Cư sỹ Vương Trưng cùng với anh sinh viên tên Hà Kiệt dẫn một người Mỹ tên P. King đến thăm, xin Sư phụ cho biết về cuộc đời tu hành của Người. Sư phụ trả lời: “Xin hỏi cư sỹ Lâm Giác Phi thì rõ”
P. King nói: “Thưa Sư phụ, Sư phụ mạnh khoẻ! Sư phụ đã cao niên mà trông vẫn rất mạnh khoẻ”
Sư phụ nói:
Con người cũng giống như thân cây, lâu ngày thì bị mọt ăn.
Ngồi thiền, Sư phụ có ấn định thời gian sớm, tối không?
Nếu có chia ra sớm, tối thì không phải là ngồi thiền, đã dụng công thì không phân biệt sớm tối.
- Khi con ngồi thiền nếu có một niệm khởi lên, con không “nhìn”hoặc “theo dõi”nó, chẳng hề “để ý”đến nó, nhưng có “chú ý”.
Như vậy anh còn có cái “chú ý”.
Làm thế nào mới có thể không chú ý?
Như vậy anh còn có niệm “làm thế nào”.
- À! vẫn còn cái “niệm”.
Cư sỹ Vương đưa tấm hình chụp Pháp sư Từ Hàng và ảnh tượng đức Phật Di Lặc cho Sư phụ xem, nói:
Đức Phật Di Lặc từ bi ở ngay trong tâm chúng ta.
Còn “tâm”(nghĩ) “Phật Di Lặc từ bi”là còn chấp.
Người Mỹ lại hỏi:
- Xin Sư phụ dạy cho con hiểu thế nào là “Phật tri”, “Phật kiến”và “thân kiến”; tu như thế nào mới có thể thành Phật ?
Còn có cái “tôi”dạy “anh”học, thì không được; còn có cái “tôi đang như bất động”, còn cái “tôi”vẫn không được. Anh còn có tướng thân, còn có cái “học”thì vẫn không được. Không có cái “tôi”đang làm gì, cũng không có cái “tôi”đang như bất động.
Sư phụ hỏi: “Anh đang uống trà nói chuyện, vậy người đang uống trà là ai?”
- Người khát nước đang uống.
Người khát nứơc là ai?
Cư sỹ Vương nói xen vào:
- Ấy là nói chung với mọi người hay nói riêng anh bạn Mỹ này?
Vấn đề chẳng phải là nói với ai, người hiểu được thì hiểu ra, thông một lý thì vạn lý đều thông.
P. King lại hỏi:
- Theo giáo lý”không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng”trong kinh Kim Cang mà tu có được không?
Anh vẫn còn câu kinh Kim Cang ”không ta, không ngừơi, không chúng sinh, không thọ mạng”- còn có cái “ta”để mà tu, vậy là còn có một cái ngã”.
- Có nên y theo câu của Lục Tổ Huệ Năng”Vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm “?
Được, nhưng anh còn có một câu vẫn không được.
- Nghe người ta nói niệm Phật chứng được tam muội, ngồi thiền có thể nhập định?
Anh còn “nghe người ta nói”, vẫn còn là “anh”.
- Con nghe nói Sư phụ đã chứng “niệm Phật tam muội”, ngồi thiền có thể nhập định.
Anh nói với tôi thì tôi còn có cái để căn cứ, nếu là người khác nói thì tôi không biết. Dù đông hay ít người khởi lên niệm Phật, ai cũng có chủ ý, niệm đến khi tâm định, dứt loạn …. hốt nhiên tiếng niệm Phật vang vọng thấu dưới đất. Tuy chúng ta không “ở dưới đất”niệm Phật, nhưng vẫn có tiếng niệm Phật “dưới đất”, niệm đến khi âm thanh điều hoà …, hốt nhiên âm thanh lại bay bổng lên giữa từng không trung, như thể mọi người đang ở trên hư không niệm Phật. Cái gọi là “khắp hư không đều là âm thanh niệm Phật”; ấy là trạng thái”niệm Phật tam muội”.
Người Mỹ hỏi: “Cảnh giới như vậy kéo dài được bao lâu? Một tuần, nửa tháng, một tháng hay nửa năm?”
Bất luận thời gian bao lâu, âm thanh niệm Phật cũng vẫn giữ như vậy. Dù có tiếng chim kêu, tiếng xe chạy, hay các tạp âm khác, tất cả đều trở thành “Phật thanh”. Nếu như anh còn phân biệt tiếng chim kêu, tiếng xe chạy... thì cảnh giới ấy biến mất. Hiện nay nhiều người niệm Phật chỉ miệng niệm mà tâm lại chạy đi chỗ khác. Đó là “tạp niệm Phật”, “tán tâm niệm Phật”.
Đồ đệ của Sư phụ rất đông, có người niệm Phật A Di Đà, có người niệm chú Đại Bi, có người niệm Quan Âm Bồ Tát … anh quay sang hỏi Sư Truyền Tịnh: Sư phụ dạy cho Thầy niệm gì? “
Sư phụ dạy chúng tôi niệm Phật Di Đà.
Sư phụ nói với người Mỹ:
- Sự tu tập của anh khá đấy, có nghiên cứu một chút về tu thiền, anh hỏi tôi, nên tôi mới nói về tu thiền như thế. Còn những người bình thường khác tới hỏi tôi, tôi đều dạy họ niệm Phật.
- Con và Sư phụ”tâm ấn tâm”.
Anh còn cái tâm, cái ấn, còn có “tâm ấn tâm”thì vẫn còn có cái ngã; tâm nằm ở nơi nào? Ba người đến đây hỏi tôi, tôi còn nói chuyện với ba ngừơi, các vị đi rồi tôi cũng không có, không có anh nói với tôi gì cả.
Sư phụ là một đại thiện tri thức đại triệt đại ngộ.
Đó là anh nói, tôi có làm gì đâu.
Sư phụ, Ngài là vị minh sư rất khéo khai ngộ cho đệ tử.
Đó là anh nói, tôi không nghĩ như vậy.
- Hồi còn ở Mỹ chưa đến Đài Loan, con cứ tưởng Sư phụ ngồi nhập định thì trơ ra như phổng, sau khi hội kiến mới rõ Sư phụ là bậc Thầy “biện tài vô ngại”và rất là hoạt bát.
Nam mô A Di Đà Phật
TÔI CÓ NHÂN DUYÊN VỚI Hòa THỰƠNG QUẢNG KHÂM
Lâm Giác Phi
Tháp Phi Lai chùa Thừa Thiên Năm Bính Tuất (1966) sau tết Đoan Ngọ, tôi từ Vĩnh Xuân tỉnh Phúc Kiến đến Tuyền Châu thăm anh Vương bạn học cũ – báo cho anh biết tôi sắp qua Đài Loan bằng đường biển, Vương tán thành, đồng thời bảo là anh có chiếc thuyền buồm thừơng xuyên qua lại giữa Tuyền Châu và Đài Loan, tiếc rằng thuyền đã rời bến hôm trước, mời tôi hãy đến ở tạm nhà anh, đợi thuyền về rồi sẽ đi; thế là tôi phải ở lại chờ.
Tôi vốn ưa thích phong cảnh, thích đi xem các danh lam thắng tích cổ kính. Sáng hôm sau tôi đến chùa Thừa Thiên, chùa này nằm trong thành Tuyền Châu. Hơi lệch về cửa đông thành có ba ngôi chùa lớn ( Thừa Thiên, Khai Nguyên, Sùng Phước ) là những chùa Phật cổ nhất. Tôi đi từ đại lộ phía nam đến chùa Thừa Thiên, tới trước cổng chùa thấy trên vách có bốn chữ lớn “Nguyệt đài đảo ảnh “(bóng trăng chiếu ngược), bên trong có nhiều con rùa đá lớn. Qua khỏi điện Tứ Thiên Vương, lần theo con đường đá xanh, qua khỏi cầu hồ phóng sanh, thì đến sân trước Đại Hùng Bảo Điện. Gần hai bên đường đi có hai cái tháp đứng đối diện, kiến trúc giống hệt nhau chỉ khác ở chỗ một tháp thì rất sạch, có thể nói “hạt bụi cũng không dính”, nghe nói ruồi đậu trên đó đều quay đầu xuống dưới, chẳng bao giờ quay đầu lên trên; còn tháp kia thì đầy dẫy phân chim, dơ bẩn vô cùng.
Theo truyền thuyết, xưa kia trong chùa có một vị tăng ngày ngày chuyên làm những việc lao động rất cực nhọc mà lúc nào cũng tươi cừơi vui vẻ. Một hôm bỗng có chiếu chỉ triều đình ( không rõ Triều nào) truyền đến chùa báo rằng: Đức vua nằm mộng thấy Thái Hậu bảo thỉnh vị cao tăng đắc đạo ở chùa Thừa Thiên thành Tuyền Châu – PHÚC KIẾN đến kinh thành để siêu độ cho Bà. Chùa liền tuyển chọn một số tăng đủ oai nghi đức độ vào triều siêu độ cho Thái Hậu. Lúc sắp lên đường, vị tăng lao công bỗng bước tới xin được cùng đi, chư tăng nói: “Ông không biết gì về phật sự làm sao đi được?”Vị tăng lao công đáp: “Tôi tuy không rành Phật sự nhưng có thể mang vác hành lý cho các vị”. Chư tăng cảm động vì ông ta hằng ngày nghiêm cẩn lao khổ, đồng ý cho đi.
Đến kinh thành, tới trước cửa Ngọ môn, nhà vua tuyên vời chư tăng vào triều. Các vị tăng đều vào hết, chỉ riêng vị tăng lao công đứng yên bất động. Vua hỏi vì sao không vào, tăng đáp: “Dứơi đất có Phật không dám vô lễ bứơc qua”. Vua phán phải vào, tăng bèn chống đầu xuống đất, hai chân đưa lên trời, nhảy ngược mà vào. Vua lấy làm lạ sai người đào đất lên thì thấy có một bộ kinh Kim Cang. Đến lúc đó nhà vua mới biết Thái Hậu muốn thỉnh vị cao tăng này. Vua liền đích thân ra tiếp đãi một cách thành kính. Vua thỉnh ý tăng: Lúc làm pháp siêu độ cần chuẩn bị như thế nào? Đáp: “Trừ việc chư tăng làm đúng theo nghi thức siêu độ ra, nên lập riêng một cái đài, trên bày hương án, chính giữa có treo phương linh vị của Thái Hậu”.
Đang lúc cử hành pháp siêu độ, vị tăng lao công đột xuất mời nhà vua lên đài, còn mình thì cầm phướng phất ba lần mà tụng kệ rằng:
Ta vốn chẳng đến
Người có lòng thành
Một niệm không sanh
Siêu sanh thiên quốc
Nhà vua bổng thấy Thái Hậu hiện ra trong vừng mây, lạy tạ vị tăng rồi từ từ bay lên. Khi pháp sự hoàn tất, chư tăng từ giã ra về, vua riêng giữ vị tăng lao công ở lại, đồng thời đích thân đưa đi du ngoạn ở ngự hoa viên và các cảnh đẹp trong kinh đô. Một hôm đi ngang qua một tháp đá, tăng bỗng dừng lại chăm chú nhìn cái tháp, vua hỏi:
Sư thích tháp này không? Trẫm sẽ sai người bổ rời ra chở đến chỗ sư ở “. – Vị tăng đáp:
- Nếu bệ hạ bằng lòng tặng cho thì bần tăng xin tự lấy về. Nói xong phất tay áo một cái, tháp liền thu vào trong đó, rồi chắp tay chào vua mà đi … Vua sai người tìm theo tiễn đưa, nhưng chẳng thấy bóng dáng tăng đâu cả. Tăng đã về đến chùa Thừa Thiên rồi mà các vị tăng khác vẫn còn đang đi trên đường. Sau khi chư tăng về đến chùa, có một người biết, nói:
- Sư siêu độ cho Thái Hậu ắt là có ban thửơng, sư có thể chia cho đại chúng với? - Tăng đáp:
- Có chứ, nhưng chỉ sợ mọi người lấy không nổi. – Liền từ trong tay áo trút ra cái tháp, dựng nó bên cạnh con đường đá. Do đó mà đặt tên là “Phi lai tháp “( Tháp bay đến ). Người sau thuê thợ xây một cái tháp tương tợ đứng đối diện. Chẳng bao lâu vị tăng lao công ấy bỏ đi mất.
Lại có truyền thuyết: Chùa Nam Sơn ở Chương Châu tỉnh Phúc Kiến có vị tổ sư tên Long Khố, sự tích cũng giống như câu chuyện trên, chỉ khác là lúc đi với vua, tổ sư nhìn chăm chú long bào của vua, vua hỏi: “Sư thích long bào này không?”Sư nắm khố cười nói: “khố rách rồi!”Vua liền cởi long bào, sai thợ sửa lại thành khố rồi đưa tặng sư, sư mặc vào, từ biệt ra về, do đó người ta gọi sư là Long khố tổ sư. Không biết Long Khố tổ sư có phải là vị tăng lao công ở chùa Thừa Thiên chăng. Vì chưa tra cứu được nên không dám quyết đoán.