H2. Tu tập theo phương pháp của Bồ tát Tịch Thiên
I1. Tư duy công đức của pháp tu Hoán đổi mình và người
I2. Nếu tu tập sẽ phát sinh tâm đó
I3. Thứ tự tu tập pháp tu hoán đổi mình và người
J1. Trừ khử sự chướng ngại
J2. Nói rõ pháp tu
J3. Số lượng phát tâm
H2. Tu tập theo phương pháp của Bồ tát Tịch Thiên.
I1. Tư duy công đức của pháp tu Hoán đổi mình và người.
Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Nếu muốn được mau chóng,
Cứu hộ mình và người,
Nên tu “tự tha hoán”,
Bí quyết rất tuyệt vời. (Phẩm Tám, kệ 120)
Lại nói:
Tất cả vui trên đời,
Đều do lợi người sanh,
Tất cả khổ trên đời,
Đều do tự lợi thành.
Đâu cần phải dài lời,
Phàm ngu cầu tự lợi,
Mâu Ni chỉ lợi tha,
Khác biệt xa vời vợi.
Nếu không chân thực đem,
Vui mình thay khổ người,
Không những không thành Phật,
Sinh tử cũng không vui. (Phẩm Tám, kệ 129 131)
Cho nên cần phải quán sát, bám vào ngã chấp là ngưỡng cửa cho tất cả sự suy tổn, tưởng nghĩ đến kẻ khác là cội nguồn của tất cả niềm vui.
I2. Nếu tu tập sẽ phát sinh tâm đó.
Như một người, xưa kia là kẻ thù của chúng ta, chỉ cần nghe đến tên của họ là chúng ta cảm thấy lo sợ. Sau đó họ trở thành bạn của chúng ta, dần dần trở nên thân thiết. Hiện nay, mỗi khi vắng họ chúng ta lại cảm thấy nhung nhớ bâng khuâng. Sự thương ghét tùy tâm mà biến chuyển. Cho nên nếu tu quán sát mình là người khác thì cũng có thể quán sát người khác là mình. Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Thấy khó không lùi bước,
Mọi việc đều do quen,
Như xưa, chỉ nghe tên,
Lòng đã sinh sợ hãi,
Do nhân duyên gần gũi,
Lâu dần thấy quyến luyến,
Nay nếu phải xa nhau,
Lòng cảm thấy muộn phiền. (Phẩm Tám, kệ 119)
Lại nói:
Thân mình đổi thân người,
Như thế cũng không khó. (Phẩm Tám, kệ 112)
Tuy nghĩ như vậy, nhưng trên thực tế, thân người cũng không phải thân mình, và như vậy, tâm xem người như chính mình làm sao sinh khởi? Nên quán sát thân mình hiện nay cũng chỉ là do tinh cha huyết mẹ kết hợp, đây cũng là thân phần của người khác. Do tập khí nhiều đời nên sinh khởi ngã chấp cho là thân mình. Đối với thân người khác, tu tập quán sát là thân mình, thì sự ái chấp cũng sẽ sinh khởi. Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Tuy tinh cha, huyết mẹ,
Vốn không phải thân mình,
Vì tập khí nên chấp,
Cho đó là thân mình. (Phẩm Tám, kệ 111)
Như vậy đối với sự lợi ích (xem người là mình) và sự họa hoạn (phân biệt người khác mình), phải nên khéo léo suy ngẫm, do sự chí thành tu tập, sinh khởi sự hăng hái. Vì siêng tu tập nên tâm “xem mình và người như nhau” sẽ sinh khởi. Hành giả nếu nhận rõ điều này thì hãy nên gia công tu tập.
I3. Thứ tự tu tập pháp tu hoán đổi mình và người.
J1. Trừ khử sự chướng ngại.
Pháp tu “tự tha hoán”, hoặc gọi là “xem mình là người khác, xem người khác là mình”, không có nghĩa là tưởng tượng người khác là mình, đối với mắt, mũi, v.v..., của họ, tưởng tượng là của mình, mà là tu tập tâm thức, cải đổi sự “chỉ biết lo cho mình” và sự “không màng đến người khác.” Sinh khởi tâm thương người khác như mình [đã thương mình], và “bỏ mặc” mình như [mình đã bỏ mặc] người khác, cho nên gọi là “hoán đổi sự an lạc của mình và sự khổ của người.” Nên biết, đây cũng chính là xem “ngã ái chấp” như oán thù, diệt trừ sự xem trọng sự an lạc của chính mình, xem “tha ái chấp” như công đức, diệt trừ sự xem thường sự thống khổ của người khác. Dùng đây mà tu tập để diệt trừ sự khổ cho chúng sinh. Nói tóm, phương pháp tu tập này lấy sự “xem thường sự vui của chính mình, diệt trừ sự khổ cho kẻ khác” làm điểm chính yếu. Tu tập pháp này có hai điều chướng ngại:
(1) Chấp trước thân mình và thân người có sự khác biệt, giống như hai màu vàng và màu xanh, kế đến, đối với sự khổ lạc phát sinh, sinh khởi ý niệm: “Đây là của mình, phải nên tu tập, phải nên trừ diệt, đây là của người, phải nên xả bỏ.” Muốn đối trị vấn đề này nên quán sát tự tính của mình và người không có sự khác biệt, trong sự đối đãi thường nhật, mình cũng có thể sinh khởi tâm niệm giống người khác, và người khác cũng có thể sinh khởi tâm niệm giống mình. Ví như hai ngọn núi, ngọn núi này và ngọn núi kia. Lúc đang ở ngọn núi này thì thấy ngọn núi kia là [ngọn núi] khác, nhưng nếu đã đi đến ngọn núi kia, thì lúc đó, ngọn núi kia lại là [ngọn núi] này, và ngọn núi này (lúc nãy) bây giờ là [ngọn núi] khác. Trường hợp này không giống như màu xanh, bởi khi nó đối đãi với màu khác, chỉ có thể quán sát nó là màu xanh, không thể quán sát nó là màu khác. Tập Bồ Tát Học Luận nói:
Tu tự tha bình đẳng,
Kiên cố Bồ đề tâm,
Tự tha chỉ tương đối,
Hư vọng phân tự tha,
Bên đây khác bên kia,
Quán gì mà thành tự,
Tự còn không thành tự,
Quán gì mà thành tha.
Điều này có nghĩa là [tự tha] chỉ là từ vị trí tương quan đối đãi mà tạm thời an lập, chứ thật sự chúng hoàn toàn không có tự tính.
(2) Nghĩ rằng sự khổ của người khác không liên can đến mình, không cần phải nỗ lực diệt trừ sự khổ của họ. Muốn đối trị vấn đề này, nên quán sát rằng nếu nghĩ rằng sự khổ của người khác không liên can đến mình nên mình không quan tâm, như vậy, sự khổ của tuổi già đâu có tổn hại gì đến hiện tại (tuổi tráng niên) mà phải lo lắng dự trữ tiền của để phòng ngừa. Hơn nữa, bàn tay cũng đâu cần phải chữa trị sự đau của bàn chân, bởi vì tay và chân là khác biệt. Lại có thể thêm ví dụ, chẳng hạn như buổi trưa và buổi chiều, v.v... Nếu cho rằng tuổi tráng niên và tuổi già [của một người] là một sự tương tục, hoặc bàn tay và bàn chân là cùng một tụ tập, không giống như mình và người khác là hai vật thể khác biệt, thì nên nhớ rằng sự tương tục và tụ tập chỉ là đối với nhiều sát na, và nhiều cá thể khác nhau mà giả định, không có bổn thể đơn độc cá biệt. Tự ngã và tha ngã cũng phải từ sự tương tục và tụ tập mà thành lập, bởi đó chỉ là tự tha tương quan đối đãi mà thành lập, không hề có bổn thể độc lập. Do vì tập khí chấp trước tăng thượng từ vô thỉ, cho nên lúc sự khổ đến với mình thì mình không thể chịu đựng (bất nhẫn), và như vậy, nếu đối với người khác, tu tập tâm “ái chấp”, thì khi thấy họ bị khổ, chúng ta cũng sẽ sinh tâm “bất nhẫn.”
J2. Nói rõ pháp tu.
Do sức mạnh của ngã tham, sinh khởi ngã chấp, cho nên từ vô thỉ đến nay, sinh khởi biết bao nhiêu hành tướng “không đẹp”, chỉ cầu sự viên mãn cho chính mình, lấy “tự lợi” làm chủ chốt, không biết phương tiện tu hành, cho nên dù trải qua vô số kiếp, công hạnh lợi mình lợi người vẫn chưa thành tựu, không những không thành, mà lại còn chịu bao nhiêu sự khổ bức bách. Nếu chuyển tâm tự lợi thành tâm lợi tha thì ắt đã sớm thành Phật, quyết chắc đã viên mãn công hạnh lợi mình lợi người. Do vì chưa được như vậy, cho nên đã phải lao nhọc trải qua bao nhiêu kiếp mà vẫn vô ích. Hiện nay biết rõ kẻ thù đệ nhất chính là sự “yêu thích ngã chấp”, phải nên ghi nhớ, tăng gia nỗ lực, nếu chưa sinh khởi khiến cho không sinh khởi, nếu đã sinh khởi, khiến cho không còn tương tục, quyết định kiên cố, miên mật tu tập. Tương tự, tư duy tất cả công đức của sự “yêu thích người khác”, phải nên ghi nhớ, tăng gia nỗ lực, đối với tâm “bỏ mặc người khác”, chưa sinh khởi khiến cho không sinh khởi, đã sinh khởi khiến cho không còn tương tục. Đối với người khác chúng ta nên phát khởi ảnh tướng “đáng yêu”, “đáng ưa”, “vừa ý”, giống như trước đó chúng ta đã từng “yêu thích” chính mình. Hiện nay đối với người khác cũng phải nên sinh khởi tâm “yêu thích.” Tôn giả Atisha nói: “Người Tây Tạng biết có những Bồ tát không tu tập tâm từ bi.” Nếu vậy, phải làm thế nào? Trả lời: “Từ đầu phải theo thứ tự mà tu tập.” Ngài Lãng Nhật Dương Ba nói: “Ngài Hà Bà Ba và ta có mười tám phương tiện người và một phương tiện ngựa. Tổng cộng là mười chín. Phương tiện người là phát tâm Bồ đề thù thắng, làm bất cứ điều gì, đều học cách làm lợi ích hữu tình; phương tiện ngựa là chấp vào “ngã ái”, có thể khiến cho Bồ đề tâm chưa sinh khởi sẽ không sinh khởi, đã sinh khởi không thể an trụ, không thể tăng trưởng. Cho nên đối với điều này phải nên tận lực đối trị, khi đối diện chúng sinh, phải nên tận lực lợi ích.” Ngài Khang Long Ba cũng nói: “Do vì chúng ta xả bỏ hữu tình, cho nên hữu tình cũng xả bỏ chúng ta.” Vì thế, thiết lập hay chưa thiết lập nền tảng Đại thừa, tiến nhập hay chưa tiến nhập giai vị Đại thừa, tất cả đều liên hệ đến điểm này (tự lợi hay lợi tha). Cho nên, trong tất cả mọi thời, đều phải nên quán sát khiến cho tâm [lợi tha] sinh khởi. Nếu sinh khởi được thì tốt, nếu chưa sinh khởi, thì phải nên gần gũi các vị thiện tri thức chỉ dẫn pháp tu này, và các bạn đồng học đang tu tập pháp này. Hơn nữa, cũng nên tìm đọc các kinh luận chỉ dẫn pháp tu, và phải nhân đây siêng năng tích tập tư lương, tịnh trừ nghiệp chướng. Nếu chúng ta có thể tịnh tu như vậy, ắt có thể gieo hạt giống viên mãn, chớ nên bỏ qua cơ hội tu tập, mà phải sinh tâm cực kỳ hoan hỷ. Tôn giả Atisha nói:
Nếu muốn tiến nhập cửa Đại thừa,
Phá tan hắc ám, trừ phiền não,
Giống như nhật nguyệt Bồ đề tâm,
Nỗ lực nhiều kiếp khiến sinh khởi.
J3. Số lượng phát tâm.
Như phần trên đã đề cập.