Home > Khai Thị Phật Học > Tien-Trinh-Tu-Tap-Bo-De-Tam
Tiến Trình Tu Tập Bồ Đề Tâm
Đại Sư Thích Ấn Thuận, hiệu Pháp Phảng | Nhiều Dịch Giả, Việt Dịch


Nếu muốn thành Phật độ chúng sinh, nhất định phải phát Bồ đề tâm.

Có bồ đề tâm làm căn bản, tu thiền tức đạt được thiền Đại thừa, tu huệ tức đạt được huệ Đại thừa. Bồ đề tâm luôn làm tư lương cho các hạnh tu thành tựu quả Phật .

1. Bồ đề tâm là hạt giống Đại thừa

Tu học Phật pháp nên chọn pháp đại thừa làm pháp cứu cánh nhất (để thành tựu quả Phật), mà phát bồ đề tâm là bài học đầu tiên cho những người học đại thừa. ặc biệt là ở Trung Quốc, một mực hoằng dương Phật giáo đại thừa, chú trọng việc phát bồ đề tâm. Như sáng và tối hai thời công phu, ở trước điện Phật làm lễ tam quy y, xưng niệm: “Tự quay về nương tựa Phật, nên nguyện cho chúng sinh, thể theo đạo cả, phát tâm vô thượng”. Nghĩa là hi vọng mọi người bất cứ lúc nào cũng khắc ghi ý niệm căn bản của đại thừa là “Phát bồ đề tâm‟, làm lợi mình và lợi người. Thế nên những người bạn tu học Phật khi gặp nhau thường lấy việc phát bồ đề tâm để sách tấn nhau tu học, cho thấy trong Phật giáo đại thừa, bồ đề tâm được chú trọng như thế nào!

Bồ đề tâm là cốt lõi của Phật pháp đại thừa, có thể nói không có bồ đề tâm thì không có pháp đại thừa. Chúng ta tuy tu thiền, tu huệ, tu mật, làm việc từ thiện, giải thoát khỏi sinh tử v.v.; nhưng nếu những việc đó không tương ưng với bồ đề tâm, tất cả công phu này không rơi vào Tiểu thừa, cũng đồng với phàm phu, ngoại đạo. Thế nên, nếu muốn thành Phật độ chúng sinh thì nhất định phải phát bồ đề tâm. Phát bồ đề tâm rồi, giống như đã gieo hạt giống xuống đất, trải qua một thời gian, gặp điều kiện thích hợp, nó tự nhiên sẽ nảy mầm ra hoa, đậu được nhiều trái ngon.

Không chỉ trực tiếp đi vào đại thừa mới như vậy, mà người bỏ Tiểu thừa đến với đại thừa cũng có công đức của phát bồ đề tâm. Như kinh Pháp Hoa nói rằng: “Các đệ tử Thanh văn như Xá lợi phất v.v., ban đầu chỉ tu pháp Tiểu thừa, nhưng sau đó đều từ bỏ Tiểu thừa đến với Đại thừa”. Liên hệ đến nguyên nhân của việc này, trong kinh đưa ra một thí dụ rất hay: “Có một người nghèo khổ đến nhà của một người bạn giàu có. hi người nghèo khổ uống rượu say, người bạn giàu có đem viên ngọc trân châu vô giá bỏ trong chéo áo tả tơi của người bạn nghèo khổ. Sau đó, người bạn nghèo khổ vẫn tiếp tục sống khốn khổ. Một hôm, gặp lại bạn cũ, người bạn giàu có nói với anh ta: “Vốn dĩ trên người anh có viên ngọc vô giá, tại sao lại sống khổ sở như vậy!‟” Một khi được chỉ ra viên ngọc, người nghèo khổ trở thành phú ông. Viên ngọc vô giá tượng trưng cho bồ đề tâm. Các vị Thanh văn như Xá lợi phất v.v., trong đời quá khứ đã từng phát bồ đề tâm, vì bị phiền não mê hoặc, trải qua nhiều đời nhiều kiếp luân hồi sinh tử, đã đánh mất viên ngọc báu lớn trong người mình, đi tìm cầu pháp Thanh văn Tiểu thừa. Nhưng ngay khi được đức Phật chỉ pháp bảo vô giá, các vị ấy không hề mất đi bản tâm mà còn nhanh chóng chuyển nhập giáo pháp đại thừa.

Trong kinh nói: “Những chúng sinh nào đã từng phát bồ đề tâm, cho dù trong thời gian dài quên mất, đi lạc vào con đường tăm tối, tạo vô số tội nghiệp, đọa vào đường ác, nhưng chúng sinh ấy chịu tội vẫn nhẹ hơn nhiều so với những chúng sinh khác”. Thứ nhất, những thống khổ mà họ lãnh chịu nhẹ hơn. Thứ hai, thời gian thọ quả báo của họ ngắn hơn, nên nhanh chóng thoát khỏi đường khổ. Bồ đề giống như kim cương đá quý, viên còn nguyên vẹn tất nhiên vô cùng quý giá, hạt nát vụn cũng có giá trị cao. Thế nên, người tu học Phật chỉ sợ rằng không phát bồ đề tâm, bởi không phát bồ đề tâm thì tất cả công đức đại thừa đều không có nơi sinh khởi.

Người tu học Phật pháp thường cho rằng: Thắp hương, lễ Phật, tụng kinh, cúng dường, tu thiền định, tu huệ v.v., đó là hành pháp đại thừa, tu hạnh Bồ tát. Họ không biết rằng tu thiền định, tu huệ cũng có thể đồng với pháp thế gian, bao hàm trong pháp Tiểu thừa! Như ngoại đạo thế gian có thể tu chứng bốn thiền và tám định; người hành Tiểu thừa căn cứ vào thiền định tu tập phát sinh huệ để thoát khỏi sinh tử. Tu thiền định là pháp chung của năm thừa, tu huệ là pháp chung của ba thừa.

Nếu chỉ có tu thiền định hoặc tu huệ chỉ được sinh cõi trời hoặc thoát khỏi sinh tử, mà không thể thành Phật. Nếu muốn thành Phật nhất định phải phát bồ đề tâm. Có bồ đề tâm làm căn bản, thì tu thiền thành tựu thiền đại thừa, tu huệ thành tựu huệ đại thừa; tất cả là tư lương cho tu tập thành tựu quả Phật. Tóm lại, bồ đề tâm là hạt giống đại thừa, ngày nào gieo trồng hạt giống này, tức là phát tâm Bồ đề, ngày đó được gọi là Bồ tát (đương nhiên vẫn chưa phải là đại Bồ tát). Nếu không như vậy, tuy tu hành vạn kiếp ngàn đời, qua lại cõi này hay cõi kia, cũng không phải là Bồ tát, cũng không phải là bậc pháp khí của đại thừa.

2 . Phân loại bồ đề tâm

Bồ đề tâm, theo sự giải thích trong kinh điển đại thừa, thì có cạn có sâu. Căn cứ trình tự thực hành và chứng đắc của người tu học, đại thể chia làm hai loại sau:

Thế tục bồ đề tâm, gồm: Nguyện bồ đề tâm và Hạnh bồ đề tâm.

Thắng nghĩa bồ đề tâm.

Phát bồ đề tâm, đầu tiên phải có niềm tin, phải có nguyện lớn đối với việc thành Phật độ chúng sinh. Vì nhìn thấy sự xấu ác hạ liệt ở thế gian, nhìn thấy sự khổ não của chúng sinh, mà tin sâu sắc rằng mình có khả năng thành tựu quả Phật rốt ráo viên mãn; cũng chỉ tu chứng thành Phật mới có thể chuyển hóa thế gian thành thanh tịnh, cứu độ tất cả chúng sinh. Bấy giờ, phát nguyện lớn, nguyện cho đến tận cùng những kiếp vị lai, trên cầu quả Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Do tín nguyện như vậy mà phát tâm, gọi là Nguyện bồ đề tâm, hoặc Tín nguyện bồ đề tâm.

Có tín nguyện rồi, phải thực hành, do vậy kế đến là Hạnh bồ đề tâm. Đây chủ yếu chỉ cho sự thọ trì giới pháp Bồ tát. Giới Bồ tát còn gọi là học xứ của Bồ tát, bao gồm tất cả việc làm cao thượng làm lợi mình và lợi người. Bồ tát thực hành giới vô biên này là thực hành pháp tu của Bồ tát. Hai loại Nguyện và Hạnh bồ đề tâm này vẫn còn thuộc tâm hành phiền não, chưa ra khỏi thế gian, cho nên gọi chung là Thế tục bồ đề tâm.

Căn cứ Thế tục bồ đề tâm mà tu tập tiến lên một bậc nữa, gọi Thắng nghĩa bồ đề tâm. Lúc này, người thực hành đại thừa ngộ nhập Vô sinh pháp nhẫn, chứng thật tướng chân như của các pháp. Đó là cảnh trí chân thật, không có tướng thời gian và không gian; không tướng xanh, vàng, đỏ, trắng; không có tướng của tâm thức. Trạng thái này, trong kinh thường nói là “Không sinh không diệt, không phải có không phải không có, không phải bên này không phải bên kia, không thể nói, không thể nghĩ v.v..” Thế tục bồ đề tâm chú trọng nguyện lực từ bi; còn Thắng nghĩa bồ đề tâm không tách rời nguyện lực từ bi, mà còn bằng trí huệ đạt được sự hiện chứng.

Có thể nói rằng, Nguyện bồ đề tâm chú trọng sự khởi niềm tin mà phát nguyện; Hạnh bồ đề tâm chú trọng làm các việc lợi người; Thắng nghĩa bồ đề tâm chú trọng dùng trí huệ chứng ngộ chân lý. Như vậy, bồ đề tâm bao hàm cả tín nguyện, đại bi, trí huệ; thật sự bao gồm tất cả pháp trọng yếu của đại thừa.

3. Gốc của bồ đề tâm là tâm bi

Phát bồ đề tâm là việc lớn: “Trên cầu Phật đạo, dưới cứu độ chúng sinh”, kiến lập niềm tin lớn và chí nguyện lớn; cho nên lấy tín và nguyện làm yếu tố trọng yếu, lấy đại bi và trí huệ làm yếu tố hỗ trợ cho sự thành tựu. Niềm tin lớn và chí nguyện lớn chủ yếu xuất phát từ tâm bi mà có, cho nên trong kinh nói:

“Đại bi làm gốc”; “Đại bi là đứng đầu”; “Bồ tát sinh ra từ đại bi, không sinh ra từ các việc thiện khác”. Gốc của bồ đề tâm là tâm bi, mà công dụng to lớn của tâm bi là cứu khổ; do vậy điểm đặc sắc của pháp tu Bồ tát đại thừa là cứu khổ nạn cho chúng sinh.

Khổ nạn của chúng sinh nhiều vô lượng vô biên, thật ra đó đều do tự thân chúng sinh tạo ra. Ví như thế giới này, giữa các nước vốn dĩ có thể dựa vào luật pháp quốc tế để giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau. Từ sự hòa bình hợp tác cùng nhau sinh tồn, không đánh nhau, khiến nhân loại phải hi sinh một cách vô nghĩa. Nhưng thực tế không như vậy, mọi người không làm cho sức đầu mẻ trán thì không chịu được, đó không phải tự tìm phiền toái thì là gì? Trên phạm vi lớn như vậy, còn ở phạm vi nhỏ như gia đình, bạn bè, thậm chí trong thân tâm của mỗi người, cũng như vậy. Dựa vào điểm này để khảo sát, có được kết luận: Thế gian này không có gì là không khổ. Từ sự thật trước mắt, những người nghèo khổ, không đủ điều kiện sống, nên đau khổ là lẽ tất nhiên; nhưng rất nhiều người giàu có, có đủ điều kiện sống, cũng vô cùng đau khổ.

Nói rộng ra, thế gian này không triệt để, trên cõi trời cũng không triệt để; còn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh càng không cần bàn luận. Thế nên, Bồ tát làm lợi ích chúng sinh, chú trọng lấy việc cứu khổ, tức tâm bi, làm hoài bão. Tương truyền có vị Bồ tát Thường Đề và Bồ tát Thường Bi, vì nhìn thấy chúng sinh quá đau khổ nên các ngài thường khóc thương cho chúng sinh. Điều này cho thấy Bồ tát rất nặng tâm bi mẫn, và tâm bi là pháp tu căn bản của đại thừa.

Từ bi là ban vui và cứu khổ, đối với thế gian vô cùng đau khổ này, hiển nhiên cứu khổ là việc cấp thiết. Như một khu đất bỏ hoang, muốn gieo trồng trước hết phải nhổ bỏ những bụi gai, cỏ dại; sau đó gieo giống xuống, thì mới có thu hoạch. Chúng sinh có quá nhiều bệnh phiền não, nếu không tìm cách chữa trị tận gốc rễ của bệnh (cũng là nguyên nhân của đau khổ), mà lại cung cấp cho họ mọi thứ ưa thích, đều không có lợi ích thiết thực. Cũng giống như một thiếu niên có thói quen không tốt, thường chơi với bạn xấu, ngày ngày lêu lỏng quấy rối, làm cho hư nhà nát cửa, không có cơm ăn áo mặc, làm sái làm ác. Nếu bạn muốn giúp người này, mà chỉ cung cấp cho anh ta tiền bạc đồ đạc, giúp cho anh ta thoải mái nhất thời thì không triệt để, càng làm cho anh ta hư đốn thêm. Bởi vì vấn đề chính chưa được giải quyết. Đó là tính cách và thói quen của anh ta chưa được sửa đổi, cũng có nghĩa là chưa loại trừ gốc đưa đến đau khổ, mà lại cung cấp cho những thứ tốt đẹp như vậy, thật sự không có lợi gì cho anh ta. Thế giới này cũng vậy, nếu không loại trừ sạch nguồn gốc của những tội ác và đau khổ, thì cuộc sống thế gian dù hạnh phúc tốt đẹp cũng chỉ là tạm thời, không trọn vẹn.

Thế nên, Phật giáo quan tâm đến nỗi khổ và chú trọng việc cứu khổ, mới nghe qua giống như bi quan, tiêu cực; nhưng thật sự Phật giáo chính vì nhận thức và nắm bắt thấu đáo vấn đề này, mới đưa ra phương pháp thích hợp để làm chuyển đổi thế gian này được hoàn toàn thanh tịnh, chúng sinh tràn đầy an lạc thật sự.

4. Tiền đề tu tập bồ đề tâm

Nói đến tu tập bồ đề tâm, cần phải thực hành từ cạn đến sâu. Chư Bồ tát được đức Phật Thích ca Mâu ni khai thị, thường thực hành các phương pháp theo một trình tự để thành tựu bồ đề tâm của họ. Trình tự tu học này gồm bảy giai đoạn: 1. Biết mẹ, 2. Nhớ ân, 3. Cầu báo ân, 4. Tâm từ, 5. Tâm bi, 6. Ý hướng tăng thượng, 7. Bồ đề tâm. Trước lộ trình này cần phải trang bị hai yếu tố: 1. Suy nghĩ bình đẳng, 2. Tâm hỉ.

4.1. Suy nghĩ bình đẳng

Đối với tất cả chúng sinh, nên có tâm bình đẳng không có ý nghĩ phân biệt. Đây không chỉ từ quan điểm khách quan “Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật” mà nói; chính những người nam, nữ, già, trẻ mà chúng ta nhìn thấy trước mắt đều có hình dáng, tính cách khác nhau; rồi như kẻ hiền, ngu, tốt, xấu, cho đến người thân, kẻ oán v.v., vốn đều có sự liên hệ mật thiết, không có khác nhau. Sở dĩ hiện tại khác nhau chỉ vì nhân duyên ở trong một thời không giống nhau. Nếu nhìn từ nhiều đời nhiều kiếp, tất cả chúng sinh, ai chưa từng làm cha mẹ, anh em, chị em, thân thích, bạn bè của ta? Ai chưa từng làm kẻ oán, thù địch của ta? Nếu nói có ân, mỗi người đều có ân với ta; nếu nói có oán, mỗi người đều có oán với ta; vậy sao còn phân biệt ân và oán, thân thiết và xa lạ như thế?

Lại nói về trí và ngu, tốt và xấu; mỗi người ai cũng có lúc thông minh, cũng có khi ngu si. Thông minh có thể trở thành ngu si, ngu si có thể chuyển thành thông minh. Người vô cùng xấu ác cũng từng làm rất nhiều việc tốt, chứ không phải xấu mãi mãi. Người tốt cũng từng làm không ít việc xấu, tương lai cũng chưa chắc là người tốt. Cứ suy nghĩ như vậy, cái gọi là trí, ngu, tốt, xấu, oán, thân v.v., rất nhiều những khái niệm khác nhau này, tự nhiên sẽ tiêu tan dần, cho đến hoàn toàn biến mất.

Nhưng mà nói vậy, không phải là hỗn độn, không biết tốt xấu, mà muốn làm cho những thành kiến sai lệch thiên vị từ trước đến nay của chúng ta chuyển thành quan niệm bình đẳng. Thời Phật, có một vị tỳ kheo nhìn thấy người ngoại đạo điên đảo thì chê cười, nhưng đức Phật nhắc nhở vị tỳ kheo này:

“Thầy không nên cười các vị ấy, thầy còn chưa tu đến địa vị bất thoái chuyển, tính cách ngoại đạo vẫn còn, hãy cẩn trọng chứ không tương lai cũng giống các vị ấy!” Chính vì vậy Phật dạy: “Không khinh người chưa học”, “Không khinh người đã sai phạm”.

Người mới tu học có thể đi từ cạn đến sâu, dần dần trở thành bậc pháp khí lớn. Người phạm sai lầm có thể sửa đổi, thậm chí sửa đổi rồi còn tốt hơn người bình thường, cho nên cũng không được khinh. Từ nghĩa này mà nói, người hiền đức, người ngu si, người thù oán, người thân thiết, đều bình đẳng như nhau, không nên kiêu ngạo, không nên tự ty, cũng không nên trước mắt vì một chút ân oán mà sinh thương yêu hoặc ghét bỏ. Thực hành được như vậy sẽ giữ gìn được tâm cảnh thăng bằng và an tĩnh, theo thuật ngữ của Phật giáo, đây gọi là “tâm xả”.

Một khi tu đạt được tâm xả, thì không còn tồn tại ý niệm thiên vị về oán, thân; không thương yêu ai đến nỗi phát điên phát cuồng, cũng không ghét hận ai đến thấu xương. Theo quan điểm thông thường, thương yêu dường như không phải xấu, nhưng từ phương diện Phật pháp để lý giải thì chưa hẳn là như vậy. Bởi vì cái gọi là yêu thương thông thường cho dù có lợi ích cho người bao nhiêu đi nữa, thì cũng chỉ là hẹp hòi, thiên vị, ích kỷ. ối với chúng sinh rộng lớn mà nói, tình thương đó không những không có ích mà có thể có hại.

Mọi người biết rằng có yêu thương ắt có hận thù. Yêu thương và hận thù dường như là hai trạng thái tâm lý cực đoan tương phản, thật ra chỉ là hai tính chất khác nhau trong cùng một phiền não tạp nhiễm của nhân loại. Thế nên nói do yêu thương sinh ra thù hận, do yêu thương mà dẫn đến bi kịch lớn ở thế gian, là hiện tượng rất bình thường. Phật giáo nói về tình thương lớn bình đẳng, trước phải bỏ những tình thương ích kỷ, cần phải có tình thương rộng rãi và cứu giúp bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Tình thương ích kỷ thiên vị là tập tính phổ biến cố hữu của nhân loại; nếu tập tu học mở lòng, không chấp trước, thì từ từ sẽ yêu thương bình đẳng, người người đều được yêu thương. Còn như tình thương gia đình, tình thương nam nữ, điều này không có sao?

Nói nghiêm túc, bởi vì ai cũng có sự yêu thương, do vậy tất cả hận thù, giết hại, đấu tranh tàn khốc nhất mới không ngừng phát sinh ở thế gian này. Nếu mọi người chuyển hóa được tình thương thiên vị ích kỷ, nhìn mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau, thì tin tưởng rằng những khổ nạn của nhân loại dần dần không còn tồn tại.

4.2. Tâm hỉ

Tu tập bồ đề tâm, điều kiện cơ bản đầu tiên là phá vỡ những quan niệm sai lệch thâm căn cố đế trong chúng ta, làm cho chính mình và chúng sinh có cái nhìn nhất thể, không có sân hận, không có thương nhớ, nhưng cũng không thể lạnh lùng, không hề quan tâm. Nói một cách khác, đối với tất cả chúng sinh, không những nên không khởi niệm phân biệt, mà còn phải nuôi dưỡng những ấn tượng sâu sắc và tốt đẹp, những cảm tình thân ái và hòa hợp. Nhưng đây không phải tình thương thiên vị ích kỷ, mà đây là tâm cảnh vui tươi không có ô nhiễm. Phật pháp gọi là “tâm hỉ”.

Nếu chỉ có tâm xả tức ý niệm bình đẳng, thì vẫn không thể thành tựu đại bi để khởi phát bồ đề tâm. Thí dụ trên phố lớn có vô số người nam, người nữ, người già, người trẻ, người giàu, người nghèo, người xấu, người đẹp. Nhưng khi chúng ta đi ngang qua không chú ý, đều là bình đẳng như nhau, không có cảm giác phân biệt tốt hay xấu. Đây có thể nói do tâm không chú ý nên nhìn thấy bình đẳng. Nhưng đây không gọi là tâm bình đẳng, đối với sự tu học tâm đại bi thì không có tác dụng gì. Bởi vì đây là hoàn toàn nhìn mọi thứ một cách thờ ơ, không quan tâm chúng sinh. Vì thế, tu tập bồ đề tâm thì phải nhìn chúng sinh một cách bình đẳng, nuôi dưỡng tâm cảnh bình đẳng; lại cần quan tâm tất cả chúng sinh, trong lòng nuôi dưỡng một khối hòa khí, một luồng sinh khí.

Trên quan niệm bình đẳng, nuôi dưỡng thành mối tương quan gắn kết, tình cảm hài hòa đôi bên; điều này đối với sự thành tựu tâm bi và bồ đề tâm của Phật giáo đại thừa là vô cùng quan trọng!

5. Chỗ dựa để tu tập bồ đề tâm: Biết mẹ, nhớ ân, cầu báo ân

Dưới đây bàn về thứ tự của bảy bước như biết mẹ v.v..

Đối với tất cả chúng sinh, từ sự quan tâm sâu sắc nhưng không mất đi tinh thần bình đẳng đã phát sinh một loại ý niệm, đó là biết được tất cả chúng sinh đều từng làm mẹ của mình. Trong sinh tử luân hồi, tất cả chúng sinh từng làm quyến thuộc thân thích của chúng ta, việc ấy không thể nghi ngờ. Kinh Phật nói: “Từ vô thỉ kiếp, sữa mẹ mà mỗi người đã uống còn nhiều hơn nước bốn biển!”. Vốn dĩ cha mẹ đều có ân lớn đối với chúng ta, trong tâm thức của con cái, cha mẹ đều có vị trí giống nhau, nhưng ở đây đặt nặng “biết mẹ”, “nhớ ân mẹ”. Bởi vì theo nhân thế thường tình mà nói, ân của mẹ dường như nặng hơn, như mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, việc nuôi dạy phần lớn đều do người mẹ đảm trách, cho nên tình cảm giữa mẹ và con rất thắm thiết. Nếu con cái thấy mẹ chịu cực khổ, thì cảm thấy nỗi đau như cắt thịt vậy. Nếu không quan tâm sự sống chết của mẹ là ngỗ nghịch bất hiếu, pháp luật và dư luận của thế gian cũng không tha thứ. Phật giáo xem tất cả chúng sinh là cha mẹ, tức là lấy tình thương con cái quan tâm chăm sóc cha mẹ thông thường mở rộng ra đến tất cả chúng sinh.

Không những Phật giáo dạy như vậy, mà Mặc gia và Nho gia ở Trung Quốc, Ky Tô giáo ở phương Tây v.v., cũng đều lấy việc biết ân, nhớ ân, báo ân, làm nguồn gốc của tất cả hành vi đạo đức. Như đức hạnh của Nho gia chủ yếu là hiếu đạo, cho nên hiếu là đứng đầu mọi hạnh thiện, và bất hiếu là tội cực ác. Còn tâm lý của đức hạnh, chủ yếu là lòng nhân. Ý niệm đầu tiên của lòng nhân là hiếu dưỡng và tôn kính cha mẹ, sau đó mới mở rộng ra đối với những người khác. Cho nên nói:

“Hiếu kính là gốc của lòng nhân”.

Nho gia dạy về lòng nhân, là phải bắt đầu từ việc hiếu thuận cha mẹ, nếu không hết lòng hiếu thảo thì xem như không có lòng nhân. Bà la môn giáo ở Ấn Độ và Ky Tô giáo ở phương Tây không xuất phát từ việc làm thế nào để hiếu kính với cha mẹ, mà đề cao Trời hoặc Thượng đế là cha của tất cả. Vạn vật thế gian đều do Thượng đế tạo ra, Thượng đế là tổ tông sớm nhất của loài người, cho nên mỗi người đều phải yêu kính Thượng đế, tin và làm theo Thượng đế. Mối quan hệ này tương đồng với mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ. Không những yêu kính cha mẹ, tức thần, mà từ chỗ yêu kính thần mở rộng ra yêu kính tất cả mọi người, giống như yêu kính anh em, chị em của mình.

Nhưng mối quan hệ người và thần (Thượng đế) này hình thành nên câu chuyện thần thoại mơ hồ. Còn Nho gia ở Trung Quốc căn cứ ân tình giữa cha mẹ và con cái để bàn, mối quan hệ này tương đối thiết thực. Có điều Nho gia chú trọng đời hiện tại, ít chú trọng quá khứ và tương lai. Do đây, Nho gia thiên về lòng nhân hiếu đạo trong gia đình, nên khí phách không đủ lớn. đức hạnh trong Phật giáo cũng hình thành từ mối quan hệ cha mẹ và con cái, nhưng bàn luận thông suốt đến sự luân hồi trong ba thời, xem tất cả chúng sinh đều là cha mẹ; cho nên lòng bi mẫn vừa thiết thực vừa rộng lớn, không giống sự mơ hồ của Thần giáo, cũng không giống sự hạn hẹp của Nho giáo

Có người nói: “Phật giáo đề cao tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình, từ bi bình đẳng; đây không gần với nhân tình thế gian”. Có thể nói quan niệm này là tiêu biểu cho quan niệm truyền thống của Nho gia Trung Quốc. Sự biểu dương lòng nhân của Khổng Tử và Mạnh Tử, trước là phải hiếu kính với cha mẹ, thương yêu gia đình, quyến thuộc, bạn bè; sau đó mới mở rộng đến mọi người. Còn như tấm lòng hiếu kính, thương yêu cha mẹ, anh chị em, mà giống như thương yêu, hiếu kính với mọi người, thì bị chê là thứ tự lộn xộn, không phân biệt nặng nhẹ, thậm chí bị chê cười là trái ngược nhân tính. Nhưng điều này đa phần là không giống với những tôn giáo khác như Phật giáo, Ky Tô giáo và Mặc gia.

Mặc Tử đề xướng thuyết Kiêm ái hàm dung rộng lớn, điều này bị Mạnh Tử không đồng tình, mắng rằng đó là hành xử của cầm thú. Học thuyết của Khổng Tử và Mạnh Tử vốn dĩ là rất tốt, có điều phạm vi quá hẹp, không thoát khỏi quỹ đạo gia đình. Mặc gia thì kiêm ái với mọi người, Phật giáo bi mẫn với tất cả chúng sinh; những nội dung đạo đức này rõ ràng không giống với Nho gia theo trật tự cố định trong gia đình.

Thật ra, tâm đạo đức tùy cơ duyên hiển phát, không nhất thiết phải có trình tự. Như Mạnh Tử nói: “Ai cũng có lòng trắc ẩn”. Ai cũng có lòng không nỡ, lòng trắc ẩn, chúng tùy cơ duyên mà dẫn phát, không có thứ tự cứng nhắc. Mạnh Tử cũng từng nói rằng: “Trên đường nhìn thấy một đứa bé không quen biết rơi xuống giếng. Suy nghĩ đầu tiên của ông ta là nên làm cách nào cứu đứa bé, chứ không phải suy nghĩ đứa bé đó có phải là con của mình hay không”. Cũng như thấy trâu mà sinh lòng thương xót, mà quên rằng dê cũng đau khổ giống như trâu. Cho nên đức tính nhân ái không nên bó buộc bởi sự phân biệt đây trước kia sau; điều này không thể dung thông với tư tưởng Nho gia .

Lại nữa, căn cứ tình trạng thực tế ở thế gian mà nói, có người không phải hiếu kính người thân trong gia đình; nhưng với bạn bè lại vô cùng thành thật, hết mực yêu thương, nhiệt tâm giúp đỡ, thậm chí còn có thể sống chết vì bạn bè. Lòng thương người này, chúng ta không thể nói là không hợp lý, không hợp đạo nghĩa. Về sự thể hiện tâm hạnh đạo đức, dựa theo quan niệm truyền thống của Nho gia, trước phải là gia đình (thân), sau mới tới bạn bè (sơ). Nhưng trên thực tế, không ít trường hợp ngược lại. Chúng ta không nên vì điều đó đi ngược với thứ tự thân sơ mà phủ định đi giá trị luân lý của nó. Theo Phật pháp mà nói, đức tính căn bản nhất của nhân loại là tâm từ bi, cũng chính là lương tri mà Nho gia lấy làm thể của lòng nhân, là thứ mà mỗi người đều có, mà còn rộng lớn và trọn vẹn. Có điều có một số người chỉ phát huy tâm từ bi trong gia đình hoặc trong một giai cấp, tầng lớp nào đó thôi, ngoài ra thì không có thể hiện.

Vấn đề này là do: 1. Lý trí không đủ, bị bó hẹp, không đạt được cái nhìn rộng lớn. 2. Bởi vì mỗi chúng sinh, từ vô thỉ kiếp đến nay có nhân duyên phức tạp. Có người vì quá khứ có quan hệ yêu thương mà kết thành mẹ con, có người vì quá khứ có quan hệ hận thù mà kết thành mẹ con. Đời hiện tại, do liên hệ đến cá tính và tính dục tích tập, mà hoặc gần gũi thắm thiết với cha mẹ, hoặc thờ ơ với cha mẹ.

Vì thế, có một số người có thể hết lòng hiếu kính với cha mẹ, yêu thương cha mẹ mình, nhưng lại không có tấm lòng thông cảm đối với những người khác. Có người thì không giống như vậy, đối với cha mẹ và anh chị em trong gia đình dường như không hiếu kính lắm, nhưng đối với bạn bè hoặc người lạ qua đường lại nhiệt tâm hết mình. Đây không phải vì họ chưa từng hết lòng thương yêu người trong gia đình, mà trở nên khô khan, không bao giờ biết yêu thương những người khác.

Vốn dĩ bản chất của từ bi và nhân ái là bình đẳng không thiên vị, nhưng nó không thể đạt được bình đẳng là bởi vì còn chướng ngại phân biệt. Giống như ánh sáng của đèn có thể chiếu khắp gần xa, nhưng bị vật cản che lại thì dù gần cũng chiếu không tới, nếu bỏ vật cản đi thì dù xa nhưng cũng chiếu tới. Do đó, ở đời, có người hiếu kính với cha mẹ nhưng không thương người ngoài; có người thì không biết thương cha mẹ, anh em (thân) nhưng lại thương yêu bạn bè (viễn).

Tóm lại, phàm ai có thể thương yêu người, chúng ta đều tán thán cả, đương nhiên tốt nhất là tình thương rộng lớn bình đẳng. Nếu quy định trước là thương yêu người thân thuộc, sau mới đối tốt với mọi người, như vậy không những không hợp tình đời mà còn trở ngại cho người làm thiện!

Cha mẹ chăm sóc thương yêu con cái, đương nhiên con cái phải hết lòng hiếu kính cha mẹ, tức là nhớ ân và cầu báo ân, đó là những yếu tố quan trọng trong quan niệm luân lý thế gian. Phật giáo từ trong thời gian vô cùng và không gian vô hạn, thể nhận được đạo lý bình đẳng với tất cả chúng sinh, xem tất cả chúng sinh là mẹ, chính là mở rộng và làm trọn vẹn quan niệm luân lý nói trên. Cho nên sự hiếu kính cha mẹ và thương yêu tất cả chúng sinh thực chất cũng không có gì sai khác. Chẳng qua, dựa theo tâm cảnh của những người bình thường, đối với cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp (tức tất cả chúng sinh) cho chúng ta ân đức từ bi, ta không tìm lại được trong ký đức, dù có biết nhau cũng không thân thiết.

Do vậy, chỉ có một biện pháp mang tính thiết thực là bất luận nhớ ân hay cầu báo ân, nên trước hết bắt đầu từ cha mẹ, thân thuộc, sau đó từ người thân mới đi đến người ít thân; lại từ những người không thù không oán đến người có thù có oán. Từ gần đến xa, từ thân đến oán, từ từ mở rộng, nuôi dưỡng quan niệm xác nhận tất cả chúng sinh là mẹ, để nhớ ân, cầu báo ân cho tất cả chúng sinh. Đây gần giống phương pháp “Loại suy‟ theo thứ tự của Nho gia. Nhưng đây không phải cho rằng bản thân đạo đức có phạm vi cố định như vậy, hoặc không thể vượt qua quan niệm người này trước và người kia sau. Đó là sự tu tập theo thứ tự dựa trên quan niệm, nhưng trên thực tế thì luôn luôn tùy duyên mà dẫn phát. Do vậy, đức hạnh cứu khổ bình đẳng của Phật pháp không thể xem là không gần tình người, càng không nhất thiết phải bắt đầu từ phạm vi nhỏ hẹp trong gia đình.

Từ biết mẹ đến nhớ ân, cầu báo ân mẹ là điều tất nhiên.

Đã vượt qua thời gian vô cùng và không gian vô tận, nhận thức được tất cả chúng sinh đều là mẹ ta, đều có nhiều ân đức đối với ta; có ân như vậy nên phải báo đáp ân, đặc biệt là khi chúng sinh đang đau khổ.

Tuy nói từ bi là cứu tế bình đẳng, đối với mọi người đều giống nhau, nhưng khi ở địa vị phàm phu tu tập thì phải bắt đầu từ tình yêu mẹ để biết mà dẫn phát thì có sức mạnh nhất. Bởi vì người mà mẹ thương yêu nhất là con cái của mình. Khổ nhọc mẹ một đời gánh chịu vì con thật sự nhiều, không đếm biết! Mẹ cho con bú, chăm sóc sự ấm lạnh của con, thậm chí cho tới khi con đã ba mươi, bốn mươi tuổi, vẫn coi con giống như vẫn còn nhỏ dại. Lúc con không nghe lời, tuy có buồn giận nhưng lòng vẫn hết mực thương yêu, lo lắng.

Trong đời hiện tại, mẹ thương yêu con cái sâu đậm như vậy, nên biết vô số kiếp trong quá khứ, mẹ cũng từng thương yêu chúng ta như vậy. Cho nên chúng ta đối với tất cả chúng sinh không nên quên ân đức này, mà còn phải tận tâm báo đáp. Do đó nên biết Phật giáo khuyên mọi người phát bồ đề tâm phải dựa vào đạo hiếu rõ ràng nhất mà xuất phát; việc lấy sự nhớ ơn mẹ làm điểm xuất phát rất tương hợp với quan niệm luân lý của Nho gia.

6. Chánh tu bồ đề tâm: Tâm từ, tâm bi, ý hướng tăng thượng

Tu tập bồ đề tâm, bắt đầu từ ý niệm biết ân, nhớ ân và cầu báo ân; bước tiếp theo là phải tu tâm từ, tu tâm bi. Từ và bi dẫn đến phát bồ đề tâm, chúng có quan hệ rất mật thiết. Kinh Phật dạy chúng ta: “Bồ đề tâm không từ thiền định phát sinh, cũng không từ trí huệ phát sinh, mà phát sinh từ tâm đại bi”. Từ và bi, thông thường hợp thành một danh từ Từ bi, thật ra chúng không giống nhau. Dựa theo diễn biến tâm lý của người tu tập có thể phân biệt như sau:

6.1. Tâm từ

Từ là ban vui, tức làm vô số những việc thiện thế gian và xuất thế gian, làm lợi ích cho chúng sinh, giúp cho chúng sinh đều được vui vẻ và hạnh phúc. Nói theo Phật pháp, tu tập tâm từ có công đức lớn nhất; thành tựu tâm từ thì có thể xa rời tai nạn, ngay khi có chiến tranh cũng chuyển hóa việc xấu thành việc tốt.

Trước kia, Đề bà đạt đa từng hợp tác với vua A xà thế lập mưu hại Phật. Họ đợi khi đức Phật khất thực hóa duyên cố ý thả con voi dữ giày đạp Phật. Nhưng không hiểu sao con voi điên cuồng mang đầy dẫy sát khí này vừa nhìn thấy đức Phật hoàn toàn bị thuần phục, liền quỳ dưới chân Ngài, để cho Phật vỗ về. Công đức tâm từ của đức Phật quá rốt ráo viên mãn, cho nên đã thuần phục được voi dữ. Trung Quốc có câu danh ngôn:

“Người nhân đức không có kẻ thù”, cũng chính là nghĩa này.

6.2. Tâm bi

Bi là cứu khổ, tức là giảm nhẹ hoặc diệt trừ cội gốc đau khổ của chúng sinh. Vì mong muốn đáp đền ân đức của chúng sinh, nguyện cầu cho tất cả chúng sinh được an vui, cho nên tu tập tâm từ. Nhưng lại cảm thấy nếu nguồn gốc đau khổ của chúng sinh không được trừ bỏ thì không đạt được mục đích “ban vui”, do đó mà dẫn phát tâm bi. Tâm bi là cứu khổ, mà cứu khổ một cách triệt để là giúp cho chúng sinh cùng nhập Vô dư Niết bàn, tức là diệt trừ tận gốc đau khổ, đó mới thực sự cứu tế khổ nạn.

Cho đến sự tu tập tâm hạnh từ bi cũng phát triển có thứ tự. Cha mẹ, anh em v.v., có quan hệ thân thiết, gọi là “thân”. Người bình thường không có quan hệ thân thiết, gọi là “trung”; oan gia có thù oán thì gọi là “oán”. Từ “thân” đến “trung”, từ

“trung” đến “oán”; tu làm sao mà đối với tất cả chúng sinh đều khởi tâm từ bi bình đẳng, rộng lớn vô biên, cho nên gọi là “bi vô lượng”, “đại bi” v.v.. Nhưng nếu chỉ khời tâm từ bi đối với một bộ phần chúng sinh nào đó, thì không phù hợp với tinh thần của Phật pháp, mà gần với “nhân ái” mang tính giai cấp của thế gian, đồng thời lại hàm chứa chủng tử đau thương.

Trong lộ trình tu tập bồ đề tâm, tâm bi tuy rất cao diệu, rất là khó đạt được, nhưng cần phải tiến thêm một bước nữa là làm cho tâm bi mạnh mẽ thêm, cần thực hiện các hành động thiết thực để cứu chúng tăng thượng.

6.3. Ý hướng tăng thượng

Ý hướng tăng thượng lấy tâm bi làm gốc, là loại hạnh nguyện có năng lực mạnh mẽ; theo cách nói ở thế gian hiện nay, đó chính là “tâm cuồng nhiệt”, là sự nhiệt tâm đối với sự nghiệp hóa độ chúng sinh. Nhiệt tâm đến mức cao độ thì không phải nói đến gian nan, không nói thời gian bao lâu, không gian rộng bao nhiêu, chúng sinh nhiều bao nhiêu, dù bản thân mình hi sinh tất cả cũng không hối tiếc, tận tâm tận lực cứu chúng sinh.

Bồ tát không vào địa ngục thì không cứu được chúng sinh trong đó. Bồ tát muốn thành Phật cũng phải đến nhân gian lắm khổ nạn này. Phật và Bồ tát có đầy đủ hạnh nguyện có năng lực mạnh mẽ, tức ý hướng tăng thượng, cho nên trở thành Phật và Bồ tát.

Bậc Thánh của Tiểu thừa, vốn cũng có tâm từ bi, chỉ vì chưa đủ mạnh mẽ, thiếu hạnh nguyện có sức mạnh này cho nên không thành tựu việc độ chúng sinh, mà chỉ có thể “đạt được lợi ích cho chính mình‟. Trong kinh có ví dụ: “Có nhà kia sinh được một đứa con rất dễ thương, mọi người ai cũng hết mực thương yêu nó. Một bữa nọ, đứa bé không cẩn thận ngã xuống hố phân, mẹ và các chị lo lắng muốn phát điên, trong lòng chỉ nghĩ “Phải cứu nó, nhanh cứu nó‟, nhưng không ai nhảy xuống hố phân. Chỉ có cha của nó chạy đến và nhảy xuống, không cần biết hố phân đó vừa sâu vừa thối, mà chỉ biết nhanh chóng đưa đứa nhỏ lên.”

Ví dụ trên hàm ý rằng nếu chỉ có tâm bi, không có ý hướng tăng thượng vẫn không đủ. Bởi vì tâm bi chỉ là lòng thương người mà thôi, chứ không phải là một loại ý chí có sức mạnh mãnh liệt không tiếc thân mạng mình. Cho nên, các vị Thanh văn tuy có sự đồng cảm với nỗi khổ của chúng sinh, muốn làm cho chúng sinh thoát khổ được vui, nhưng vẫn cứu không được chúng sinh, không làm cho chúng sinh thoát khổ được vui. Đây cần phải giống với chư Bồ tát, không những có lòng từ bi thương xót mà còn phải có ý hướng tăng thượng. Có như vậy mới có thể khởi phát những hành động thực tế, đem lại lợi ích thực sự cho chúng sinh.

7. Thành tựu bồ đề tâm

Từ tâm bi tiến đến tâm có ý hướng tăng thượng, đã hình thành một tâm cảnh khác. Đạt đến giai đoạn này, người tu học Phật nhìn thấy chúng sinh chịu khổ giống như mình đang chịu khổ, chứ không phải thờ ơ, không quan tâm đến. Đó thật sự là lấy nỗi khổ và niềm vui của chúng sinh làm nỗi khổ và niềm vui của chính mình.

Nhờ sự hiểu biết sâu sắc, chúng ta nhận thấy rằng tất cả những học vấn của thế gian, tất cả những tôn giáo, tất cả những biện pháp, đều không giải quyết triệt để nỗi khổ của chúng sinh. Chỉ có duy nhất đức Phật và Phật pháp mới có thể cứu khổ, mới là liều thuốc tốt nhất để cứu khổ chúng sinh. Cho nên chỉ có tu tập hạnh Bồ tát để chứng quả bồ đề (tức thành Phật) mới có thể giúp chúng sinh được giải thoát khỏi vô biên khổ não.

Do đó, vì cứu độ chúng sinh mà phát tâm thành Phật, lấy đại hạnh độ sinh làm tư lương để thành Phật, đem hạnh nguyện tâm bi của mình và đau khổ của chúng sinh kết thành một khối, phát tâm học hạnh Bồ tát, cầu thành Phật quả. Sự thành tựu tín nguyện lớn kiên cố này chính là thành tựu bồ đề tâm.

8. Thứ tự tiến tu bồ đề tâm

Phần trên là trình tự của bảy loại nhân quả tu tập bồ đề tâm. Đây là thứ tự tu học được Bồ tát Liên Hoa Giới và các vị khác cùng nhau căn cứ vào quan điểm A tì đạt ma và các thuyết khác thành lập. Dựa vào trình tự bảy loại nhân quả tu học mà hoàn thành, tức là thành tựu Nguyện bồ đề tâm. Sự phát tâm bồ đề quan trọng nhất ở chỗ này.

Phát bồ đề tâm là đã đầy đủ tín nguyện của đại thừa, nhưng cần phải tiến tu hạnh Bồ tát. Như Thiện Tài đồng Tử trong kinh Hoa Nghiêm, có đầy đủ tín nguyện sâu dày của đại thừa, phát tâm thành Phật độ chúng sinh, cho nên trong quá trình tham vấn pháp tu đại thừa với các Bồ tát, Thiện Tài đồng Tử luôn thưa rằng: “Con đã phát bồ đề tâm, nhưng không biết nên tu hạnh Bồ tát như thế nào?” Người tu học, sau khi phát tâm, lấy sự tu tập hạnh Bồ tát lợi ích cho chúng sinh làm căn bản, thì cũng không ngoài giới Bồ tát. Trong giới Bồ tát, cũng lấy các giới bất sát, bất đạo, bất dâm làm giới trọng, nhưng đó phải phù hợp với tất cả luật nghi. Chỉ ở phương diện này thôi thì không thể hiện rõ tính chất đặc trưng của đại thừa, cũng không thể hiện được tinh thần bất cộng của Bồ tát. Bồ tát có Tam tụ tịnh giới: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới; Tam tụ này chủ yếu là lấy Lục độ và Tứ nhiếp làm thể. Như Du già giới bổn cũng dựa vào Lục độ và Tứ nhiếp pháp mà phân loại. Bồ tát lấy bồ đề tâm không thối chuyển làm giới căn bản, không tách rời bồ đề tâm, mà lánh xa các việc ác và làm lợi ích cho chúng sinh, thành tựu giáo pháp của Phật; đó chính là tu tập Hạnh bồ đề tâm. Luận Đại thừa khởi tín nói: “Dựa vào bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và pháp Chỉ quán tu tập để thành tựu bồ đề tâm.” Đây đồng với Hạnh bồ đề tâm.

Tu tập bồ đề tâm sau khi tích tập rộng lớn tư lương phước đức và trí huệ, tiến đến ngộ nhập Vô sinh pháp nhẫn, thể chứng sự không sinh không diệt của tất cả pháp; đó gọi là Thắng nghĩa bồ đề tâm. Thắng nghĩa bồ đề tâm là sự chứng ngộ bằng trí huệ, không tách rời tín nguyện và từ bi. Nếu ngay trong một niệm tâm tương ưng phát khởi Thắng nghĩa bồ đề tâm này, đó là Bồ tát phần chứng đã thành Phật, thị hiện thành Phật trong trăm thế giới, cho nên có thể nói phát tâm liền thành Phật, tức


Từ Ngữ Phật Học Trong: Tiến Trình Tu Tập Bồ Đề Tâm