Trong xã hội loài người thường được phân làm ba hạng bao gồm, trẻ con, người trưởng thành và người già. Trẻ con và người già cần được bảo bọc nuôi dưỡng và không gánh vác bất cứ trách nhiệm nào, người trưởng thành phải gánh vác mọi trách nhiệm bao quát nuôi dưỡng và trông coi cả già lẫn trẻ. Không có người trưởng thành, mọi người già và trẻ con sẽ lâm cảnh bơ vơ, nguy khốn vì thiếu người chăm sóc cho ăn mặc và vui chơi giải trí, thế nhưng những người được chăm sóc thường chỉ nhận ra những thứ trước mắt nên cho ăn mặc giải trí là hạnh phúc, do đó quên hẳn thứ hạnh phúc gốc tạo nên các thứ hạnh phúc của họ, đó là một người trưởng thành với tinh thần gánh vác tha nhân. Do đó các chúng sinh này chỉ nhìn thấy mọi thứ dục lạc qua tâm hồn thèm khát mà chẳng chừa một chỗ nhỏ nhoi nào chứa các ân huệ của tha nhân, cho dù đó là của cha mẹ sư trưởng, nói gì đến chư Phật. Tuy vậy chư Phật vẫn thản nhiên chấp nhận "vì đó là trẻ thơ ấu trĩ", có vậy mới cần được giáo hóa cho đến khi nào trưởng thành, cho dù có phải trải qua thời gian dài đăng đẳng đến tận vị lai đi nữa cũng không từ bỏ, bằng đại nguyện "hư không hữu tận ngã nguyện vô cùng", do đó mà thấy chư Phật thương yêu chúng sinh hơn cả cha mẹ, bởi cha mẹ thương yêu con cái chỉ hết một đời, chư Phật thương xót chúng sinh đến muôn đời, lại có nhiều cha mẹ vứt bỏ con cái, nhưng chưa bao giờ và không thể có một đức Phật vứt bỏ chúng sinh. Tình cha mẹ cho con cái giới hạn trong một đời nên gọi là tình thương, tình chư Phật cho muôn loài đến muôn đời được gọi là từ bi. Từ bi là tình thương vô giới hạn cho nhất thiết chúng sinh, tình thương là lòng từ bi hạn hẹp và giới hạn.
Chân và ngụy đại thừa.
Trong đạo Phật, con người được phân làm hai loại chính là phát tâm và phi phát tâm. Gọi là phi phát tâm hàm nghĩa luôn chịu sự chi phối của tâm bẩm sinh vốn là vọng nghiệp trong quá khứ, thứ tâm vốn sẵn đủ hai thứ dục căn bản là thực dục và dâm dục, những thứ dục này là nền tảng cho tham sân si, chúng vác họ đi qua mọi thú ở mọi đời, chúng thúc đẩy họ tranh danh đoạt lợi, gieo rắc mọi vọng nghiệp, để rồi khi thọ quả báo thì đau khổ cầu cứu trong sự hối tiếc muộn màng, do tuyệt đại đa số con người bị tâm này chi phối nên kẻ gây tai họa và chịu khổ đau cũng chiếm tuyệt đại đa số trong thế giới loài người, đạo Phật gọi những người mang tâm này là chúng sinh. Chỉ một số ít người hiếm hoi nhận ra vọng tâm đó là nguồn gốc phát sinh ra mọi thảm họa, nên khống chế tâm này bằng cách phát tâm thanh tịnh trừ bỏ các bệnh tham sân si hoang tưởng của vọng tâm, nhờ vậy không chỉ trừ được mọi ác quả thống khổ, lại còn cứu giúp những kẻ đang gặt bão được sự an ổn, những người phát tâm này đạo Phật gọi là Bồ tát. Và Bồ tát những người phát tâm thanh tịnh là đồ chúng đại thừa chân thật, thế nên quy y mà không phát tâm vô thượng tu thanh tịnh pháp thì chỉ là hàng đồ chúng của ngụy đại thừa, sở dĩ gọi là ngụy do niềm tin cùng sự tu tập của hàng này không liên quan gì đến đại thừa ngoài cái bảng hiệu đeo trước ngực, có thể gọi họ là đồ chúng nhân thừa. Tóm lại chúng sinh chia làm hai loại, loại vô minh là loại không biết phát tâm, loại trí huệ là những người biết phát tâm, gọi là sơ phát tâm Bồ tát.
Cứu cánh của đạo Phật là giác ngộ và cứu độ chúng sinh. Giác ngộ là giải thoát thân tâm khỏi những nhân quả vọng hoặc của vọng tâm, và cứu độ chính là khiến những chúng sinh thọ khổ thành những vị Bồ tát cứu khổ, tất nhiên điều kiện ắt có và đủ để giác ngộ và độ sinh chính là sự phát tâm thanh tịnh, tâm này còn được gọi với nhiều tên khác như tâm bồ đề, tâm vô thượng hay đại đạo tâm. Những ai phát tâm sẽ là những người giác ngộ giải thoát trong tương lai, nếu không thế thì là nhất xiển đề vĩnh viễn không có ngày giải thoát.
Nhưng vì sao phải cứu độ chúng sinh, chẳng phải là ta đã giác ngộ giải thoát là xong rồi sao? Lý do là vì tôi chỉ là sản phẩm của vọng nghiệp, và như thế dĩ nhiên tôi cũng chỉ giả hữu, đã là giả hữu hẳn nhiên làm gì thật sự có cái tôi nào đâu để giác ngộ giải thoát. Ví dụ như trong mơ tôi thấy tôi sắp bị giết, chợt tỉnh tôi không mừng rỡ để cảm tạ ân cứu mạng của Bồ tát hay tiếng chuông của đồng hồ báo thức, vì đó chỉ là tỉnh cơn ác mộng, và khi tỉnh thì mọi thứ trong mộng đều tỉnh không chỉ riêng tôi, còn mộng vẫn tiếp diễn và thiếu vắng tôi. Thế nên khi tôi giác ngộ cũng vậy tôi và mọi thứ đều giác ngộ tức đều tỉnh, đó là sự việc tôi và chúng sinh đều trọn thành giác ngộ, theo thế tục đế thì đó là việc độ nhất thiết chúng sinh, nhưng theo chân đế thì tuy độ nhất thiết chúng sinh mà chưa từng độ vì cả tôi lẫn chúng sinh đều chỉ là giả hữu.
Tỉnh hay mơ đều do tâm quyết định, do vậy giác (Phật) và mê (chúng sinh) cũng do tâm, thế nên Phật tức tâm và tâm tức Phật. Tâm này là bồ đề tâm, được chia chẻ thành hai phần gồm thượng cầu thành Phật và hạ hóa độ sinh, thành Phật là tự giác, độ sinh là là giác tha, có tự giác và giác tha mới thành tựu tâm giác hành viên mãn đó chính là bồ đề tâm. Do bồ đề tâm toàn giác và vô hạn không còn có tôi và chúng sinh, nên trong giác tâm này không chỉ có tự giác mà còn giác nhất thiết chúng sinh, bởi Phật là nhất thiết chúng sinh, và nhất thiết chúng sinh là Phật, nên tự giác cũng chính là giác tha có nghĩa không còn có cái tôi riêng nào thành mà tôi và nhất thiết chúng sinh đồng thành, như vậy mới chân thật thành Phật.
Giác hành viên mãn.
Giác không có nghĩa gói trọn trong sự hiểu biết, mà giác còn bao quát mọi hành, nên giác và hành bất nhị, không có biên giới giữa hành và giác gọi là giác hành viên mãn. Giác là Phật trí, hành là Phật sự, từ trí đến sự không gì không là giác. Giác là thượng cầu thành Phật, hành là hạ hóa độ sinh, thành Phật độ sinh đều là giác, thế nên tâm bồ đề là toàn giác, phân biệt theo thế tục đế thì có thượng cầu và hạ hóa, thành Phật và độ sinh là hai sự việc riêng biệt, nhưng theo chân đế thì thượng hạ không hai, thành Phật độ sinh vốn một, tất cả chỉ là một tâm toàn giác. Phàm phu mê muội mong thành Phật nhưng tránh độ sinh, ngay nhận thức này đã là cực kỳ si mê điên đảo, nó đã xóa sổ việc thành Phật ngay từ trong trứng nước.
Khi đã hiểu phát tâm là gì, tất biết vì sao cầu giải thoát bó buộc phải phát tâm. Tín đồ Phật giáo có hai thành phần, một thành phần tu tập nhưng không phát tâm, biểu hiện tu học của nhóm này là chăm chỉ và giỏi cầu xin mọi thứ cho bản thân, vì thế xa lìa tâm giác ngộ giải thoát. Thành phần kia tu tập và phát tâm, biểu hiện tu học của họ là chuyên cần hành mọi thứ lợi lạc chúng sinh như cúng dường, phóng sinh, bố thí, khuyên dạy tha nhân tu tập phát tâm, nhờ vậy ta và người đều thành chính giác.
Trong mỗi gia đình đều có hai loại con cái, là trẻ con ấu trĩ và trưởng thành. Loại ấu trĩ vô lực không thể tự lo nên chỉ biết bám víu vào việc cầu cứu sự giúp đỡ của cha mẹ hoặc các anh chị trưởng thành, trái lại loại trưởng thành vừa tự lo vừa giúp cha mẹ lo cho lũ trẻ ấu trĩ. Vì vậy cha mẹ rất mong con trẻ sớm trưởng thành. Trong nhà Phật pháp cũng vậy, chư Phật là cha mẹ, Bồ tát và những người biết phát tâm là những huynh trưởng trưởng thành, còn lũ trẻ ấu trĩ là các tín đồ không biết phát tâm. Thế nên hơn tất cả các đấng sinh thành, đức Phật hành mọi phương tiện thiện xảo để giúp đồ chúng trưởng thành qua việc phát tâm, nhưng ngài vẫn phải nhìn nhận đó là việc khó nhất, vì vậy mà trải qua vô lượng kiếp mới có một người thành Phật.
Nhân thiên thừa.
Những người tu hành cầu tìm được quả báo như ý trong cõi trời người, được gọi là tu học nhân thiên thừa, tất nhiên thừa này vẫn trong vòng luân hồi sinh tử của thế gian nên thuộc về thế gian pháp, phi giải thoát.
Tín đồ tu học thừa này rất phổ biến bao quát tăng tục, xu hướng tu học đa phần hành các nghi thức thờ phụng cầu cúng xin xỏ mọi thứ cho bản thân như cầu an giải hạn, cầu siêu trường kỳ, làm thiện cầu tài lộc, đóng góp cúng dường xây chùa, tạo tượng để cầu phúc báo. Họ ngây ngô cho rằng cứ xây chùa tạo tượng, thành khẩn thờ cúng là được mọi thứ mình mong cầu, nên coi chùa là chốn phúc đức linh thiêng, họ nào hiểu phúc đức của chùa hoàn toàn do nhờ chùa là chỗ tu hành các công đức lợi sinh, mà nào phải nhờ vào có lắm tượng Phật Bồ tát to lớn để cầu xin, nếu do tượng mà có phúc thì nhà nào thờ thật nhiều tôn tượng sẽ có phúc lớn, nhưng thực tế không phải vậy, bất kể tượng nhiều ít, xấu đẹp, đắt rẻ, nhà vẫn kém phúc hơn chùa, bởi nhà không phải là nơi truyền bá giáo pháp độ sinh, như vậy chứng minh sự tu tập và hành pháp lợi sinh của chùa mới thật sự là phúc, mà phúc đâu phải là ngôi chùa tráng lệ hay tượng quý. Do si mê không nhận ra đâu là nguồn gốc sinh mọi công đức nên người tu thích khoe chùa, chùa hay khoe tượng, tượng khoe đắt đỏ to đẹp, đồ chúng thì tìm chùa đẹp để cúng, tượng to để cầu, cứ thể mà tăng tục học nhau thả tâm chạy theo mọi thứ bên ngoài để cầu phúc bằng cách hô hào góp phần xây chùa tạo tượng "công đức vô lượng" và ngoảnh mặt làm ngơ với Bồ tát đạo, mặc nhiên bỏ bê tâm độ sinh phủ đầy bụi bẩn tham sân, có lẽ vì các lý do này mà ngài Bảo Chí mới khuyến cáo "nhữ đẳng chung nhật thiêu hương trạch hỏa nhi bất tri thân thị đạo tràng", các vị cả ngày thắp hương đốt đèn mà không biết thân này mới chính là đạo tràng. Phàm phu chỉ biết tạo dựng chạy theo thanh sắc mà bỏ qua việc phát tâm độ sinh, bỏ quên đạo vì lo xây chùa, mà ngỡ đó là đạo, nên bị Tổ Đạt Ma quở là không công đức.
Tuyệt đại đa số tín đồ không cầu mong giác ngộ giải thoát, vì nghĩ rằng giác ngộ như đức Phật tuy được chấm dứt luân hồi sinh tử nhưng sẽ mất đi mọi thứ hưởng thụ, thế nên do cố đấm ăn xôi thà chịu sinh tử nhưng được hưởng thụ vẫn hơn, họ bị dục lạc thế gian cài bẫy gây nghiện nên bám víu thế gian dù phải đối diện với nhiều khổ não, họ cũng ngố ngáo chẳng hiểu cảnh giới nào có sự hưởng của cảnh giới ấy, tùy theo phúc hay công đức mà sự thọ hưởng của các cảnh giới cao thấp khác nhau, như người và súc sinh hưởng thụ khác nhau, chó mèo không thích sự hưởng của loài người nên chúng vẫn chấp và trung thành với thân chó mèo của chúng, con người cũng vậy, không thích sự hưởng thanh tịnh giải thoát của bậc giác ngộ nên không thích làm Phật hay Bồ tát. Vì thế họ chẳng mộ sự giác ngộ cùng cảnh giới giải thoát không còn phải cầu xin hay ao ước gì nữa, họ vẫn tiếp tục đắm trong mong cầu hưởng phúc sinh tử thế gian, mà vẫn tưởng rằng mình hạnh phúc hơn giác ngộ giải thoát, nên mọi sự tu học và hành đạo của họ đều trong khuôn khổ thế gian vô thường, gọi là nhân thiên thừa.
Nói chung phàm dụng tâm xây dựng mọi nhân quả cho ngã và ngã sở thì đều là nhân thiên thừa, nói nôm na là tu phúc báo nhân thiên, bất luận là xây chùa tạo tượng, tụng kinh lễ bái, thiết trai cúng dường cũng vẫn chỉ là phúc báo cho huyễn ngã ở các cõi huyễn nên gọi là phúc báo nhân thiên, và không hề là công đức, bởi công đức thuộc về giác ngộ giải thoát, giác ngộ là nhận ra ngã và thế gian chỉ là huyễn hóa, giải thoát là không còn bị bất kỳ thứ gì thuộc ngã và thế gian lôi cuốn trói buộc. Đa phần đồ chúng tăng tục ngộ nhận công đức là mọi thứ liên quan tới đạo như xây chùa tạo tượng, cúng dường tăng ni, còn phúc báo nhân thiên là bố thí phóng sinh, kì thực hễ dụng tâm vì ngã và ngã sở đều là phúc báo, nếu dụng tâm vì khiến cho pháp lợi sinh tăng thượng thì cho ăn mày cứu một con kiến cũng là công đức vượt trội phúc báo xây chùa tạo tượng vì lợi ích chính mình. Ngẫm cho cùng, suy cho kĩ thì đạo Phật đang bị nhân thiên thừa xâm chiếm và dẫn dắt ra khỏi con đường giác ngộ giải thoát.
Nhi đồng lão thành.
Đồ chúng Phật giáo tu học nhân thiên thừa chẳng khác đám con trẻ ấu trĩ không phát tâm gánh vác chỉ tập trung chuyện tu hành vào việc đối trước Phật Bồ tát được mình phụng thờ cầu xin cho bản thân như trẻ con vòi vĩnh cha mẹ, bất chấp chư Phật đã dùng biết bao phương tiện thiện xảo để giáo hóa cho đồ chúng sớm trưởng thành, họ vẫn bền bỉ sống đời trẻ con dẫu đã trải qua bao lần sinh lão bệnh tử, họ như những đứa trẻ bại não không biết trưởng thành là gì. Tinh thần ỷ lại, xin xỏ của nhi đồng nơi họ không thay đổi từ khi quy y tam bảo cho đến cuối đời và kéo mãi đến tận vị lai, biết đến thuở nào mới tỉnh ngộ.
Đặc tính cố hữu của nhi đồng là ham vui, thích những thứ bên ngoài như được đùa giỡn, bánh kẹo, đồ chơi… đó là nguồn hạnh phúc của trẻ con, thiếu vắng những thứ ấy chúng cảm thấy trống vắng buồn tẻ, đồ chúng tu nhân thừa cũng vậy, họ chuộng các thứ giải trí, ăn ngủ, tiền tài, danh sắc, những thứ này làm tâm hồn họ cảm nhận hạnh phúc, vắng chúng cuộc đời sẽ buồn chán. Người trưởng thành ưa thích phát triển từ trong nội tâm các sự hiểu biết giúp cho sự sinh hoạt trong đời sống của loài người tiến bộ hơn. Bồ tát cũng vậy lấy việc lợi ích muôn loài làm niềm vui, giúp cho nhân loại sinh hoạt ngày thêm thanh tịnh, cảnh giới ngày thêm an lạc, thành tựu ước vọng chúng sinh an lạc, thiên hạ thái bình. Hạnh phúc nhi đồng của đồ chúng nhân thừa hoàn toàn dựa vào mọi thứ bên ngoài, khiến cho tâm hồn dễ bị động loạn trước mọi cảnh vật và sinh tham ái tranh đoạt, được mất buồn vui. Niềm vui trưởng thành của người tu Bồ tát đạo là nhiêu ích hữu tình, nên bất động với mọi thứ ngoại pháp, nhờ vậy tâm luôn tĩnh lặng và an lạc như lời đức Phật dạy "không hạnh phúc nào sánh bằng sự an tĩnh của tâm hồn. Bồ tát lấy tâm từ bi lợi sinh làm hạnh phúc nên không cần cầu tìm hạnh phúc bên ngoài, chúng sinh lấy ngoại vật làm hạnh phúc nên khổ tâm nhọc nhằn tìm kiếm và tranh đoạt, mà nào hay mọi thứ ngoài mình sẽ chẳng bao giờ thuộc về ai kể cả mình, vì thế nhọc công cầu tìm tranh đoạt chung cục cũng chỉ hoài công như dã tràng xe cát mà thôi. Nho gia Mạnh tử nhận định "cái gì thiên hạ ban cho mình, họ đều có thể lấy đi, nhưng những thứ có được từ mình thì chẳng ai đoạt đi được", chỉ có từ bi trí huệ phát sinh từ mình là quỷ thần cũng không đoạt đi được.
Đó chẳng phải là lợi ích và là lý do để trẻ con cần phải trưởng thành phát tâm tu Bồ tát đạo đó ư? Đừng nghĩ Bồ tát trách nhiệm lớn lại không được hưởng thụ, mà sinh tâm né tránh, đó chẳng qua do dùng tâm hồn ấu trĩ quan sát nên khởi sinh ý tưởng non nớt và thiển cận của trẻ con, chúng thấy người lớn không có đồ chơi như chúng và lại cũng không cảm nhận chút hứng thú nào nơi thú vui của người lớn, nên lớn làm gì cho mất vui. Tục nhân như kẻ nghiện mù loà chỉ thấy cái được nhỏ mà không thấy cái khổ lớn của cơn nghiện, Bồ tát như người lành mạnh an vui bất động với cái sướng lẫn khổ của kẻ nghiện. Quan trọng hơn cả là Bồ tát có thứ mà kẻ nhân thừa muôn kiếp không có là tâm tự tại không phải dựa vào bất kỳ thứ gì khác để có hạnh phúc, nhờ vậy trở thành chỗ dựa vững chắc cho muôn loài kể cả hàng ngũ nhân thừa. Vì thể pháp tu chân chính để lợi sinh chính là tu bi, không phải là tu xin.
Quay đầu là bến.
Chỉ cần phát tâm là trẻ con thành người trưởng thành, từ kẻ nghiện dục ra người vô dục, từ một chúng sinh liền thành Bồ tát. Có trưởng thành như một Bồ tát mới học được các sự hiểu biết và hành được các công việc trưởng thành, được gọi là Bồ tát đạo. Vì thế vấn đề tiên quyết để theo bước chân Phật là phải phát vô thượng tâm tức tâm trưởng thành, mỗi bước theo Phật phải bằng tâm mà không hề bằng chân, những bước đi bằng tâm này là bước tiến vào biển trí huệ, đồng thời cũng là đang hành sự gánh vác nhất thiết chúng sinh của đức Phật, đó chẳng phải là những bước đi trên con đường xuất tam giới gia đó ư?.
Phật giáo đồ cần phải quán sát tâm tính để đừng biến mình thành lão ngoan đồng, một tín đồ muôn kiếp vẫn mãi là nhi đồng. Chỉ cần phát tâm thì lão ngoan đồng lập tức thành một người trưởng thành gọi là Bồ tát, và mọi sự đều thay đổi, thích cho hơn xin, thích giúp hơn cầu, nhờ vậy động loạn thành bất động, phiền não hóa công đức. Đừng dùng tâm ấu trĩ đánh giá sự trưởng thành, đừng dùng tâm không phát suy tưởng về sự phát tâm, vì như thế sẽ không đủ trình độ trí huệ để nhận biết sự lợi ích của các công đức độ sinh, như trẻ thơ do trình độ ấu trĩ nên không thể hiểu và thích các thứ hưởng của người trưởng thành.
Sự mê chấp ấu trĩ ẩn bên trong con người biến họ thành một trẻ thơ lão thành dẫu trải qua hằng vô lượng kiếp vẫn ngây ngô không hề trưởng thành, mặc cho kiến thức sâu rộng, tuổi tác thâm niên cũng không thay đổi được tâm lý thích được bảo bọc hơn là gánh vác. Tinh thần lão ngoan đồng này là sự cản trở cho việc phát triển trí huệ và là lý do chính yếu vì sao phát tâm rất khó.
BA 12.6.2023