo Ký.