Ấn là dấu đóng chứng thực cho bản văn. Phật pháp có ba dấu ấn để chứng nhận đúng là giáo pháp của đức Phật. Đó là vô thường, vô ngã và niết bàn, đức Phật dạy "pháp nào có ba dấu ấn trên đều do Phật nói, ngoài đó ra đều là Ma thuyết". Do đâu mà ba pháp này lại có vị trí quan trọng như vậy trong đạo Phật, Phật giáo đồ bất kể tăng tục, tiểu thừa hay đại thừa, hiển giáo hay mật giáo cũng cần phải tìm hiểu, bởi nếu không sẽ rơi vào lời cám dỗ của Ma mà lơ là bỏ qua lời Phật.
Vô thường, Vô ngã.
Đạo Phật nhận rằng mọi thứ vô thường đều vô ngã và hễ đã vô ngã thì hư huyễn không thật, song rủi thay cả hai pháp này đều là bản chất của thế gian, thế nên sự sự vật vật thuộc thế gian, bất luận là tâm pháp hay sắc pháp, hữu tình hay vô tình đều mang tính vô thường vô ngã, do vậy quyết định thế gian là huyễn hóa, và cũng vì thế nên chẳng một sự vật nào có thể mang ra khỏi cõi huyễn được, kể cả cái tôi này cũng không sao thoát ly được cõi huyễn, vì vậy phàm thoát ra được thế gian vô thường vô ngã thì gọi đó là xuất (thế gian) gia tức được giải thoát. Điều quan trọng nhất không phải ra khỏi thế gian là giải thoát mà nhờ thoát khỏi vô thường vô ngã thì được niết bàn "thường lạc ngã tịnh" mới thật sự là giải thoát.
Vô thường là sự biến đổi tuần hoàn của vạn pháp, mọi thứ khởi nguyên từ sinh rồi chuyển đến tử, mới chuyển thành cũ, trẻ hóa thành già, đẹp biến ra xấu, đó là sự vận hành của định luật vô thường. Vạn pháp đã không ngừng biến đổi nên không có ngã nào thật trong ấy, dụ như tôi ngay từ phôi thai đã không ngừng phát triển nên tôi thay đổi trong từng sát na, cho đến khi ra mắt cuộc đời, tôi chưa kịp là tôi, tôi đã tức khắc thành một tôi khác, cứ thế có vô số cái tôi trong tôi và thực sự chẳng có tôi nào trong chừng ấy tôi là tôi thật, thế nên cái danh từ tôi đó chỉ để nêu lên một cái tôi rất hư ảo không thật, nên nói vô ngã, như Heraclitus nói "không ai có thể tắm ở cùng một dòng sông hai lần", thật vậy "không ai có thể thấy cùng một tôi hai lần".
Lại nữa tôi chỉ là đặc sản của nghiệp, một thứ do nhiều nhân quả tập thành, và hễ đã do nhân duyên hợp thành đều vô ngã, vì không có thực thể. Nếu tôi là một thực thể độc lập thì tôi sẽ tự hiện hữu mà không cần dựa vào các yếu tố ngoại vi nào khác và như thế tôi không thể thay đổi, thế nhưng thực tế tôi luôn bị nhân duyên chuyển hóa lưu lạc trôi dạt khắp lục đạo với đủ hình hài, đến đổi tôi hết biết tôi thực sự là ai nữa, vừa rời thân này đã thành thân khác với khổ lạc, thương ghét khác nhau nên cái tôi vô thường biến đổi ấy hẳn là vô ngã.
Tôi tuy biến đổi liên tục đến nỗi "không ai có thể thấy cùng một tôi hai lần", song dù không ngừng thay đổi nhưng tôi vẫn là tôi, điều này hẳn nhiên không do hình tướng mà do khối nhân duyên tạo thành tôi, ngày nào nó còn tồn tại thì tôi có thay mặt đổi mày, tôi vẫn là tôi, cho đến khi nào nhân duyên này tan rã diệt vong bấy giờ tôi sẽ theo nó về cõi chết. Ôi! Do vậy tôi mới biết hóa ra tôi chỉ là đặc sản của nhân duyên, và như thế chẳng có Phật trời thánh thần nào quyết định sự khổ lạc, phúc họa cho tôi được ngoài khối nhân quả đã tạo ra tôi, nếu chúng là phúc thiện thì tôi sẽ là sản phẩm thiện phúc tốt đẹp của chúng, ví bằng ngược lại chúng là tai họa thì tôi sẽ là sản phẩm thảm hại đốn mạt của chúng, thế thì thay vì van vái cầu xin Phật trời ban phép màu, thì hãy tự ban phép ấy cho bản thân bằng cách chọn nhân mà gieo, đó là cách trực tiếp đạt được an lạc hạnh phúc không hơn là phải vất vả xin xỏ gián tiếp qua thần linh hay Phật trời sao?.
Song nhân quả tạo ra thế gian đó từ đâu ra? Từ một niệm mê, vâng do mê sinh mộng, do mộng có tôi và cảnh giới, do có tôi nên có các căn, do có cảnh giới nên có các trần, căn trần tiếp xúc sinh mọi phân biệt, từ phân biệt sinh thủ xả tạo tác đủ mọi thiện ác nhân quả, và các nhân quả thiện ác này tiếp tục tạo nên những giấc mộng tiếp theo và cứ thể mộng cho đến bao giờ tỉnh mới thôi. Điều này cho thấy từ khi chấp ngã tức nhận mộng ngã là tôi thì tôi tạo tác đủ mọi nhân quả thiện ác chiêu cảm thành mọi nhân duyên hư ảo kéo dài đến tương lai không cùng tận.
Niết bàn.
Nếu khối nhân quả tạo ra tôi là một khối nhân quả bất động thường trụ trong pháp thanh tịnh thì đó là ngã, là thường trụ, là thanh tịnh và an lạc. Khối nhân quả này có đặc tính nhân và quả là một, không thể phân đâu là ranh giới giữa nhân và quả nữa nên bất động tức thường trụ không biến đổi, và nhân quả này chính là niết bàn với bốn đức tính "thường, lạc, ngã, tịnh". Do nhân quả gọi là niết bàn nay bao quát Phật và cõi Phật nên cả Phật lẫn cõi Phật đều đủ bốn đức " thường lạc ngã tịnh".
Niết bàn cần được hiểu đúng nghĩa, đó không chỉ là cảnh giới của chư Phật theo nghĩa hẹp, mà niết bàn chính là bản giác theo nghĩa rộng, là tính giác và cũng là môi trường dung nhiếp nhị báo bao gồm chính báo là Phật và y báo là cõi Phật, nếu không có niết bàn thì không có Phật và cõi Phật. Như vậy hiểu theo nghĩa thông thường giới hạn của tục đế thì niết bàn chỉ thuần là cõi Phật, còn theo đệ nhất nghĩa đế thì niết bàn vốn vô hạn là bản lai của Phật và cõi Phật, là tên gọi khác của bản tâm hay tính giác mà không chỉ đơn thuần là cõi Phật. Tương tự như vậy, thế gian là môi trường của chúng sinh và thế giới, mà không chỉ có nghĩa là cảnh giới của chúng sinh, không có thế gian thì không có chúng sinh và thế giới, vì thế hễ xuất thế gian thì chẳng còn có chúng sinh và thế giới nào nữa, và khi nhập niết bàn thì Phật và cõi chân vốn sẵn có, mà không cần phải thành tựu, cũng như chẳng có cái tôi nào lìa bỏ thế gian đến với niết bàn. Thế nên niết bàn chỉ có chỗ cho Phật, vì vậy chúng sinh chỉ có thể cầu sinh tịnh độ mà không thể cầu sinh niết bàn, vì niết bàn do giác ngộ chứng được mà không do cầu được. Chứng thì bất động, không về mà đã về, sinh thì dời kia về đây, nên nói chứng niết bàn, sinh tịnh độ mà không nói sinh niết bàn chứng tịnh độ, tuy nhiên Tự thọ dụng tịnh độ thuộc chứng mà không sinh, còn Biến hóa tịnh độ thì sinh mà không cần chứng.
Do niết bàn là bản giác nên khi mê mất bản giác thì mất niết bàn, mất niết bàn thì mất cả Phật lẫn cõi Phật, như người ngủ mê nhập mộng thì cả họ lẫn cảnh giới thật của họ đều bị thay bởi cõi mộng và mộng ngã, đại để như kẻ mê thì Phật và niết bàn bị thay bởi chúng sinh và thế gian. Chúng sinh đã ngược với giác là Phật thì thế gian cũng ngược lại với niết bàn, vì vậy bốn đặc tính của thế gian và chúng sinh sẽ là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh, bốn thứ này do mê thành nên được gọi là bốn điên đảo.
Giác theo chân đế bao gồm Phật và niết bàn là chân thật vì hội đủ bốn đức, còn mê bao quát chúng sinh và thế gian là giả huyễn vì hội đủ bốn thứ điên đảo. Như vậy giác là thật và mê là giả, điều này có nghĩa giác là gốc thật xưa nay của chúng sinh gọi là bản giác, do mê thất bản giác tức quên gốc khiến tứ đức biến thành tứ điên đảo, do vô thường mà phát khởi sinh tử luân hồi, do bất tịnh mà tạo tác vô số vọng nghiệp, do vọng nghiệp mà lãnh chịu mọi khổ, do nhận cái vô ngã làm ngã nên cứ loanh quanh tìm kiếm lạc thú cho cái giả ngã này mà sao lãng sự phục hồi thật ngã, vì thế kinh Địa Tạng than "chúng sinh nam diêm phù đề, cử chỉ động niệm vô phi thị nghiệp", mọi cử chỉ động niệm của chúng sinh trong cõi nam diêm phù hoàn toàn đều là vọng nghiệp. Điều này cho thấy nếu không nhận ra vô thường vô ngã tất không thể quy bản tức hồi nhập niết bàn, nói chính xác là không thể giác ngộ.
Nếu tự hỏi đâu là bản chất thật của một chúng sinh? Và thế nào là thật? Sẽ nhận ra hễ mang tính vô thường vô ngã tất không thể là thật, đã không thể là thật tất nhiên là giả, như vậy ngã và thế gian đều có tính vô thường vô ngã nên khẳng định là giả huyễn, và mặt trái của giả chính là chân thực, đó là niết bàn với đủ tứ đức. Đã nhận ra niết bàn là bản giác chân thật của mọi chúng sinh, thì mọi sự tu cầu giải thoát không còn xoay quanh và chú trọng về cái tôi huyễn nữa mà tập trung vào pháp tu phát triển thật ngã, bằng cách hồi hướng mọi nhân hành đến quả tăng thượng những nhân hành ấy, có nghĩa khi gieo nhân bố thí ắt hồi hướng đến quả tăng trưởng bố thí, thay vì hồi hướng phúc báo cho huyễn ngã, do khi bố thí hồi hướng đến quả bố thí nên tương lai sẽ lại được bố thí, cứ thế nhân quả bố thí này trải qua đời đời kiếp kiếp cho đến tận vị lai không hề biến đổi, do vậy đây là nhân quả có đủ bốn đức, được gọi là giác.Vì vậy kinh Địa Tạng dạy "nếu hành thiện pháp mà hồi hướng đến quả vô thượng bồ đề thì sẽ được công đức vô lậu". Đó là sự hồi hướng cho pháp thân, mà kinh điển đại thừa thường gọi là hồi hướng về quả vô thượng bồ đề, tức quả niết bàn, pháp hồi hướng ấy là định lực khiến "tức nhân tức quả", nhân quả bất động, đầy đủ bốn đức, chính là niết bàn. Chính báo của niết bàn là pháp thân, pháp thân chính là chân thân. Ngay khi dùng giả ngã tu tập thật ngã thông qua pháp hành nhân quả bất nhị, thành tựu pháp thân thì giả ngã ấy lại chính là hóa thân. Hóa thân hành mọi nhân quả thanh tịnh bất nhị trên đến tận vị lai, thành tựu đại nguyện "hư không hữu tận ngã nguyện vô cùng".
Phàm phu tu học tập trung cho cái tôi vốn vô ngã vô thường nhằm cầu tìm mọi thứ phúc báo, kiến thức, hưởng thụ như ý cho ngã hư vọng, họ nào biết mọi công phu tu học tập trung hết vào cái ngã không thật, nên chung quy mọi tu tập học hỏi đều chỉ là vọng tu vọng học, không hề là thật, và đã không thật thì càng tu càng tăng trưởng si mê, gần gũi với Ma, và càng xa cách sự giác ngộ.
Công năng của ba pháp ấn.
Niết bàn là chân lý của thế gian được hiểu là xuất thế gian, đã là chân lý tất nhiên thường trụ bất biến và là ngã. Có thể ví rằng vô thường vô ngã là tế bào ung thư, và thế gian là hiện trạng của căn bệnh ấy. Niết bàn là tình trạng khang kiện vô bệnh mang tính thường trụ và ngã.
Để chữa bệnh mê cho chúng sinh, đức Phật như một lương y trước khi trị bệnh cần phải nắm rõ nguyên nhân và tình trạng bệnh, sau đó mới trị liệu. Về phần bệnh nhân cũng phải nhận biết có bệnh mới lãnh thọ trị pháp, chúng sinh là bệnh nhân của chứng điên đảo, nhận gỉa làm chân, chấp vọng là thật nên vô thường ngỡ thường, khổ tưởng lạc, vô ngã chấp làm ngã, bất tịnh cho là tịnh, chấp chặt cảnh giới của vô thường vô ngã là thế giới thật của cái tôi bị điên.
Điều tiên quyết để trị liệu bệnh điên này là phải trị chứng chấp vọng là thật, bằng cách giúp bệnh nhân nhận ra kẻ họ cho là gã cũng như thế giới của gã đều chỉ là vọng, bởi lẽ mọi thứ đó đều giả hữu nên vô ngã, chúng lại không ngừng thay đổi nên vô thường, do vô thường vô ngã nên là vọng huyễn phi thật. Nếu nhận ra vọng thì chân tự hiển bày, không cần phải tìm kiếm, cũng như hết bệnh thì tình trạng an lạc tự trở lại, hoàn cảnh an lạc không ở đâu xa mà chỉ là mặt trái của tình trạng bệnh khổ, nói đúng hơn là an lạc ở ngay trong khổ và khổ cũng ở ngay trong an lạc, hễ nhận ra bản chất của khổ thì được giải thoát mà bất tất phải tìm cách trốn khổ, ngược lại hễ quên mất lạc thì khổ tự hiện, như con trẻ quên mất hạnh phúc được cha mẹ yêu thương sẽ đương đầu với nỗi khổ là không được thương như đứa em. Do đó tất cả mọi pháp khổ lạc, đắc thất đều dựa vào sự hiểu biết chân thật tức chân trí hay thật huệ, gọi chung là trí giác ngộ, mà không thể dựa vào bất kì sự cầu nguyện thần linh hay Phật trời nào để được như ý, thế nên Phật giáo đồ cần nỗ lực chăm chỉ tu học trí huệ như họ chăm cầu xin. Chùa chiền cũng sẽ không phải là nơi lấy cầu xin làm sinh hoạt chính, mà là nơi giáo hóa pháp giác ngộ, vì vậy đức Phật tuyên thuyết "duy tuệ thị nghiệp" chỉ lấy trí huệ là sự nghiệp. Trí huệ chứng niết bàn, tiền bạc, danh vọng chứng lo âu mệt mỏi. Bàng Uẩn nói "Thế nhân trọng trân bảo, ngã quý sát na tĩnh. Kim đa loạn nhân tâm, tĩnh kiến chân như tính." Người đời trọng trân bảo, tôi ưa giây phút tĩnh, vàng nhiều loạn nhân tâm, tĩnh thấy tính chân như.
Niết bàn hoàn cảnh an lạc, thường hằng ở ngay trong thế gian điên đảo vô thường vô ngã, hễ nhận thức được vô thường vô ngã thì niết bàn tự hiển bày, như người tỉnh mộng thì lập tức thấy mọi cảnh thật mà không phải mất sức và tốn thời gian di chuyển từ cõi mộng đến cõi thật. Cần hiểu rằng khi giác ngộ nhập niết bàn sẽ không có cái tôi nào lìa thế gian để rảo bước vào niết bàn, mà sẽ nhận ra ta chưa từng lìa niết bàn, bởi ta không thể vào một cảnh huyễn không thật được, có chăng thì chỉ vào bằng cơn mê và cái tôi phàm tục kia chỉ là mộng ngã của mộng cảnh mà thôi, và khi quay về với chân thật thì toàn bộ mộng đều tan vào hư vô.
Như vậy tâm mê thì niết bàn thành thế gian, thường hóa vô thường, ngã thành vô ngã. Tâm giác thì mọi sự bình thường trở lại, thế nên Thiền tông lục tổ Huệ Năng nói "bồ đề bổn tự tính, khởi tâm tức thị vọng", tự tính vốn là bồ đề, do khởi tâm mà thành vọng. Giống một cơn mê ập đến hóa thành giấc mộng có tôi và cảnh giới, tôi và cảnh mộng do cơn mê tạo thành, đừng ngộ nhận mộng ngã tạo ra cõi mộng, mà cả mộng ngã lẫn mộng cảnh đều do một niệm mê sinh ra. Niệm mê ấy quên mất ngã thật nên nhận mộng ngã là ngã, lại cũng mê mất cảnh thật nên nhận mộng cảnh là cõi thật, do mê mà vô ngã thành ngã, mộng cảnh thành thật cảnh. Mê đã là niệm vong bản, quên mất bản chất thật, vậy thì một khi nhận ra bản thì mê tự tiêu tan, mê tan thì cả ngã mộng lẫn mộng cảnh cũng tự không còn, và thật ngã cùng thật cảnh tự hiện, ta tạm ví thật ngã là Phật và thật cảnh là niết bàn, còn mộng ngã là chúng sinh và mộng cảnh là thế gian. Do mộng là ảo nên không thể mang bất cứ thứ gì ra khỏi mộng kể cả ngã mộng, và thế gian cũng vậy, vì là huyễn nên không thể mang bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian được kể cả thân xác của tôi. Do vậy ngã và thế giới chúng sinh chỉ là ảo mộng, đã là huyễn ảo tất chỉ có tỉnh giác mới trừ được, ngoài ra không còn cách nào khác, do đó đạo thức tỉnh gọi là đạo Phật, vì Phật có nghĩa tỉnh giác.
Mê đã tạo ra cái tôi vô thường và cảnh giới vô ngã, thì giác cũng là bản nguyên của chân ngã là Phật và thật cảnh là niết bàn. Chẳng phải tôi tạo ra mê mà chính mê tạo ra tôi, và cũng chẳng phải do tôi thành Phật nên giác ngộ, mà chính giác ngộ đã khiến tôi thấy chỉ có Phật mà không có tôi. Do tôi vốn vô ngã không thật thì làm sao thành Phật, vì vậy cầu giác ngộ hơn là cầu thành Phật. Khi cầu thành Phật tôi tu tập mọi thứ và hồi hướng cho tôi để cầu thành Phật, nhưng cầu giác ngộ thì tôi tu học mọi pháp và hồi hướng cho pháp giác được viên mãn và khi pháp giác thành tựu thì Phật hiện và tôi biến vào hư vô, mà chẳng có cái tôi nào thành Phật cả, và như thế mới đúng nghĩa thành Phật. Đây là lý do muốn giác ngộ phải cầu pháp mà không cầu cho tôi, cầu pháp thì coi trọng tâm, cầu cho tôi thì chỉ mong được ngũ dục, vì vậy xuất gia mà khg cầu pháp chỉ cầu cho tôi, thì tâm hoang phế dù thân lắm kim tiền, đức Phật gọi họ là cư sĩ trọc, vì thân xuất gia mà tâm tại gia.
Phật pháp là phương pháp để tỉnh thức (giác ngộ) vì vậy pháp này chỉ bày chỗ hư vọng của mê đó là vô thường vô ngã, và chỉ ra chỗ chân thật của giác ngộ là niết bàn. Do lẽ này nếu pháp nào có dấu ấn của vô thường, vô ngã và niết bàn là pháp Phật. Đại loại như một toa thuốc trị bệnh phải đủ các vị thuốc có tính năng thích ứng trị liệu mới đúng là thuốc, cũng vậy bài thuốc trị bệnh mê phải có ba vị chính yếu là vô thường, vô ngã và niết bàn. Nếu không nhận ra ngã và thế giới của ngã là huyễn vì vô ngã vô thường thì mọi sự tu tập bất luận là tiểu hay đại, mật hay hiển đều tập trung tu cho cái huyễn ngã nên đều là pháp hư huyễn, và như thế có tu đến muôn kiếp cũng không đạt được giác ngộ, khác nào vo cát nấu cơm vậy.
Do không hiểu biết về ba pháp ấn nên sự tu học của đa phần Phật giáo đồ ngày nay đều nằm ngoài ba pháp ấn, họ chấp ngã và không tin vô thường, cũng như không cầu niết bàn, thay vào đó cầu mọi thứ dục lạc vô ngã và vô thường thông qua mọi hành pháp như tạo phúc, lễ bái tụng kinh, tham thiền niệm Phật không ngoài mục đích hồi hướng cho mộng ngã được mọi thứ như ý trong mộng cảnh, cho dù cầu cho cái tôi ấy hữu duyên với Bồ tát hoặc thành Phật đi nữa cũng vẫn là hư huyễn, vì làm thế nào cái huyễn ngã không thật ấy lại có duyên hay thành Phật được, thế nên mọi sự tu học này đều gói trọn trong cõi mê hay còn gọi là thế giới do Ma ngự trị, pháp tu tập cho huyễn ngã ở cõi mê tất nhiên đều là mê pháp nên chẳng chút liên quan gì đến giáo pháp giác ngộ, vì lẽ này đức Phật tuyên thuyết ngoài ba pháp này tất cả đều là các pháp do Ma nói.
Yếu tố nhân quả.
Nhân quả là yếu tố tối quan trọng trong đạo Phật, hiểu biết nhân quả sẽ đưa đến an lạc, mê muội nhân quả sẽ tạo thành phiền não, bởi chính nhân quả tạo ra thân tâm và cảnh giới., nói ví dụ như khi gieo nhân giết người, sẽ sinh ra một gã tù là tôi và cảnh giới của tôi là nhà lao, và bất cứ Thánh nhân nhân nào cũng do gieo nhân đức hạnh mà thành quả Thánh, điều này minh chứng cho nhân quả là yếu tố tạo nên ngã và cảnh giới. Do đó tu tập chỉ có nghĩa là chọn quả gieo nhân. Do mê chấp thứ vô ngã là ngã và từ đó tạo tác các nhân quả vô thường, ô nhiễm và phiền não, thế nên bốn điên đảo là triệu chứng của sự mê muội nhân quả. Nếu giải thoát hay vượt khỏi bốn điên đảo thì sẽ là giác ngộ giải thoát. Khi cải đổi nhân quả từ bốn điên đảo thành bốn đức, tức mê thành giác thì thế gian thành niết bàn, chúng sinh thành Phật.
Như vậy khi tu tập dùng tịnh pháp làm nhân, ví dụ như khi gieo nhân bố thí thì hồi hướng đến quả nhân hành bố thí, do vậy khi quả nơi tương lai thành nhân, nhân ấy sẽ là nhân bố thí và lại tiếp tục hồi hướng cứ vậy không thay đổi, nhờ đó pháp bố thí sẽ không ngừng phát triển cho đến khi viên mãn trong tương lai, đó là lúc không cần phải tác ý mà nhân quả vẫn tự động vận hành, thành tựu bố thí tam muội. Nhân quả bất động thường trụ này là ngã thanh tịnh an lạc, gọi là niết bàn.
Thế gian là mối nhân quả loạn động bất định nên ô nhiễm và phiền não, được gọi là mê. Niết bàn là mối nhân quả tam muội bất động nên thanh tịnh và an lạc, được gọi là giác.
Tổng quan.
Tính giác là bản lai của Phật và cõi Phật hay còn gọi là niết bàn. Nói cách khác thì tính giác là thể, Phật và niết bàn là tướng và dụng. Phần đông cho cõi Phật là niết bàn, đó là nói theo nghĩa hẹp của phương tiện hay tục đế, nhưng theo chân đế, niết bàn còn có nghĩa rộng vô hạn là bản giác hay tính giác là bản thể của Phật và cõi Phật, nên niết bàn ở nghĩa này là Thanh tịnh pháp thân, bốn đức của niết bàn là Viên mãn báo thân, và chư Phật mười phương là Thiên bá ức hóa thân.
Mê là huyễn thể của thế gian, thế gian là tướng và chúng sinh cùng thế giới là dụng của mê. Do mê mà có thế gian, do có thế gian nên có chúng sinh và thế giới. Bốn điên đảo là triệu chứng và trạng thái của mê. Cốt tủy của tu học giác ngộ là phát tâm bồ đề, rồi huân tập pháp bồ đề (giác ngộ) cho đến khi thành tam muội hoàn toàn loại bỏ tâm vô thường và pháp vô ngã của cõi mê, điều này cũng có nghĩa là loại bỏ cái tôi huyễn (ngã) bằng pháp bồ đề vô thượng, thành tựu pháp thân thanh tịnh.
VTA 31.7.2023