Home > Khai Thị Niệm Phật > Khuyen-Nguoi-Nen-Phat-Tam-Niem-Phat
Khuyên Người Nên Phát Tâm Niệm Phật
| Hòa Thượng Thích Hân Hiền, Việt Dịch


1. Này các Phật tử! Tại sao giáo lý của đức Phật dạy trong thế gian có đến muôn ngàn ngã đường đi, mà PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ chỉ khuyên các người đi theo một con đường độc nhứt là niệm Phật?

– Vì tất cả hành động nhơn quả đều do tâm niệm mà có, nên người nào niệm thiện sẽ sanh lên cõi trời, kẻ nào niệm ác sẽ đọa vào địa ngục, niệm ma thành ma, niệm Phật thành Phật. Vì thế, khuyên người niệm Phật.

2. Trăm nghìn muôn ức đức Phật ở mười phương trong ba đời, sao đức Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI chỉ khuyên người niệm danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ? Vì đức PHẬT A DI ĐÀ từng phát ra 48 điều đại nguyện, nguyện nào cũng đều độ khắp tất cả chúng sanh. Lại nữa, đức PHẬT A DI ĐÀ cùng chúng sanh trong cõi Ta Bà có nhiều thiện duyên. Vì thế, bất luận kẻ Tăng, người tục, hoặc nam hay nữ nào phát tâm niệm Phật, đều được đức PHẬT A DI ĐÀ nhiếp thọ, nên người nào chuyên tâm trì niệm danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh CỰC LẠC quốc, dầu cho những kẻ hung dữ nghinh ngang bạo ngược, nếu thọ chí tâm sám hối và trì niệm danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ cũng được ĐỚI NGHIỆP VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC. Vì thế, khuyên người nên phát tâm niệm PHẬT A DI ĐÀ.

Trong cõi đời này đã là người Phật tử ai cũng hiểu rằng niệm Phật là việc rất quý, nhưng chỉ vì các thứ phiền não nghiệp chướng như: tham, sân, si v.v… gieo trồng quá sâu dày trong nhiều đời nhiều kiếp, cho nên khó phát tâm hướng thiện niệm Phật.

Là người Phật Tử phải biết rằng chúng sanh ở cõi Ta Bà này khổ não rất nhiều. Ở đời biết bao tai họa chờ sẵn bên ta, nào bịnh tật, nào bần cùng, nào già chết, cô độc hoặc gia đình gặp phải tai ương khốn khổ, con cái ngỗ nghịch, mỗi người đều có một cảnh khổ riêng, một tai họa riêng.

Người giàu sang nhà cửa đồ sộ, tiện nghi đầy đủ, họ muốn sống lâu trăm tuổi để hưởng của đời, nhưng mạng người có hạn, già chết không chừng. Một mai quỷ vô thường đến thăm, của tiền muôn bạc vạn không đem theo được một mảy, vợ con quyến thuộc cũng phải chia lìa, mịt mờ đường trước chưa biết về đâu!

Nếu người đương thời làm việc bất nhơn, thì quỷ sứ ở chốn địa ngục vát dao đến đón. Khi chết, người ấy sẽ sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, theo nghiệp mà thọ báo. Đến khi ác báo đã mãn mới được chuyển kiếp sanh lên làm người.

Chính đương thời người làm lành chẳng qua là gieo cái nhơn phước đức, vẫn còn cái nhơn xấu đã gieo sâu vào đời trước, mà sẽ mang lấy hậu quả không tốt đẹp sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, lãnh thọ sự thống khổ vô cùng. Giả sử đời trước người không mang lấy nghiệp tội nặng, đời sau hưởng phước báu cũng không thể nói rằng người ấy hưởng phước vẹn toàn. Về sự hưởng phước cũng có hạng người mạng lấy cái khổ, khi nào phú quý vinh hoa hưởng cảnh êm đềm vui tươi khoái lạc, đến khi hưởng hết phước rồi trở lại giai đoạn nghèo hèn khổ sở như xưa. Huống chi một phen hưởng cảnh giàu sang, người rất dễ buông lung tạo nghiệp chẳng lành, đâu bảo đảm nổi khỏi sa trong ba đường ác.

Còn người hưởng phú quý vinh hoa tại nhơn gian, dầu làm việc rất lành được sanh lên cõi trời, nhưng khi phước báu cung trời đã mãn, vị trời ấy nếu không may thọ lại cái thân người thì vẫn phải sa trong lưới ba đường hiểm trở, trọn mang lấy mọi sự khổ đau khổ mãi không thôi, cho đến khi mãn kiếp tội báo.

Vì chúng sanh ở trong ba cõi vẫn còn sanh tử luân hồi lên xuống, xuống lên mãi trong sáu đường và ra vào trong ba nẽo ác lãnh thọ sự thống khổ triền miên. Do đó, đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI động mối từ tâm, nên Ngài mở rộng lòng từ bi bao la cho ra quyển KINH A DI ĐÀ để dạy người chuyên tâm nhiếp ý, xưng niệm hồng danh lục tự DI ĐÀ, mong người được sanh về cảnh giới CỰC LẠC, trọn lìa các điều khốn khổ, thuần hưởng nếp sống an vui. Lời ấy, chính từ nơi kim khẩu của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI nói ra, không hề có chút hư dối, chỉ e người không thật tin mà chẳng nhứt tâm niệm Phật, thời làm sao được sanh về Cực Lạc quốc. Do không có cái nhơn phát tâm niệm Phật, nên người chẳng được nhứt tâm niệm Phật. Hoặc không biết lợi ích của sự niệm Phật, nên người chẳng chịu niệm Phật. Vì không có lòng tin tưởng Phật, nên người không phát tâm niệm Phật. Hoặc vả, khi đắm trước cảnh khoái lạc, mà người quên hẳn việc niệm Phật. Hay có các loài làm chướng ngại, nên người không niệm Phật. Người không chịu niệm Phật. vì những lý do trên, đến khi sắp chết người không biết niệm một câu danh hiệu Phật đành vùi lấp sự lợi ích giải thoát, nguy hiểm sa đọa vào đường ác, thật đáng thương xót thay cho những hạng người ấy!

Là người Phật tử! Ai lại không thể niệm Phật và chẳng nên niệm. Nếu người quyết lòng giúp cho chúng sanh ở cõi Ta Bà này niệm Phật dù là kẻ si, nông, công, thương, ta cũng có thể chỉ cho họ thật hành PHÁP MÔN NIỆM PHẬT. Vì người trì danh hiệu Phật, đều cho việc làm bất cứ việc gì nghề gì cũng không làm trở ngại nghề nghiệp ấy của tự mình. Lại nữa hành giả chẳng những khỏi bỏ nghề nghiệp ấy của mình, cũng khỏi tốn hao tiền của và không phạm đến pháp luật của nhà vua hay của chánh quyền, mà còn được giải thoát cảnh khổ sanh tử luân hồi trong ba cõi, cũng khỏi sa vào chốn địa ngục bị hành phạt mọi sự đau khổ rùng rợn.

Sự niệm Phật chẳng phải là việc đời, nó có công dụng lợi ích lớn khiến cho người được giải thoát sanh tử và chứng thánh quả mãi đến thành Phật, đồng thời không bị một việc mảy may gì làm hại. Thật, người được lợi cả hai thứ nói trên đây.

Người thanh nhàn phải lo niệm Phật, do là việc nhà bận rộn buôn bán, cũng không nhọc lòng kinh doanh. Hoặc được nương cha mẹ, con cái sống qua ngày, nên người được an nhàn niệm Phật. Những hạng người ấy do đời trước có tu nhơn tích đức, tuy không được nhiều lắm, nhưng cũng đủ làm trợ duyên cho kiếp tu đương đời.

Nên biết thời gian thấm thoát tợ thoi đưa, mạng người vô thường mau hơn nước dốc, ngày nay dầu còn nhưng khó bảo đảm đến mai. Một phen quỷ vô thường đến viếng thăm, chừng ấy ta mới ăn năn lo niệm Phật sao kịp. Nếu người không niệm Phật để một đời luống qua vô ích, thật rất đáng thương tiếc cho hạng người ấy!

Người bận rộn gia nghiệp phải lo niệm Phật, dầu không được như người rảnh rang ngày đêm tụng lạy sáu thời, nhưng cũng phải ở trong lúc bận nhín chút thì giờ để được rảnh rang niệm Phật.

Trong LONG THƠ TỊNH ĐỘ chép: Mỗi khi sáng sớm, người chí tâm niệm Phật mười câu, lòng thành tha thiết với đức PHẬT A DI ĐÀ, nguyện sanh về cõi Cực Lạc, cũng được toại nguyện vãng sanh Cực Lạc Quốc.

Nếu người tu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT này để cho sự bận rộn gia nghiệp lôi cuốn một đời, đến khi mạng chung chỉ chuốc lấy hai bàn tay không, chẳng mang theo được chút công đức gì.

Người giàu sang phải no niệm Phật, vì họ đâu ăn không no bụng, mặc không kín hình mà phải bỏ phí thì giờ của họ giong ruổi theo trần cảnh lo việc sanh nhai. Thế là thì giờ của họ được rảnh rang lâu dài thân tuy không bền chắc sống mãi hưởng phước trong cõi đời, nhưng có đủ thì giời nhiều phương tiện để người hướng thiện phát tâm niệm Phật.

Người nghèo khổ phải lo niệm Phật, vì đời trước chẳng lo bố thí, nên kiếp này họ phải cam chịu mang lấy sự nghèo nàn khổ sở. Nếu đời này họ cũng không tu phước, một phen kết liễu cuộc đời người quyết sẽ bị những nghiệp chướng nặng nề lôi cuốn sa vào trong ba đường ác. Một khi sa vào con đường ác, người biết chừng nào mới được thoát khỏi nơi khốn khổ ấy! Huống chi PHÁP MÔN NIỆM PHẬT là một phương pháp giải thoát thù thắng nhứt là linh đơn cứu người khỏi bao tật bịnh trầm kha, nó không phải là sự vui lầm đường lạc nẽo cho người, cũng chẳng phải tốn hao tiền của và đòi hỏi việc ăn ngon mặc đẹp, thật là một phương pháp tuyệt diệu hay nhứt cho người nghèo tu, đâu nên bỏ thời gian trôi qua mà không lo niệm Phật.

Người tuổi trẻ phải lo niệm Phật, vì trong lúc tuổi xuân xanh còn nương được tinh thần mạnh bạo cầu quả Vô Thượng Bồ Đề, ngày tháng vẫn còn lâu dài chứa được nhiều phước đức, công không luống mất. Mạng người có hạn lượng, già chết nhanh chóng, chớ để thời gian trôi qua mà không lo niệm Phật đến khi tuổi già tinh thần suy yếu không sao ăn năn kịp. Chừng ấy ta nhờ đức Phật gia hộ cho sống thêm tuổi thọ, nghĩ lại lúc trẻ không lo niệm, giờ đây mới tin sự niệm Phật thì đã quá muộn màng.

Người già yếu phải lo niệm Phật, đã trải biết bao năm mà người vẫn chưa làm xong việc đời, rốt cuộc chỉ nắm lấy hai bàn tay suông. Phải biết thì giờ như tên bay, ngày tháng tợ thoi đưa, mà lưỡi hái của Tử Thần lúc nào cũng kề bên cổ. Vậy, thân già yếu này phải gấp rút “Cầu Sanh Tịnh Độ”. Thế mới là người thật sáng suốt hồi tâm hướng thiện quay về cõi Phật.

Thuở xưa bên Trung Hoa có một cô nọ chăm chú lo niệm Phật. Cô thường nói: “Có con kể như đã trả nợ nần xong”. Cô lại nói rằng: “Phước con cháu thì con cháu nó hưởng”. vì thế cô khéo gắng lo học hỏi giáo lý Phật đà và chuyên tâm niệm Phật. Cô nghĩ nếu mai sau mình không bỏ được lòng si ái của thường tình, một khi nhắm mắt đi rồi không sao khỏi phải mang lấy cái thân trâu ngựa. Vì nghĩ thế, nên cô dứt khoát sự nghĩ tưởng đến con cháu là ruột thịt máu mủ của mình. Cô lại nghĩ sanh tử là việc lớn quan trọng, con cháu đâu có thể can thiệp cho, dù nó có hiếu cách mấy đia nữa cũng không thể nào thay thế cho mình được khỏi sanh tử.

Người cô đơn giá lạnh phải lo niệm Phật, không vay nợ tình duyên với một ai, ai mà đến đòi nợ duyên. Nếp sống cô đơn rất thanh nhàn, cũng khỏi lo ngại gì đến việc gả con cưới dâu, thế sao người không chuyên tâm nhiếp ý cầu sanh Tây phương Tịnh Độ để vượt qua sông mê biển khổ trầm luân sanh tử. Và người bớt được phần luyến ái thường tình trong thế gian, tức là được giải thoát phần nghiệp oan ràng buộc. Bớt được phần nghiệp oan ràng buộc, ấy là người đã thoát khỏi phần nghiệp chướng sâu dày. Lòng duyên theo đời quá lợt lạt, duyên với dức Phật lại rất đậm đà, lúc sống không lo buồn, khi chết được thảnh thơi. Hạng người niệm Phật như thế là bực nhứt trong đời, việc làm chỉ có một mà công đức gấp đôi.

Người ái tình với vợ rất thân thiết cũng phải lo niệm Phật. Cổ đức có câu:

Phụ mẫu thâm ân chung hữu biệt
Phu thê nghĩa trọng đã phân ly
Nhơn tình tợ điểu đồng lâm túc
Đại hạn lai thời các tự phi.

Tạm dịch:

Cha mẹ ơn sâu rốt phải lìa
Vợ chồng nghĩa nặng cũng phân chia
Tình người như chim đồng rừng ngủ
Nắng gắt mỗi con bay rút lia.

Hoặc nói:

Phu thê khắp tợ đồng lâm điểu
Đại hạn lai thời các tự phi.

Nghĩa là vợ chồng xứng đôi vừa lứa, chẳng khác nào như cặp chim trong rừng, khi nắng gắt đến rồi thì mạnh con nào con nấy bay đi. Đại hạn cũng là ám chỉ cho cây ngã, ý nói là vô thường. Và nói: Mối ân tình thương nhau như ruột thịt, nhưng khó hẹn đến ngày bạc đầu vẫn còn nguyên, chi bằng cả hai người đều tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ CẦU SANH CỰC LẠC, mai sau sẽ được ngồi trên đài sen báu, làm bạn với đức Phật cùng Bồ Tát suốt vô lượng kiếp, còn chi hơn mà ngần ngại chẳng lo niệm Phật. Như thế, so với ân ái thường tình trong thế gian còn có hạn lượng chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà thôi, há chẳng phải người niệm Phật được toàn chơn, thiện, mỹ ư!

Giữa hai người thù hờn khi gặp dịp kết tình duyên với nhau phải lo niệm Phật. Bởi vì nghiệp oan gia tương báo, khi kết tình duyên với nhau tuy thấy như là rất thân thiết, nhưng kỳ thật nó không có thân chút nào, vì nó hay phỉnh gạt người để lôi cuốn cùng nhau sa vào con đường hiểm ác. Thế mà người chẳng sớm lo cởi mở nó ra, càng kết nghiệp oan gia chừng nào, thì nghiệp ấy càng chập chờn sâu dầy chừng nấy, chẳng khác nào như gương vừa ố bụi mà ta không sớm lau chùi lại còn dùi sâu dưới bùn lầy nữa thì biết bao giờ gương kia mới được hiển lộ trong sáng. Cũng thế, người hiện đời muốn được giải thoát, ta cần phải thường niệm PHẬT A DI ĐÀ. Chỉ có sáu chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT mà người bỏ hết những tánh nết xấu xa trở thành đức tánh từ bi của đức Phật, không sớm thì muộn cũng được thành Phật như nhau.

Người phụ nữ phải lo niệm Phật, vì thân phụ nữ vốn hay bất tịnh, chính do đó mà rầu chán cái thân ấy, rất dễ tu chứng PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, đâu không nên gấp rút tu hành để chóng thoát cái thân khổ sở ấy. Huống chi đức PHẬT A DI ĐÀ đã phát ra 48 điều đại nguyện độ sanh mà điều nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Phật, vô lượng bất khả tư nghị cõi của chư Phật ở mười phương, trong đó có thân nữ nào được nghe danh hiệu của tôi, lòng tin vui thích phát tâm Bồ Đề, chán ghét thân nữ, sau khi mạng chung còn mang thân nữ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.

Do đó, người phụ nữ chuyên tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ, quyết thoát khỏi thân người nữ, sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, chỉ e người không chịu niệm Phật mà theo tà kiến chẳng thôi.

Người tật nguyền phải lo niệm Phật, vì thân đã mang tật đâu được bằng người sáu căn đầy đủ, còn ham chi nữa mà không lo niệm Phật. Nếu người chẳng lo niệm Phật, sẽ bị sa đọa không chạy đâu cho khỏi ba đường ác, sự khổ ấy lại càng nặng hơn tật nguyền biết bao.

Người đau ốm phải lo niệm Phật. Lúc mạnh khỏe còn phải đề phòng một khi quỷ vô thường đến lôi cuốn, huống chi bịnh là cái nhơn lưỡi hái của tử thần kề sát bên cổ, mặc dầu chưa phải là cái chết nó đến, nhưng sớm chiều phải mang lấy sự khổ đau triền miên, chẳng khác nào như người đang sống trong chốn địa ngục lãnh lấy mọi sự khổ đau. Giờ đây, người gấp rút tu hành vẫn còn e sợ trễ nãi, đâu nên không lo niệm Phật để chóng thoát khổ đau sanh tử!

Người gặp tai nạn phải lo niệm Phật, vì đời trước đã gây nhơn ác, nên đời này người phải mang lấy hậu quả ác báo không sao tránh khỏi. Nếu người mắc nạn mà niệm Phật để mong chờ oai thần của đức Phật che chở thì quyết khỏi tai ương, vì nhờ nương công đức niệm Phật và được thần lực của đức Phật hộ trì.

Người hiền lành phải lo niệm Phật. Người hiền lành được đức Phật gia hộ, sức niệm Phật lại càng thêm đắc lực. Nếu người chỉ làm việc lành mà không niệm Phật, so với những kẻ chẳng làm lành thì có phần khá hơn họ. Mặc dầu người hiền lành thì có phần khá hơn những kẻ ấy, nhưng cũng không sao khỏi đời này hoặc đời sau hưởng hết phước nhơn gian vẫn phải sa vào chốn đau khổ. Chi bằng người đã làm lành lại thêm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc quốc. Sau khi sanh ngay về cõi Cực Lạc, người được ngồi trên tòa sen báu thượng phẩm, vĩnh kiếp không còn sanh tử luân hồi trong ba cõi sáu đường nữa, thẳng đến thành Phật thì còn chi vui thích hơn.

Người hung dữ phải lo niệm Phật. Kẻ làm việc ác phải mang lấy tội lỗi, ai cũng biết thế, chỉ vì họ chưa kịp kiểm điểm việc làm mà vội gây ra tội lỗi. Mỗi bữa dậy sớm, trước khi làm việc chi phải nghĩ cho kỹ, nếu nó là điều ác, ta cần phải sám hối ngay. Nếu người bỏ dữ làm lành và một lòng niệm Phật, thời quyết được lòng từ bi bao la của đức Phật cứu độ. Lại nữa, ta phải kiểm điểm đời sống của mình đã trải qua gây bao tội ác: Hoặc trước kia mình đã tạo tội nghịch, thật không thể cứu thoát. Hoặc cảnh hiện tại, ta như là đã lỡi cỡi trên lưng cọp xuống, phải sao chịu vậy thật là ngu tối. Hoặc mình dùng những lời đàn tiếng điếm, ca bài lời tình, mưu kế cám dỗ tài mạng của người. Hoặc mình làm người hàng thịt hay làm kẻ chài lưới giết hại biết bao chúng sanh. Nếu ta căn cứ cái nhơn trên mà luận về cái quả thời số kiếp phải mang lấy tội báo rất khổ lâu dài.

Chúng ta phải biết đức Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI chính vì xoa dịu bao vết thương đau và ban nguồn an vui bất tận cho muôn loài chúng sanh. Vì thế, Ngài chỉ dạy cho một PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, để những chúng sanh thọ khổ báo được nương pháp môn này chóng thoát khỏi cõi khổ trầm luân sanh tử, thẳng đến cảnh giới an vui tột bực, ấy là sanh về cõi Cực Lạc.

Hiện đời người tuy gây nghiệp tội nặng, mà được gặp PHÁP MÔN NIỆM PHẬT cầu vãng sanh, ta phải biết người ấy đã có nhiều duyên lành trong nhiều đời nhiều kiếp về trước.

Người đã làm việc bất nhơn, lúc khổ báo chưa đến thanh toán, cần phải gấp rút quyết chí dõng mảnh niệm Phật để được nhờ nương nguyện lực của đức PHẬT A DI ĐÀ nhiếp thọ, thì người ấy quyết được tiêu sạch tội chướng và vãng sanh Cực Lạc quốc không sai.

Là người Phật Tử phải tìm bạn thiện tri thức chỉ bảo cho mình việc tu hành để được lòng tin chánh pháp và tinh tấn trên bước đường tu tập. Ta thử nghĩ những vị thuở xưa ở bên Trung Hoa, như ông Tăng Hùng Tuấn và ông Trương Thiện Hòa là người rất ác mà biết hồi tâm hướng thiện niệm Phật còn được tiêu tội, triệu chứng vãng sang Cực Lạc quốc.

Vậy, ai là người Phật Tử hãy nên sớm lo niệm Phật, chớ nên sanh lòng nghi ngờ niệm Phật không biết mình chắc được vãng sanh chăng. Ngoài ra PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, không có pháp nào cứu thoát sanh tử luân hồi được nhanh chóng.

Người tu tập không định phải lo niệm Phật. Có một hạng người đắm trước thiền định, cho rằng mình đã được nhứt niệm bất sanh, cứ thường ngồi thiền mãi. Hoặc khi tham thiền nhập định được thấy không cảnh, người lại cho rằng mình đã đạt được KIM CANG ĐẠI ĐỊNH, rồi cứ cố chấp mãi thế. Người tu như thế, đã chẳng phù hợp với Thiền Tông, mà lại còn tâm trí không biết nghiên cứu giáo quán, cũng chẳng biết mình sẽ trải qua tám muôn kiếp trọn phải sa vào chỗ không vong. Như thế, nếu người tham thiền nhập định sớm tối lo niệm Phật hồi hướng công đức trang nghiêm Tịnh Độ phương Tây, thời hoàn toàn ngăn được thiền định ấy và đủ duyên lành vãng sanh Cực Lạc quốc ngay, muôn việc an ổn thuần vui xứng ý, há chẳng phải là được quý báu ư!

Người tụng kinh trì chú phải lo niệm Phật. Khi trì tụng kinh chú người phải thành tâm, không được khinh thường coi như là nói chuyện đời xưa. Phàm khi tụng kinh niệm Phật đều phải hồi hướng công đức trang nghiêm Tịnh độ phương Tây. Người thật hành như thế, chắc chắn được sanh về cõi Cực Lạc, muôn người không sót một.

Người tham thiền phải lo niệm Phật. Người tham thiền được đại ngộ phá tan màn lưới vô minh cùng phiền não trong đường sanh tử, đã được chứng TỰ TÁNH Di Đà, DUY TÂM TỊNH ĐỘ, hạnh giải tương ưng, tức là Ngài Nhị Tổ HUỆ KHẢ. Chúng ta nên biết, Ngài Nhị Tổ còn phải tự mình điều nhiếp cái tâm, mà PHÁP MÔN NIỆM PHẬT là phương pháp điều nhiếp cái tâm.

Còn Ngài Lục Tổ HUỆ NĂNG nói: Khi ngộ thì tự độ lấy, phải nên liên tiếp huân tập sự tu, dứt hẳn lòng cống cao ngã mạn si cuồng ỷ lại mà chê bai PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ, chớ nói đến đường sanh tử, tự mình có thể làm chủ nó được. Chính người mắc trôi lăn trong vòng sanh tử mãi, không dễ gì được chút niệm nào ngăn nó nỗi, thật khó tránh khỏi sự tạo nghiệp nhơn sa đọa trong ba đường ác. Đến khi cảnh âm u tịch mịch hiện trước mặt, người mắt mờ mờ theo bóng tối mà đi, không sao khỏi luân hồi trụy lạc vào chốn tam đồ, thật đáng thương tiếc cho hạng người ấy lầm đường lạc nẽo khá nguy thay!

Không có pháp môn nào bằng PHÁP MÔN NIỆM PHẬT cầu sanh Tịnh Độ phương Tây, muôn người tu muôn người được vãng sanh không sót một.

Người giảng dạy Phật Pháp phải lo niệm Phật. Tất cả các bộ Kinh, Luận, tuy là Pháp môn chỉ dạy người tu khác nhau tùy theo căn trí chẳng đồng, nhưng chung quy là phải dứt sạch kiến hoặc và tư hoặc mới được giải thoát sanh tử luân hồi. Ấy nghe nói sao dễ dàng quá, chưa đề cập đến các Tông: TÁNH TÔNG, TƯỚNG TÔNG, KHÔNG TÔNG và MẬT TÔNG, bên Tây Thiên Trúc mà chính ba nhà Duy Thức ở Thiên Thai và Hiền Thủ tại Đông Độ đều cho rằng người dứt sạch kiến hoặc và tư hoặc là được vượt khỏi biển khổ sanh tử luân hồi. Vị dứt sạch kiến tư hoặc, ở trong hàng Thanh Văn thời chứng quả A La Hớn, tức là quả cao tột trong bốn quả thánh của Tiểu Thừa; còn trong

Duyên Giác Thừa thời là phần chứng tương tợ. Trong Phật Pháp từ khi bên Tây Thiên Trúc truyền sang Đông Độ đến nay có thấy mấy ai được chứng những quả vị ấy. Vã lại, trong Kinh Luận Đại Thừa phần nhiều đều là khen ngợi sự tu về PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, người được đức PHẬT A DI ĐÀ nhiếp thọ vãng sanh Cực Lạc quốc. Vì thế, sự dõng mãnh tinh tấn niệm Phật, người cần phải y giáo phụng hành.

Ni cô phải lo niệm Phật, vì cô là người ở trong đất Phật chỗ đạo tràng thanh tịnh. Từ khi ánh bình minh sắp hiện, cho đến bóng thái dương đã nghiêng mình về hướng tây, lòng cô phải chí thành niệm Phật để tự mình tu giải thoát và làm gương mẫu cho người khác noi theo tu. Ni cô chơn thật cầu sanh Tịnh Độ như thế, và dắt dìu người khác lo niệm Phật, thời cô ấy quyết sẽ được công đức vô lượng. Ni cô làm thế nào hóa đạo được người phụ nữ trong đời thường tin chánh pháp, đem con đường chơn chánh mà chỉ dạy khuyên nhau tu hành. Như thế, Ni cô chẳng những được tự độ mà trong đó đã gồm cả công hạnh độ tha, công đức ấy đâu không vô lượng ư! Ấy chính là sự bố thí pháp cho người, không màng đến danh nghĩa mà tự mình vẫn được công hạnh tự độ hóa tha.

Nếu người lấy câu niệm Phật mà làm duyên giáo hóa cho kẻ khác, hy vọng đời sống của mình được hưởng thọ lâu dài, gởi phước niệm Phật vào trong kho tàng, chớ sau khi chết sẽ xuống suối vàng đòi hưởng tiền của mà trước kia đã có công niệm PHẬT. Ấy là tà thuyết dối gạt người, đâu chẳng phải là kẻ lầm đường lạc lối, thật đáng thương thay!

Từ đoạn trên đây nhẫn lên đều là những lời vàng ngọc của đức Phật và chư Tổ để lại dạy bảo chúng ta, chẳng phải là việc mơ hồ không căn cứ.

Vậy, hy vọng kẻ thấy người nghe PHÁP MÔN NIỆM PHẬT đều được tỉnh ngộ, không còn dính líu trong giấc mộng đen tối lâu dài, mà chơn thật phát tâm niệm Phật.

Là người Phật Tử phải biết cõi Ta Bà là chốn đau khổ; cảnh Cực Lạc là cõi tột vui.

Sự khổ trong cõi Ta Bà là chỉ cho chúng sanh phải cam chịu sanh tử luân hồi liên miên và bao sự khổ khác ràng buộc, như là già khổ, bịnh khổ v.v…

Còn việc vui ở cảnh giới Cực Lạc là nhân dân đều được sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, đâu còn danh từ đau khổ, huống là có thật mang lấy sự khổ.

Nói về sự khổ của chúng sanh ở cõi này thì thường có và dễ nói, vì nó thường chực sẵn, nên ai cũng đều dễ mang gánh lấy, và đến khi mang lấy những sự khổ thật khó chịu đựng nổi. Lắm khi người vì sự khổ quá mà phải quyên sinh. Chỉ khổ chút ít, người đã biết đau đớn cũng cảm thấy khó chịu đựng, huống chi bị khổ quá nhiều!

Còn ở cõi Cực Lạc, mọi người thuần hưởng những nếp sống an vui, không một chút khổ nào để cho người phải mang lấy.

Cho nên khi được nghe sự an vui của nhân dân ở cõi Cực Lạc, do đức Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI nói ra, chúng ta cần phát khởi lòng tin và ưa thích với hành trì.

Người mà đức Phật nói còn không tin, thì những lời ai nói mới đáng tin? Phải biết những người trong thế gian có tánh thật thà, ăn nói ngay thẳng không hư dối, nói ra một lời chi, mọi người còn không nghi ngờ, huống là lời vàng ngọc của đức Thế Tôn nói ra cao quý vô cùng tận.

Thế, thật lành thay! Lành thay! Vậy, mọi người đều nên gấp sớm trở về với chơn lý, phát tâm niệm Phật để được trở về với bản tánh chơn tâm thanh tịnh sáng suốt thành Phật, cũng như các đức Phật khác đã được thành Phật.

Từ Ngữ Phật Học Trong: Khuyên Người Nên Phát Tâm Niệm Phật