Có hai cách chọn lựa:
a. Trong tam muội nếu có căn lành phát tướng, biết các nhơn duyên đã gieo trong quá khứ. Làm sao để thiện phát? Lược khai bốn thứ:
Một là niệm hóa Phật, thiện căn sẽ phát hiện. Trong niệm Phật tam muội, hốt nhiên nhớ Phật tu lục độ vạn hạnh, thành băm hai tướng, thân có quang minh đẹp, tâm có trí huệ, thuyết pháp lợi sanh, hàng phục ma oán. Lúc nghĩ như thế, sanh lòng kính ái, khai phát tam muội, tăng tấn Phật hạnh. Hoặc là trong định, thấy thân tướng Phật, tâm tin hiểu trong sạch. Hoặc là trong mộng, nghe Phật thuyết pháp, giác ngộ tâm Phật.
Hai là niệm báo thân Phật, thiện căn phát tướng là trong lúc niệm Phật, hốt nhiên nhớ tới đến thân quả báo viên mãn của Phật đều là công đức vô lậu thành tựu, tướng hảo, quang minh, mỗi mỗi vô lượng, thần thông, trí huệ đầy tràn pháp giới, liên tục trạm nhiên tột hết vị lai. Lúc nghĩ như thế, huệ giải phân minh, quyết định an ổn, niệm lành tiếp nối, hoặc là trong định, nghe nói cảnh giới Phật pháp chẳng nghĩ bàn, liền được xuất sanh vô lượng trí huệ pháp môn. Hoặc là trong mộng, thấy tám vạn bốn ngàn các tướng tốt lành, liền xuất sanh vô lượng nguyện hạnh công đức.
Ba là niệm Phật pháp, thiện căn phát tướng là trong tam muội, chợt nhớ thân chơn thật tánh của Phật, thanh tịnh vô tướng tựa như hư không. Chỉ là đệ nhất nghĩa đế, chẳng có cảnh giới thế đế, lìa sanh rời diệt, vô tác, vô vi, chẳng đến chẳng đi, chẳng giảm, chẳng tăng. Lúc nghĩ như thế, thiện tâm khai phát, nhập định an vui, thông đạt vô lượng pháp môn, hiện khởi vô biên cảnh Phật. Hoặc là trong định thấy Phật dùng pháp thân vi diệu đủ các tướng tốt liền được giác ngộ, xa lìa thường, vô thường, mà hiện thường và vô thường. Luận Thành Duy Thức nói: ‘Pháp thân, năm pháp làm tánh, chẳng phải riêng tịnh pháp giới gọi là pháp thân’. Lúc ngộ như thế, khai phát thật trí, ba thời hiện tiền. Hoặc là trong mộng, thấy phật đem các pháp như nghĩa để dùng làm thân, liền được giác ngộ, dùng chơn như làm Phật, không cảnh gì chẳng là Phật. Đại Phẩm chép: ‘Tướng như thật của các pháp: chư pháp như thật tức là Phật. Lìa ngoài điều ấy, chẳng có phật khác’. Lúc ngộ như thế, thanh tịnh sáu căn, pháp tánh hiện tiền.
Bốn là niệm mười Phật, thiện căn phát tướng, ở trong thiền quán, chợt nhớ đến mây pháp giới thân của Phật, y báo, chánh báo viên dung, chơn ứng vô ngại, một và nhiều nhập vào nhau, lớn, nhỏ, ẩn, hiện, cũng là lý, cũng là sự, cũng là người, cũng là pháp, cũng là đây, cũng là kia, cũng là nhơn, cũng là quả, cũng là chín cõi, cũng là Phật giới, cũng là tam thân, cũng là mười thân. Lúc nghĩ như thế, khai phát vô tận tâm lành, xuất sanh vô tận tam muội, diệt vô lượng phiền não, hiển các thứ pháp tánh. Hoặc là trong định, thấy vô chướng ngại Phật, trong mỗi cõi, mỗi bụi hiện thân thuyết pháp, thời liền chứng biết pháp môn nhất niệm của ngài Đức Vân, xuất sanh hăm mốt môn. Sau khi biết như thế, phát nguyện Phổ Hiền, hành hạnh Phổ Hiện. Hoặc là trong mộng, thấy vô tận thân Phật, thuyết pháp lợi sanh, liền được nhập oai quang niệm Phật tam muội, nhiếp vô tận tam muội. Sau khi ngộ như thế, phát [Tì Lô] Giá Na trí thành cảnh Giá Na.
Các căn lành trên đây đều từ quá khứ nay sanh, là tướng niệm Phật được báo vậy.
b. Trong tam muội nếu có nghiệp chướng phát tướng, thời biết quá khứ chẳng trồng thiện căn. Gì là chướng phát? Cũng khai bốn thứ:
Một là hôn trầm, tối tăm che lấp, nghiệp chướng phát tướng. Tức là lúc niệm Phật, liền bị mê ngủ, trầm ám, trì trệ, không thể nhớ gì làm cho các thiền quán chẳng được khai phát.
Hai là vọng niệm tán loạn, nghiệp chướng khai phát. Lúc muốn tu quán, tuy chẳng hôn trầm, mà sanh tà tưởng, muốn làm các sự: tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, hủy giới v. v. . xoay vần sanh chuyển, không lúc tạm ngừng, bởi thế tam muội chẳng được hiện tiền.
Ba là ác cảnh bức bách, nghiệp chướng phát tướng. Lúc muốn nhập định, tuy không vọng niệm, nhưng có cảnh ác, hoặc thấy lửa cháy, nước trôi, hoặc nghe chấn động, hoặc không đầu, tay, hoặc núi sụp xuống biển. Các thứ bức bách như thế khiến cho hoảng sợ, đạo tâm đã phát bị chướng ngại chẳng khởi được.
Bốn là bệnh sự khổ não, nghiệp chướng phát tướng. Lúc đang niệm Phật, tuy không có những cảnh trên, mà thân chợt sanh các thứ tật bệnh, khổ não trăm mối, hoặc bị các thứ sự vụ thế gian lôi kéo chẳng dứt. Bởi thế chẳng sanh, chẳng thể chứng nhập.
Nghiệp chướng nói trên đều do nhơn chẳng lành trong quá khứ nên hiện tướng. Nhân vì hai pháp lành ác hiện tướng, liền có thể biết được căn tánh của mình, là thiện hay ác, cũng biết được mình trong đời trước trồng thiện hay gieo ác, làm ác hay làm điều chẳng ác. Thấy như thế xong, thiện thì tu cho tăng thêm khiến được viên mãn. Ác thì đối trị, khiến cho trừ diệt. Làm sao đối trị, cũng mở ra bốn môn:
Một là trị diệt hôn trầm chướng: Nên dạy niệm nơi băm hai tướng của hóa Phật, tùy ý chọn lấy một tướng, hoặc lấy tướng bạch hào nhắm mắt tự quán. Nếu tâm ám độn, quán tưởng suông chẳng thành, thời nên đối trước một bức tượng Phật đoan nghiêm, nương vào đó nhập quán. Nếu chẳng rõ ràng, liền mở mắt quán, rồi lại nhắm mắt. Lúc tưởng như thế, tâm nhãn mở toang phá được chướng ấy, không còn hôn trầm.
Hai là trị diệt vọng niệm chướng, nên dạy quán mười công đức, bốn vô sở úy, mười tám bất cộng, tam muội giải thoát, nhất thiết chủng trí, công đức chẳng thể nghĩ bàn vô lượng vốn có của báo thân Phật, phổ hiện sắc thân lợi ích hết thảy. Thần thông biến hóa, dẹp tan ma và ngoại đạo. Niệm pháp lành công đức của phật như thế, hết thảy tà ác, tâm, tâm số pháp tự nhiên tiêu diệt.
Ba là trị diệt ác cảnh chướng, nên dạy niệm pháp thân của Phật, pháp thân của Phật tức là pháp tánh bình đẳng, không tịch, vô vi, chẳng có hình tướng. Đã không hình tướng thì sao có cảnh giới bức bách. Do cảnh giới là không, nên trị diệt được chướng ấy.
Bốn là trị diệt bịnh sự chướng, nên dạy niệm mười thân Phật. Do Phật bồ đề oai thế lực trì bổn nguyện công đức, chẳng bị sự việc thế gian bó buộc, nhờ vào phước đức tướng hảo trang nghiêm ý sanh pháp thân của Phật, chẳng bị hết thảy bệnh khổ làm não. Niệm pháp thân của Phật tựa như hư không, theo trí lực ứng hóa hết thảy, chẳng như chúng sanh: phiền não đầy thân, tám khổ cùng đốt, thế sự buộc ràng, như tằm kéo kén, chẳng có ngày thò đầu ra được. Lúc niệm như thế, chướng này liền diệt. Nên biết bền lòng niệm Phật công đức rộng lớn không chi chẳng thành. Nghiệp chướng sâu nặng không chi chẳng diệt.