Bất luận tôn giáo nào cũng đều coi Ma vương là kẻ thù, thế nhưng Ma vương là ai, ở đâu và dựa vào đặc tính nào để nhận diện Ma vương.
Phật pháp chia ma làm 4 loại, như trong Đại trí độ luận quyển năm ghi:
1. Phiền não ma, chỉ hết thẩy mọi vọng hoặc nhiễu loạn tâm thần hành gỉa, khiến họ không thành quả bồ đề, như các thứ phiền não tham dục, sân khuể, si mê, thường gây não hại thân tâm, nên gọi là ma.
2. Ngũ ấm ma, còn gọi là ngũ chúng ma, hay uẩn ma. Năm ấm thường sinh mọi khổ não nên gọi là ma.
3. Tử ma, chỉ bốn đại phân tán, sự chết thường đoạn mệnh căn của chúng sinh nên gọi là ma.
4. Thiên ma, tức Tha hóa tự tại thiên tử ma, tân dịch là Tự tại thiên ma, là Ma vương của trời thứ sáu thuộc dục giới. Nếu người nào muốn tu các thắng thiện để siêu xuất sinh tử của tam giới ắt bị thiên ma này quấy phá gây chướng ngại, tạo nên đủ thứ nhiễu loạn, khiến hành gỉa không thể thành tựu được thiện căn xuất thế, nên gọi là ma.
Chỉ có ma này trong tứ ma là bổn pháp, còn ba thứ kia theo ý nghĩa mà gọi là ma. Nói khác hơn thiên ma là ngoại ma, còn ba thứ kia là nội ma.
Ma và Quỷ.
Đặc tính của ma là gây mê hoặc, của quỷ là tạo khủng bố, vì vậy chúng sinh yêu ma sợ quỷ. Ma dùng dục mê hoặc chúng sinh và nhiễu loạn người tu thiện pháp, trói buộc nhất thiết chúng sinh bằng dây ái dục không cho thoát ly cảnh giới dục ma, khiến phàm nhân đến niệm muốn thoát ra còn không có nói gì đến từ bỏ ma, chẳng những thế ngay đến những người học đạo dù nhận ra đặc tính của ma nên ra sức chống trả, nhưng ngàn người chỉ có một đủ sức đương đầu, còn thì phần đông rơi vào tình trạng của người không đủ sức cai nghiện nên "đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên", chung cục phải thỏa hiệp với ma, tâm họ bị chia cắt, để một phần nhỏ thờ Phật còn phần lớn tâm hồn hợp tác chung sống với ma, vì vậy tuy họ vẫn thờ Phật nhưng lại luôn hành động theo ý của ma tức chạy theo dục lạc. Chỉ có số ít người tu chiến thắng được sự dụ hoặc của ma, họ được xưng tụng là Thánh tăng, ngoài ra chỉ chống đỡ yếu ớt cho đến từ bỏ để trở lại vị trí làm ma dân xem ra khỏe và vui hơn.
Trong đời sống hàng ngày, chúng sinh dựa vào lực của ma để sinh hoạt, nếu thiếu vắng lực đó chúng sinh cảm thấy khổ não, và ngược lại sẽ thấy hạnh phúc tràn trề khi sung mãn lực này. Nhờ ngũ dục mà ta giầu có, phú quý, danh dự; nhờ ngũ dục mà ta có uy quyền nhiếp phục tha nhân, được người kính nể; nhờ ngũ dục ta được hưởng thụ. Do vậy ta không thể thiếu và không thể lìa ngũ dục được. Ngũ dục là bạn an ủi khi ta buồn, là ân nhân giúp ta giải thoát cảnh thèm khát, là niềm vui khi ta trống vắng… Ôi! làm sao đời sống có thể thiếu được người bạn quý hóa tốt bụng này, tôi không thể sống nếu vắng anh.
Với những lý lẽ đó chúng sinh thích gần gũi và coi ma là bạn tốt, là ân nhân, là thần hộ mạng, đó là lực mê hoặc của ma, khiến chúng sinh yêu và ghiền ma hơn bất cứ thứ gì trên đời. Chúng sinh coi ái dục và ma là hạnh phúc, là lý tưởng quý báu cần phải bảo vệ, thà bỏ Phật chứ không thể bỏ ma. Và như thế ma ngự trị ở ngay thân tâm của chúng sinh, là chủ tể cho chúng sinh nương tựa, vì thế ma nghiễm nhiên trở thành chủ nhân ông đầy quyền lực sai sử chúng sinh, và dĩ nhiên chúng sinh sẵn lòng trung thành phụng sự vị chủ nhân này đến muôn đời để được hưởng dục như ý. Những kẻ thân cận Ma vương được nhiều ngũ dục thường kiêu hãnh khoe khoang sự hưởng dục của bản thân khiến cho những ma dân khác ngưỡng mộ và thèm khát. Đây là lý do vì sao kinh Hoa Nghiêm nói "xả bồ đề tâm phàm sở tu thiện ma sở nhiếp thọ" (bỏ bồ đề tâm làm bất cứ thiện pháp gì cũng đều bị ma chi phối), khi trong tâm có ma thì làm bất cứ gì cũng đều thuộc ma, trừ phi phát tâm bồ đề mới thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của ma.
Do vậy ma hướng dẫn chúng sinh sinh hoạt trong cảnh giới ái dục của ma, đến niệm thoát ly cảnh giới này cũng trở thành điều cực kỳ khó làm và thậm chí còn bị xem là nỗi khổ và bất hạnh nữa, tựa như người chìm đắm trong nghiện ngập rượu chè, ma túy, không còn nỗi khổ nào hơn sự thiếu vắng chất gây nghiện. Ngũ ấm mà chúng sinh cho là thân tâm của ngã, cũng chỉ là công cụ và môi trường hoạt động của ma pháp là ái dục. Vì vậy không còn sự cách biệt nào giữa ta và ma nữa, cả hai hợp nhất bất khả phân ly, nhất tâm hưởng dục, là anh em sinh đôi với ta. Chỉ một ít người nhận chân được lực mê hoặc nơi ma, dùng thiện pháp đề kháng không để ma khống chế, sống thanh tịnh trong sự bủa vây của quần ma, những người này được gọi là thánh nhân, nhờ vào chiến thắng chính mình, một chiến thắng tối thượng được đức Phật khen ngợi "Dầu tại bãi chiến trường, thắng trăm ngàn kẻ địch, không bằng chiến thắng mình, thực chiến thắng tối thượng", và Lão tử coi sự tự thắng được mình mới thật sự là mạnh, khi cho rằng "Thắng nhân gỉa lực, tự thắng giả cường", thắng người chỉ là sức, tự thắng mới là mạnh. Có thể khẳng định rằng ai thắng được Ma vương thì người ấy là bậc đại hùng lực, là bậc vô thượng tối tôn hay gọi là đấng vô thượng tôn, nói gọn là Phật, cũng vì lẽ này quy y Phật đồng nghĩa với phát tâm vô thượng, và chỉ có tâm này hàng phục được tâm ma nên được tôn xưng là Vô thượng tâm.
Chúng sinh có nhiều nhu cầu nên ma có nhiều thứ để đáp ứng các nhu cầu đó, ma quán sát nên dùng dục nào để trói thì hiển bày dục ấy để trói buộc, như dùng sắc trói kẻ trăng hoa, dùng tiền của nhử kẻ tham tài, dùng quyền uy dụ kẻ háo danh, những kẻ tham dục đó đều vướng bẫy, và lãnh chịu mọi hậu quả tai hại, để rồi chỉ biết hối hận trong muộn màng, đó là ma lực dùng trăm ngàn hóa thân và hóa pháp của ma để khống chế chúng sinh. Ma vương chính là căn bản vô minh, gốc sinh ra mọi vọng, như người đau mắt thấy hư không không tịch thành chỗ loạn động của hoa đốm, thấy mặt trăng duy nhất thành hai, như người ngồi thuyền do vọng thấy bờ đi, do mây trôi vọng thấy trăng chạy, vọng khiến mọi sự thật đều biến đổi. Bản chất của thật pháp, là bất động như bờ, bị vọng làm thành di động, là nhất thật như một mặt trăng do vọng thành hai, là không tịch như hư không, do vọng khiến vô trung sinh hữu, trở thành chỗ sinh diệt của hoa đốm, từ nhận thức vọng mà tư duy hành động cho đến kết quả đều thuần là vọng. Hơn nữa vọng thức
này năng sinh thành ngũ ấm ma, thấy có nhị biên, sinh diệt, thấy mọi vọng là thật hữu, có năng sở, nhân ngã và cảnh giới trì giữ vọng này gọi là thế giới. Do nhân ngã nên thành thuận nghịch, thủ xả, như ý bất như ý, và nhu cầu ái thủ được thành hình, theo diễn biến của thập nhị nhân duyên.
Dục chiếc bẫy của ma.
Dục có quả thật là nhu cầu hạnh phúc của chúng sinh không? Dục cho chúng sinh hưởng thụ, dục giúp chúng sinh lạc và hạnh phúc, chúng sinh vì dục chỉ thấy cái lợi mà không thấy cái hại lớn hơn cái lợi của dục. Như kinh Bách dụ chuyện thứ 44 ghi, ngu nhân cho phú quý là sướng, mà không nhận ra rằng, từ khi mong cầu đã cần khổ truy tìm, tạo đủ mọi ác để được, được rồi lại cần khổ tính toán tìm cách duy trì, cuối cùng khi tử thần đến mất hết dục lại càng thống khổ hơn, ba quá trình của dục đều khổ. Chưa kể đến quả khổ nơi tương lai, nên đức Phật dậy, tam giới vô an, giai thị đại khổ, phàm phu đảo hoặc, hoành sinh lạc tưởng (ba cõi không an, đều toàn sự khổ, phàm phu điên đảo, vọng cho là lạc).
Dục là nguyên nhân khiến chúng sinh nảy sinh tạo tác hại người hại mình, hỗ tương gây hại để tranh giành phúc lợi, nên chi thế nhân càng cầu phúc tranh lợi thế giới càng nhiều họa hoạn. Do ma vô minh tham dục sai sử, chúng sinh không cầu phúc bằng chính nhân để được quả tương ưng chân chính, mà chỉ dùng tâm tham dục bất trạch thủ đoạn mưu cầu hạnh phúc bằng cướp đoạt, tranh giành của nhau, do hiểu và hành nhân quả lệch lạc, nên mọi mưu cầu ấy đều không đưa đến một kết quả chân thật lợi ích, ngược lại chỉ khiến nhân sinh đại loạn bất tịnh, tạo thành tai ương khổ quả vô cùng, khiến thiên Đế Thích phải mỏi mòn suy nghĩ "khổ là thứ cả thiên hạ ghét bỏ, lẽ ra nó phải biến mất từ lâu, nhưng vì đâu thứ bị ghét nhất lại đầy dẫy khắp thế gian?".
Bản chất của ma và dục.
Ngũ dục như đồ vật trong quán trọ, lữ khách chỉ tạm thời làm chủ và hưởng thụ trong thời gian ở trọ, đến khi rời quán trọ mọi vật phải để lại nguyên si như trước. Tựa như cô vợ ba của ông trưởng gỉa, sẽ đi tái giá sau khi ông chết. Chúng sinh vô tri, dốc hết thân tâm cuộc đời tạo tác mọi ác nghiệp để mưu cầu những thứ không thể mang đi được, vì chúng chỉ là huyễn hóa không thật. Chúng sinh không biết rằng mọi sự vật đều không thuộc của ai, nên chẳng ai đắc hay thất nơi các sự vật huyễn hóa bất khả di dịch này. Họ si mê sống trong mộng ảo mà cứ ngỡ là thật "đây là vợ chồng con cái tôi, kia là tài sản của cải của tôi, và đây là nhan sắc của tôi…" xét cho cùng cái nào cũng phụ rẫy tôi, tài sản nhan sắc bỏ tôi từng tháng năm, vợ chồng con cái bỏ tôi khi tử thần đến thăm, chỉ có tâm ma không bỏ tôi nó theo tôi đến tận muôn đời, không phải để cứu vớt mà để hành hạ tôi bằng đủ cách, trong giây phút cuối mỗi kiếp sống, khi mất tất cả mọi thứ đã khó nhọc gầy dựng trong một đời, lúc đó may ra tôi mới biết khi sự đã rồi, xưa nay mình sống trong ảo mộng như cổ đức đã miêu tả "nhất nhật vô thường đáo, phương tri mộng lý nhân, vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân", một hôm tử thần đến, mới biết mình trong mộng, vì chẳng mang theo được gì, chỉ mỗi nghiệp đeo thân. Nghiệp đó là ác mộng, một cơn mộng đầy bão tố tranh đoạt thương ghét vô nghĩa vì bị thần chết kết thúc
bất ngờ, để rồi ác mộng này lại tái hiện trong mỗi kiếp sống. Vì vậy đức Phật phán "nhân sinh thị khổ".
Chúng sinh đinh ninh ngũ dục là hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh biểu tượng cho sự thành công của bản thân, thế nhưng dục thực chất chỉ là cái bẫy để nhốt những tâm hồn u mê kia vĩnh viễn trong ngục tù ảo tưởng. Ngũ dục đã không thật sự là của mình thì chẳng có lý do gì để kiêu hãnh hay hạnh phúc, có chăng thì cũng chỉ là mộng ảo.
Nhiễu nhương, đau khổ và hủy diệt là thế giới của ma, như rác rến hôi thối là chốn ưa thích của ruồi nhặng, vì vậy ma dùng dục để nhiễu loạn tâm chúng sinh, khiến họ hủy diệt nhau để tranh dục tạo ra vô vàn đau khổ. Đó là cái hại vô cùng của dục, chúng sinh không nhận ra họa lớn chỉ thấy cái vui nhỏ của dục, khác nào con cá không thấy lưỡi câu đằng sau con giun, chúng sinh vì dục tự đẩy mình vào thế giới bất an khổ đau.
Ma không có dục tất không còn là ma, khi diệt được dục thì không còn là chúng sinh phàm phu nữa mà gọi là Thánh nhân vô dục, và vô dục là thanh tịnh.
Hàng ma.
Bằng cách nào diệt được ma, khi ma bất tử. Người diệt được ma, không có nghĩa là ma không còn hiện hữu ở thế gian, mà có nghĩa nhờ bẻ mũi tên ma ái vượt tầm mắt tử thần, vô hiệu hóa mọi thứ ma, chúng không thể thấy được người đó. Bẻ mũi tên ma ái đồng nghĩa với không còn ham muốn các thứ dục lạc huyễn hóa nhờ vậy tâm không loạn. Tâm bất động không loạn thì vô hiệu hóa mọi lực cám dỗ của ma, do vậy ấm ma không còn làm chủ được, phiền não ma phải chết khô, tử ma tự tàn, nội ma đã trừ, ngoại ma tất chịu hàng phục, cả bốn ma đều tiêu tan. Diệt được bốn ma gọi là đại tự tại giải thoát, là thanh tịnh, là đại công đức, là đại trí huệ… Người có đủ các công đức vô thượng trên được nhân thiên tôn xưng là Vô thượng tôn bậc thành tựu tâm vô thượng, còn gọi là Phật bậc đại giác ngộ.
Nếu không có trí huệ nhận ra ma và ta song sinh tất không thể lìa ma được, thực khó để chấp nhận phải lìa ma, khi lìa ma đồng nghĩa với lìa bỏ chính ta. Chúng sinh luôn nhận thức ta với ái dục là một, bỏ ái dục là đánh mất ta, còn gì đau khổ và gây hoảng loạn hơn được việc này, nên chúng sinh sợ sệt không dám phát tâm lìa bỏ cái ta ma mị cố hữu đó để được giải thoát ra khỏi ma và cảnh giới của ma.
Đã không dám bỏ tâm ma làm thế nào phát được tâm Phật, không xả tâm ma ắt không ra khỏi ba cõi, không phát tâm Phật tất không chứng niết bàn, nên không có chuyện xuất gia giải thoát mà không cần phát tâm. Vì vô minh không nhận thức ra ma ở ngay trong ta, nên có xuất gia tu học vẫn khư khư ôm giữ tâm ma, nhất định không phát Phật tâm, lại đem sự học Phật đóng góp cho ma tâm bằng cách hành sự truy cầu ngũ dục, lấy sự hưởng thụ dục lạc làm công đức tu hành. Vì lẽ này đức Phật bảo chúng sinh cương cường khó độ và chỉ rõ lý do chúng sinh khó thành Phật quả cũng do nơi không dám phát tâm điều phục tâm ma, đức Thế tôn nói với A Dật Đa rằng “A Dật Đa! Phải biết hết thẩy công đức của chư Phật đều từ nơi sơ phát tâm điều phục ra, cho nên thế gian khó gặp Bồ tát, Phật càng khó được. A Dật Đa! Thí như không bò tất không có đề hồ, do vậy nếu
không có Bồ tát phát tâm, ắt không có Phật chủng. Nếu có bò tất có đề hồ, do vậy nếu có Bồ tát phát tâm tất Phật chủng không dứt. A Dật Đa! Thí như có hạt giống tất có hoa quả, cũng vậy nếu có Bồ tát phát tâm ắt Phật chủng không mất. Cho nên phải biết phát tâm rất khó, do phát tâm khó mà Phật quả khó thành”.
Điều phục ma.
Đa phần Phật giáo đồ cho việc cúng dường, làm thiện để cầu phúc ngũ dục cho bản thân là công đức mà không hề biết mọi công đức không chừa một công đức nào đều từ tâm điều phục mà thành. Để được công đức chúng ta cần hiểu thế nào là tâm điều phục. Mọi hữu tình được gọi là chúng sinh hàm nghĩa trải qua vô lượng sinh tử bằng thân ngũ ấm mang nhiều phiền não, như vậy mọi chúng sinh vốn sẵn đủ ba thứ nội ma, xâu xa hơn ta có thể kết luận rằng sở dĩ gọi là chúng sinh do trong tâm có ma, vì vậy nền tảng chính yếu của sự tu hành giải thoát là điều phục ma trong tâm, thế nên phàm chúng sinh nào phát tâm điều phục ma tâm thì được gọi là chúng sinh phát đại đạo tâm tức bồ đề tát đỏa, gọi tắt là bồ tát. Mọi lý và sự của bồ tát đều thanh tịnh nhờ thoát ra khỏi tính ái dục của ma nên hết thảy chúng sinh nhân đó được cứu thoát và nương nhờ, do vậy mọi sự lý này được gọi là công đức.
Vì nhân duyên này đức Phật mới tuyên thuyết tất cả công đức của chư Phật đều từ tâm điều phục mà thành. Không còn nội ma tất ngoại ma cũng không, Không có sự tu phúc nào thông qua tâm ái dục của chúng sinh lại có thể thoát khỏi ma chướng, vì vậy phẩm Ly thế gian kinh Hoa Nghiêm dạy “Ly bồ đề tâm nhất thiết sở tác giai thành ma nghiệp” (lìa bồ đề tâm mọi việc làm đều thành nghiệp của ma), chỉ có công đức từ tâm điều phục mới vượt qua. Thế nên Thiền tông ngũ tổ Hoằng Nhẫn trách mắng “Nhữ đẳng chung nhật chỉ cầu phúc điền, bất cầu xuất ly sinh tử khổ hải, tự tính nhược mê phúc hà khả cứu” (Các vị cả ngày tu phúc, không cầu thoát ly sinh tử, tự tính mà mê, thì phúc nào cứu cho được).
Đa phần Phật giáo đồ lẫn lộn công đức với phúc đức, do vậy không mấy người tu học Phật chú trọng phát tâm điều phục cầu công đức giải thoát, họ chỉ quan tâm tới việc tăng trưởng ngũ dục thông qua chuyện cúng bái và làm thiện cầu phúc cho bản thân. Vì vậy Thiền tông lục tổ Huệ Năng khuyến cáo “Tạo tự độ tăng, bố thí thiết trai, danh vi cầu phúc. Bất khả tương phúc tiện vi công đức. Công đức tại pháp thân trung, bất tại tu phúc”. (xây chùa độ tăng, bố thí thiết trai cúng dường những việc này gọi là cầu phúc. Không nên cho phúc là công đức. Công đức từ nơi pháp thân không do tu phúc thành).
Phúc đức vẫn dính líu đến thiên ma nên không ra khỏi ba cõi do vậy gọi là phúc báo nhân thiên, nói một cách nghiêm khắc thì mọi phúc báo cho tôi đều là ma phúc giúp tăng trưởng ma lực nơi tôi, vì thế càng có ma phúc tôi càng tham dục, đắm trong dục lạc huyễn ảo đó của ma, cần hiểu rõ dục là vũ khí, là sức mạnh của ma. Chỉ có công đức mới giải thoát khỏi bốn ma thành tựu hạnh xuất gia, do pháp thân vốn không tôi nên vô nhiễm mọi vũ khí dục lạc của ma, khiến ma bất lực chịu khuất phục, mới biết phát tâm đại đạo là uy lực duy nhất hàng phục được ma, phàm điều phục được tâm thì hàng phục được ma.
Tự tính là Phật tính hay Phật tâm, do mê mất Phật tâm nên mới nhận ma tâm là tự tính. Ngẫm cho cùng lời Phật và chư tổ dậy thì phát tâm là bước khởi đầu của công trình thành
tựu công đức hàng phục ma, nếu không phát tâm chỉ lo tu phúc thì vĩnh viễn làm chúng sinh tức ma dân trong cảnh giới ma, muôn đời xa lìa với chư Phật và pháp giải thoát, như thế khác nào hàng xiển đề.
Muốn diệt trừ ma trước nhất phải biết ma ở đâu và bằng cách nào diệt được ma. Ma ở đâu? Ở ngay trong tâm tôi, nên bất kỳ cái tôi nào cũng đều tham dục, giỏi cách tranh đoạt hơn cứu giúp, vì mình hơn vì người, chăm chỉ dũng mãnh kiếm lợi bất kể thủ đoạn, hành thiện thì uể oải biếng nhác, khỏe hận thù và yếu từ bi, đó là triệu chứng trong tâm có ma. Như vậy để trị ma cần phải điều phục tâm, cách điều phục tốt nhất là thay tâm, chuyển từ ma tâm sang bồ đề tâm, để thích cứu giúp hơn tranh đoạt, vì người hơn vì mình, ghét làm ác thích hành thiện, từ bi tăng lực, hận thù suy yếu, trọng thanh tịnh hơn tham dục, đó là triệu chứng của một tâm thanh tịnh vô bệnh. Cuộc chiến với ma chính là cuộc nội chiến với chính mình, và chiến thắng chính mình là hàng phục ma vương, vì vậy đức Phật gọi đó là chiến thắng tối thượng. Kinh Pháp cú phẩm ngàn đức Phật dậy “Dầu tại bãi chiến trường, thắng hàng ngàn kẻ địch, không bằng tự thắng mình, thực chiến thắng tối thượng”, trên trời dưới đất không một thiên ma quỷ thần nào có thể thắng được người chiến thắng tối thượng
Phàm phát tâm điều phục mới hàng ma được, khi hàng phục được ma vương thì tôi và tâm ma đồng tan biến, thay vào đó Phật bản lai và chân tâm cùng xuất hiện, vậy mới biết tôi và ma không hai và chỉ là vọng ảo, Phật và chân tâm chỉ là một và đó mới chân thật.
Dục môn của Ma vương.
Tôi và ma có chung một tâm, thậm chí bất cứ cái tôi nào đi nữa cũng đều là tâm ma, điều bất hạnh cho mọi cái tôi là hạnh phúc và lợi ích của tâm ma là nhiễu loạn và gây mê, thế nên tâm ma lấy dục dụ đám tôi tranh giành gây nhiễu loạn cho cảnh giới và thân tâm của nhau, khiến chúng sinh và thế giới thành một mớ hỗn độn bất ổn và ô nhiễm. Tâm ma nhiếp mọi hữu tình, thống lĩnh muôn loài, thao túng mọi suy nghĩ và hành động của chúng sinh, nên tâm này được gọi là ma vương.
Ma vương dụ hoặc chúng sinh bằng dục lạc, kẻ nào thích hay cần đến dục gì ma vương đem dục ấy đến chi phối kẻ đó, như người thích danh thì dùng danh, kẻ thích sắc thì dùng sắc, kẻ thích tiền tài thì dùng tiền tài chi phối, khiến cho mọi kẻ đều si mê khuất phục chịu sự chi phối của ma vương. Tai hại hơn cả là do say mê dục lạc đắm sâu trong ảo tưởng quên hết bản chất chân thật, nhận vọng làm chân, trong vọng thấy có sinh tử luân hồi, vui buồn được mất. Ma khiến chúng sinh mê man không thể tỉnh, để sống mãi trong cảnh giới vọng của ma, một cơn ác mộng không có hồi kết.
Nếu không phát tâm điều phục tức bồ đề tâm thì có quy y hay xuất gia đi nữa vẫn là đệ tử ma ẩn náu trong nhà Như lai, thờ Phật để cầu ngũ dục.
Kết luận
Ma là ai? Là chính tôi. Ma ở đâu? Ở ngay trong tôi. Làm thế nào để thắng ma? Thắng cho được tôi, hãy tập đừng nghe và làm mọi thứ theo ý tôi, hãy nghe và làm mọi thứ theo lời Phật dạy.
Kẻ địch lớn nhất trong đời tôi chính là tôi. Té ra người tôi yêu nhất lại chính là kẻ địch theo hại tôi đến muôn đời. Mọi thứ tôi làm và mong cầu thậm chí từ chối giải thoát cũng đều theo ý của hắn kẻ địch mà tôi hằng ngỡ là tôi.
Ôi! Vọng tâm đã khiến tôi nhận giặc làm con, nhận kẻ thù làm người yêu, lấy tham sân si là quyền lợi chính đáng để được hạnh phúc, coi các hành vi dẫn đến quả khổ của mình trong tương lai là sự thắng lợi thành công của mình trong hiện tại và còn nhiều điều ngu ngốc không thể nói hết được, nhưng nguy hại hơn cả là nhận ma là mình.
Thế nên vọng tâm khiến tôi thành ma vừa tham dục vừa ngu mê, nếu vứt bỏ được tâm ma quỷ này thì mọi mê lầm từ bao kiếp tiêu tan, ma nào cũng bị khuất phục. Thế nhưng bằng cách nào để diệt vọng tâm? Vọng là không thật có, nên không thể diệt vọng, như làm sao giết được người trong mộng, nếu không tỉnh mộng, cũng vậy vọng tâm chỉ tan biến như giấc mộng tan khi tỉnh mộng, vọng tan thì chân thật tự hiện, và đã là thật thì không bao giờ thành vọng được, vì vậy ngay trong khi ngỡ vọng là thật, thật vẫn hiện hữu, chỉ cần nhận ra điều này, sự chân thật sẽ như ánh sáng xua tan đi bóng tối ngàn năm của vọng tâm.
Sự thật ấy là tâm bản lai xưa nay vốn không vọng và nhiễm vọng, thường hằng thanh tịnh nên gọi là bản giác, chân tâm hay Phật tính. Người tu giải thoát không nghe và làm theo cái tôi ma quái, chỉ quy y Phật tức nghe và làm theo tâm bản giác, phát khởi chân tâm tức vô thượng tâm thì vọng tâm tự tàn, ma và tôi theo đó nhường chỗ cho Phật và tôi.
Nói Phật và tôi là theo tục đế tức trên lập trường của vọng, theo chân đế tức lập trường của chân thật thì Phật có khi nào thấy tôi, và tôi chân thật nào có thấy Phật, chẳng tôi cũng không Phật mới thật sự tôi và Phật hợp nhất không hai, đó là do bởi "năng lễ sở lễ tính không tịch" hay như đại sư Huyền Giác nói trong Chứng đạo ca "năng sở song vong tính tức chân".
Năng là tôi, sở là Phật, có năng tất có sở, và dĩ nhiên là hai nên tôi là tôi, Phật là Phật chẳng dính dáng đến nhau, nói theo chân lý thì năng là vọng, sở là chân, dùng vọng là tôi hướng đến chân là Phật thì Phật ấy thành Phật vọng, vì sao? Bởi Phật không hề là năng hay sở mà là tính chân nên làm gì có năng hay sở, gọi đó là tính không tịch, phàm phu chỉ có thể nhận ra thật Phật khi nhận ra chân tính của Phật và ta thật sự đều không tịch, do vậy năng và sở không hai, ta và Phật là một, thuật ngữ của Chứng đạo ca gọi là "năng sở song vong" mất sạch năng sở, "tính tức chân" thì tính tức bản tâm chân thật sẽ tự hiện.
Commented [11]: Tính chân vốn không tịch, đã không tịch tất nhiên làm gì có năng hay sở. Vọng tâm thấy Phật từ không tịch biến thành sở, nên Phật ắy mất tính không tịch và trở thành Phật huyễn vọng. Vọng tâm ngỡ là cả ngày thấy Phật mà không thấy không tịch nên gọi là không thật sự thấy Phật, chỉ là nhận vọng Phật làm chân Phật.
Đời mạt pháp hầu hết người tu lơ là thậm chí bác bỏ phát tâm, do vậy có tu học đến mấy kiếp, xây bao nhiêu chùa đi nữa vẫn là nghiệp của ma vì không thể xuất thế gian, và vẫn mãi say sưa với các thứ dục lạc thế gian này, khác nào lấy cát nấu cơm có nấu giỏi mấy
cũng ngàn kiếp không thành, do không phát tâm nên phàm làm được thiện pháp như xây dựng chùa tháp, in kinh tạo tượng, tụng kinh niệm Phật cũng đều hồi hướng cho cái tôi ma quỷ đó được thêm dục này lạc nọ, chung quy đều tập trung hồi hướng hết cho thân ma của tôi, nên bị Tổ sư quở là chẳng có công đức gì cả, vì vậy kinh Hoa Nghiêm cảnh cáo "bỏ bồ đề tâm tu mọi thiện nghiệp cũng đều là nghiệp của ma". Phàm phát tâm thì không chỉ xây chùa mà hành mọi thứ đều là chính pháp độ sinh. Ma làm chúng sinh mê loạn, và một đời sống mê loạn không thể có hạnh phúc hay an bình, do đó nhân sinh thị khổ.
VTA 25.9.19