Những câu hỏi một, hai, ba đều thuộc về pháp môn tính toán, cho nên tôi gộp lại để trả lời, vì tánh chất [của những câu hỏi ấy] chẳng khác nhau. Theo người Hoa, con số Ức thường được giải thích là tên gọi khác của mười vạn. Tra duyệt các sách chú giải đời Tùy, chữ Ức có khi được hiểu là một trăm vạn, hoặc là một ngàn vạn khác nhau. Tra cứu sách Du Già Lược Toản chép về con số Ức, Tây Phương (tức Ấn Độ) có bốn cách nói: Một là mười vạn, hai là trăm vạn, ba là ngàn vạn, bốn là vạn vạn. Chiếu theo cách tính toán đối với chữ ấy, Trung Hoa và Tây Phương đã khác nhau, giữa Trung Hoa với nhau cũng có sự bất đồng [tùy theo từng triều đại], giữa Tây Phương với nhau cũng có sự bất đồng. Trong tình huống bất đồng to lớn ấy, [tìm hiểu chánh xác con số Ức được nói theo kiểu nào] khá là khó khăn! Đối với các kinh luận được dịch sang tiếng Hán, như Du Già Hiển Dương [Thánh Giáo Luận] chủ yếu coi một trăm vạn là một ức, kinh Hoa Nghiêm chủ yếu coi một ngàn vạn là một ức, Trí Độ Luận chủ trương mười vạn là một ức. Tức là cổ đại đức cũng chẳng nhất trí. Đối với chữ này, vẫn chưa thể khảo sát được tiêu chuẩn, làm sao có thể nói tổng số năm Di Lặc Phật sẽ giáng sanh? Huống hồ tính toán lại là một loại [học vấn] trí huệ. Loại học vấn ấy chính là sở đoản bình sinh của kẻ hèn này. Nếu con số đến hàng vạn, sẽ [cảm thấy] váng đầu nhức óc, tính toán chẳng rõ ràng! Đối với chuyện phức tạp như thế, càng chẳng dám mon men! Kẻ chẳng mẫn tiệp này kính thưa rõ [cùng ông như thế đó].