Xét theo kinh Lăng Nghiêm và Hoa Nghiêm Âm Nghĩa[1], [chữ Vạn thoạt đầu] đều được ghi bằng ký hiệu 卍. Tới niên hiệu Trường Thọ (692 694) đời Võ Tắc Thiên nhà Đường, mới quy định ký hiệu ấy là một chữ, đọc là Vạn, biểu thị ý nghĩa vạn đức cát tường. Hết thảy tượng Phật và các bức vẽ tại Trung Quốc đều vẽ là 卍. Ở Bắc Bình (Bắc Kinh) lại có một kiến trúc có hình dáng đặc biệt cũng phỏng theo hình dạng của ký hiệu ấy, gọi là Vạn Tự Lang (hành lang theo lối chữ Vạn). Chỉ có trước ngực tượng Phật Nhật Bản, đa số tạo hình chữ 卐, nêu lý do trong ba mươi hai tướng, phàm những gì có tánh chất xoay tròn đều xoay theo chiều phải, như tóc xoắn trôn ốc, tướng bạch hào giữa hai mày v.v... nên chữ Vạn này cũng phải xoay theo chiều bên phải. Tuy vậy, bọn ta là phàm phu, chưa thấy thánh thân (chân thân của đức Phật), há dám quả quyết ai đúng! Nhưng cư sĩ đã nói phải nên thống nhất, kẻ hèn rất đồng ý. Trước khi chưa khảo cứu [tường tận], hãy nên tuân theo tập quán của mỗi nước. Như tượng A Di Đà Phật tiếp dẫn, kiểu mẫu Trung Quốc là cánh tay bên phải buông xuôi [theo thân], còn kiểu mẫu Nhật Bản là buông xuông cánh tay trái, cũng chẳng nhất trí! Trong lúc hai luồng văn hóa giao lưu này, chẳng cần phải tranh chấp với người khác, có tranh chấp cũng vô ích! Chẳng bằng cầu sao cho ai ấy được an tâm, thuận theo những gì được đa số trong nước mình ưa chuộng [để vẽ, khắc hình chữ Vạn] thì hay hơn!