Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, với tâm đại bi thiết tha, một đời Ngài cố gắng thuyết pháp độ sinh; xưa nay trong ngoài chỉ có một Khổng Tử răn dạy người chẳng biết mỏi mệt giống như Ngài. Cái học của Phật giảng đương thời chỉ dùng lời nói, không có viết thành văn chương. Sau khi Phật diệt độ, chúng đệ tử sợ rằng thời gian trải qua lâu, học lý của Đức Phật dạy sẽ từ từ bị loài người bỏ mất; cho nên chúng đệ tử, do Đại Ca Diếp lãnh đạo, nhóm họp năm trăm người tại một nơi tên gọi là “Diệp thọ nghiêm”, khai ra hội nghị kết tập. Trong hội do một người đệ tử của Phật có sức nhớ rất mạnh mẽ và số lần nghe pháp cũng rất là nhiều, đó là: A Nan, tụng lại chân lý thật tướng của nhân sinh và vũ trụ mà Đức Phật đã giảng, đó gọi là “Kinh tạng”. Tụng ra phép tắc, quy củ hành trì của chúng đệ tử, Phật đặc biệt lập ra, gọi là “ Luật tạng”. Ngoài ra do Phú Lầu Na dùng phương thức vấn đáp, tụng ra giải thích và phát huy chân lý của Phật, gọi là “Luận tạng”. Kinh, Luật, Luận này hợp lại chung gọi là “Tam tạng”. Nhưng người học nhiều thời đó hãy còn có giới hạn, chưa từng tham gia; bên ngoài hội (ở ngoài hang) do Bà Sư Bà lãnh tụ riêng kết tập năm tạng: Kinh, Luật, Luận, Tạp và Chú cấm. Ngoài ra, hãy còn có các vị Bồ tát như: Văn Thù, Di Lặc... và A Nan tôn giả kết tập Thánh điển “đại thừa tam tạng”, tổng quát những sự kết tập ở trên gọi là “Đại tạng kinh”. Phật giáo với sự viên mãn của giáo lý, sự tinh mật của luận bàn, trên thế giới bất luận kinh điển của một tôn giáo nào không thể cùng với đó so sánh được.