Giả như các vị là một người tin Phật, niệm Phật đã mở lòng hoan hỉ thì cũng không cần nói gì nữa. Giả như các vị là người cả đời chưa chuẩn bị tốt, lại mắc phải bệnh ung bướu, hay một bệnh nào khác, đến nỗi nội tâm rất sầu khổ, cuộc sống đầy sợ hãi, không biết từ đâu đến đâu! Thế thì có lẽ chúng ta cùng khuyên bảo nhau. Chính tôi là một bác sĩ khoa ung bướu biến thành một bệnh nhân ung bướu, các vị có thể cho rằng đã như thế thì tôi nhất định là một bác sĩ ngờ nghêïch, sai lầm nhất, vốn là một “Bồ Tát bằng đất qua sông, tự mình không giữ được mình”, thì những lời giảng của người như vậy, nhất định không ích lợi gì. Quả thật là như vậy, rất nhiều người cười tôi, chính tôi cũng nhận thấy rất đáng cười, quả là một bác sĩ ngờ nghệch! Nhưng trên đời này, quả thật kiếm không ra một bác sĩ không hề mắc bệnh, trường sanh bất lão, lại cũng kiếm không ra một bác sĩ có thể đảm bảo chính mình không bị bệnh, không bị chết. Cho nên tự thân tôi khi đã trãi qua những sự việc đáng cười, giả như các vị từ bi mà không thấy gì đáng cười, đáng ghét, mà chịu nghe một chút, cũng như dù là mấy tờ báo cũ đã rách cũng có thể giúp cho các vị giữ được bình hoa quý giá, khỏi bị bể; một cây đèn cầy có chút ánh sáng yếu ớt, khi bị cúp điện, cũng có thể giúp các vị trãi qua đêm tối trong đời.các vị hãy xem tôi là mấy tờ báo cũ rách, giúp các vị giữ được bình hoa. Tôi cũng rất mong muốn làm một cây đèn cầy nho nhỏ, giúp các vị trãi qua một đêm bị cúp điện, tối đen đưa bàn tay không thấy năm ngón.
Mấy năm gần đây thường có một số bằng hữu bị ung bướu, vì thấy các thầy trong Liên Xã ở Đài Trung lần lượt chép lại một số băng mà tôi đã diễn giảng trước kia rồi xuất bản thành những quyển sách nhỏ, nên các vị muốn cùng nhau bàn thảo, học tập với nhau, trao đổi tâm sự hoặc tâm đắc. Sau khi đã bị chứng ung bướu, phần lớn những người kiếm tôi đều chịu rất nhiều khổ đau, nói chung là khổ vì bệnh tật, khổ vì trị liệu, khổ vì người ngoài không thông cảm, khổ vì chính mình sợ sinh tử, thậm chí khổ vì bị những người trong nhà, hoặc người mình thương yêu bỏ mặc. Khi người ta đang khổ thì người ta mong có người thông cảm cái nội tâm của mình. Khi đang sợ đến nỗi tay chân tê cóng, chúng ta mong có bàn tay của Đức Phật ấm áp, vĩ đại cứu độ ngay cho chúng ta. Khi đang đi một đoạn đường núi gập ghềnh trong đêm tối và cảm thấy cô độc, giả như có người kết bạn đồng hành, thì sẽ cảm thấy rất dễ đi. Chỉ mong rằng khi các vị đang khổ não, tôi có thể cùng quý vị kết bạn đồng hành.
Chúng ta đều là người biết cười, biết khóc, biết đau, biết khổ, có máu, có nước mắt như nhau, gặp phải hoàn cảnh khó khăn không thể giải quyết được đều phiền não, lo sợ. Khi biết rằng mình có ung bướu và được gọi là “ác tính” đang lớn lên trong cơ thể chúng ta, không biết khi nào chúng sẽ mang khổ sở cho mình, rất ít người không sợ, trong khi biết mình có thể sắp chết, lại không biết mình sẽ đi về đâu; có thể nói không ai là không sợ. Tôi rất cảm tạ chư Phật và chư Bồ Tát và cả sự chỉ dạy của nhiều bậc thầy, của cha mẹ và các thiện tri thức, đã khiến cho tôi ra khỏi sự sợ hãi này. Tôi cũng rất cảm tạ những sự thể hiện và chỉ dạy của nhiều bệnh nhân trong y viện trước đây, đã giúp tôi học tập được làm sao để trải qua ngày tháng trong khi mắc bệnh ung bướu, lại còn học tập một ngày thì cảm ơn một ngày, sống một ngày thì vui vẻ một ngày. Tôi cũng có nhiều đau khổ, đau khổ đến nỗi không làm sao để sống cho được an nhiên. Nhưng nhờ có tín tâm mà có thể trở về với lòng biết ơn và sự an vui. có người nghe đến đây thì lắc đầu nói: “Chúng tôi vốn không có lòng tin như Pháp sư, cũng không hiểu biết Phật, cho nên không phát sinh lòng cảm ơn, lo sợ là lo sợ chết đi không được như Pháp sư; Pháp sư có thể giảng cho chúng tôi nghe những câu không dính dáng tới kinh Phật hay không có những từ chuyên môn, nhưng lại thực dụng cho chúng tôi được không?” cũng đã có một bệnh nhân nói với tôi: “Bây giờ tôi cũng chẳng có lòng dạ nào để nghiên cứu kinh Phật, lòng tôi đang lo lắng hàng ngày cứ lật các tư liệu y học, càng xem càng sợ. Có người bảo tôi học kinh Phật, tâm tôi đang rối loạn nên học thế nào cũng không tiến được!” Lời nói của người bệnh này đã phản ánh tình trạng và sư khó khăn của nhiều người. Chính tôi cũng không có công phu, tư cách năng lực gì để giảng kinh Phật, tôi chỉ có một ít những điều nghe thấy và kinh nghiệm, mà từ đó đạt được một số lời chỉ dạy và sức lực, khiến tôi giải khai được một số tâm tình mà tôi, tuy vẫn rất nhiều thiếu sót nhưng cũng có thể phân tích giúp các vị được. Có lẽ các vị căn cơ tốt lành, có thể sẽ được an vui, sáng suốt hơn tôi.
Tôi rất thích sự giải thích về Đức Phật của Thiền Sư Đạo Tín, một vị Tổ sư của Thiền Tông. Ngài nói: “Vui vẻ không sầu gọi là Phật”. Đó là trong lòng luôn giữ vẻ vui vẻ không sầu, thì mới gọi là Phật.
Xương không gây sợ cho người, người tự sợ. Bướu không gây sợ cho người, người tự sợ
Trước hết tôi kể một câu chuyện để từ đó các vị có thể hiểu. Trước kia khi tôi học tại viện y học, đến năm thứ haiphải học giải phẫu. Trước hết phải nghiên cứu sự cấu tạo xương của thân thể người ta. Trên một miếng xương có những lỗ nào, trong những lỗ ấy có những huyết quản, thần kinh nào chạy qua, đều phải ghi nhớ kĩ càng. Thi cử rất nghiêm khắc, rất nhiều người bị rớt ngang. Vào tháng mười năm ấy có một kì nghỉ, tôi liền nhân đó trở về quê ở Đài Nam để nghỉ, nhưng sau kỳ nghỉ lại phải thi, cho nên kỳ nghỉ cũng phải đem xương về nhà để nghiên cứu cho thuộc. Đồ dùng học tập của chúng tôi là xương người thật, tôi mang một cái xương đầu, và mấy cái xương phức tạp khác mà đáp xe lửa về nhà, chỉ dùng một cái túi xách tay đơn giản, đeo trước ngực mà lên xe. Trong xe có rất nhiều người chen chúc lui tới, đụng phải cái túi của tôi. Mọi người không biết trong túi có gì, nên rất tự tại không ai có ý kiến gì. Sau này tôi mới biết, nếu tôi để lộ ra một miếng xương, và nói rõ là xương người thật, thì có thể có người nhường chỗ cho tôi nhưng cũng có thể người bên cạnh sẽ bỏ đi hết.bấy giờ tôi chỉ cảm thấy rất bình thường, vì cha tôi là một bác sĩ, mọi người đều xem đó chỉ là một đồ dùng dạy học mà thôi. Về sau có người chị lớn hơn tôi hai tuổi, chị thấy tôi cầm cái xương đối chiếu với hình vẽ trong sách, miệng lẩm bẩm bằng tiếng nước ngoài thì vui vẻ đến xem, cười hì hì mà ngắm chung với tôi. Chị lại cầm cái xương trên tay tôi mà cảm thán: “Ôi! Cặp mắt là một lỗ lớn, mũi trũng trũng rất dễ thương”. Chị vừa nhìn vừa cười. Bấy giờ tôi không biết làm sao, bèn nói với chị: “những người này đem xương hiến tặng cho chúng tôi nghiên cứu để sau này chúng tôi có thể cứu người. Cho nên chúng ta phải kính trọng và cảm ơn họ”. Tôi chưa nói xong người chị họ bỗng kinh hãi kêu lên, ném cái xương ra xa, muốn khóc và trách tôi: “Sao em không nói trước với tôi đây là xương thật?” Tôi vội xin lỗi chị, sau đó lượm cái xương lên, trông nét mặt chị nhợt nhạt, ngồi bên chiếc dương cầm của tôi mà tấm tức khóc. Chị lại nhìn bàn tay mình: bàn tay đáng sợ đã sờ vào cái tay của người chết, không biết làm sao cho phải, nhưng bàn tay của chính chị thì không thể vứt đi được. Trông thấy chị rất hoảng sợ tôi bèn xin lỗi: “xin lỗi chị, té ra chị không biết xương này là xương người thật, có điều vừa rồi chị rất thích thú nhìn nó, phải không nào? Xương người thật cũng không có gì đáng sợ! Chúng tôi hàng ngày đều nghiên cứu với bộ xương, chỉ cần phải có lòng cung kính”. Tôi lại nói nhiều lời an ủi, chị mới gạt lệ làm vui, nhưng chị vẫn không dám sờ vào cái xương ấy.Tại sao tôi mất công kể câu chuyện này? Vì câu chuyện này đã cho tôi lời dạy lớn: thật ra mọi người đều sống trong cái thế giới “quan niêm” của chính mình. Cái xương ấy trước sau không có gì khác biệt, nhưng những tình tự của chị họ tôi thì khác biệt vô cùng: Té ra chị tưởng cái xương ấy là một giáo cụ bằng nhựa do người ta làm ra, nên chị không sợ chút nào, lại còn thích thú, vừa ngắm, vừa cười. Sau đó chị lại tự nhận ra “đây vốn là xương của người chết rất đáng sợ”, cho nên chị sợ đến mặt tái xanh, ném cái xương ra xa! Tuy là xương người thật, nhưng nếu trong quan niệm cho rằng đó là giả thì không đáng sợ, cho nên ngắm nó một cách bình thản, thích thú. Đến lúc trong quan niệm nhân cái xương rất đơn thuần ấy mà liên tưởng đến những chuyện ma quỷ đáng sợ được nghe hồi còn nhỏ, thì lại biến thành rất kinh hãi. Đối với người không liên tưởng bậy bạ, thì cái xương rất bình thường, vì chúng ta mỗi người đều có một bộ xương, bộ xương được bọc trong thịt cũng rất bình thường, có đáng sợ chút nào đâu? Nhưng trong khi chị họ tôi cười thì chị cười rất chân thật. Trong khi chị sợ mà khóc thì trái tim nhảy loạn lên, vì chị bị cái quan niệm của mình và sự nghĩ càng tưởng loạn trói buộc. Chúng ta không nên cười chị. Thật ra chính chúng ta cũng như thế, đều bị một số quan niệm và huyễn tượng lừa dối. Có thể nói: “Sắc không làm mê tối người, người tự mê tối”, “xương không gây sợ cho người, người tự sợ”. Rất nhiều lời nói vốn không hề làm người ta giận, mà bởi người nghe tự sinh ra giận. Cũng thế “Bướu không gây sợ cho người, người tự sợ”, cái sợ này có thể vốn không sao, nhưng trái tim lại vô cớ nhảy đập nhanh hơn. Người vốn có trí lực mà sợ thì cũng sợ đến bủn rủn.
Tình tự, tâm niệm có tính quyết định, có sức mạnh rất lớn không thể nghĩ bàn.
Trong thời gian làm việc tại y viện, tôi phát hiện một sự việc, rất nhiều bệnh nhân được trị liệu bằng phóng xạ, hóa học, huyết cầu phần lớn đều sút giảm. Họ vốn không có khái niệm, vốn không biết huyết cầu mình là bao nhiêu, và số huyết cầu có ý nghĩa gì. Đại khái theo quan niệm của họ, con số ấy thấp tức là không tốt. Y viện có tiêu chuẩn, theo đó số huyết cầu xuống cỡ bao nhêu thì phải nghỉ, tạm thời không trị liệu. Nhiều bệnh nhân vì bạch huyết cầu xuống thấp, phải tạm ngưng chữa trị vài hôm. Ở nhà, họ cảm thấy thể lực của mình là tốt; đến y viện phần lớn người ta cho rằng bạch cầu của mình nhất định gia tăng; cho nên bước vào phòng khám, họ thường tươi cười nói với tôi: “Mấy ngày nay tốt lắm, tôi ăn được cơm!” Họ cũng vui vẻ cầm phiếu kiểm nghiệm để đi kiểm nghiệm máu, rồi lại cầm phiếu trở về giao cho bác sĩ. Khi chúng tôi xem phiếu, bệnh nhân thường hỏi: “Hiện nay bạch huyết cầu của tôi là bao nhiêu?” Nếu chúng ta cứ theo con số ghi trên phiếu mà nói ra, và so với lần trước, con số ấy thấp hơn ngoài ý liệu của họ thì cơ hồ sắc mặt của họ đều sầu thảm, chân tay bủn rủn, họ mất hết khí lực mà nói: “Tại sao lại thấp như thếù chứ?”, và rồi thì họ không còn sức lực, hầu như không về nhà nổi. Chúng ta có thể nghĩ: cùng một thân thể mà trước một giây, sau một giây thì tình trạng không quá sai biệt, nhưng chỉ nghe một con số khiến người ta thất vọng nên trong tâm liền sanh ra lo lắng thì tình trạng “tốt lắm” mà họ cảm thấy trước đó, rơi xuống tình trạng thảm thương như thể uống phải thuốc độc và thuốc độc phát tác rất nhanh! Từ đó tôi hiểu ra, “tâm niệm” của người ta có sức mạnh quyết định rất lớn, không thể nghĩ bàn.
Sự thực nghiệm của khoa học cũng cho biết sự thay đổi tâm trạng quả thực có thể sản sinh ra một số chất ảnh hưởng đến sinh lý. Ví dụ: khi nóng giận, trong cơ thể sản sinh một số độc tố rất giống với nọc độc của rắn độc.
Cũng may, gan, tim có thể giải độc, cho nên chất độc do nóng giận sinh ra không đến nỗi làm chết người. Nếu công năng giải độc của gan không tốt, áp huyết cao, bị bệnh tim thì chất độc do nóng giận ra để đủ làm chết người. Cho nên “sự giải độc” triệt để phải do “tâm niệm” mà hạ công phu. Tâm niệm thay đổi, thân thể vật chất cũng thay đổi.
Viện nghiên cứu Ung bướu Quốc gia của nước Mỹ có một nghiên cứu cho thấy: các học giả nghiên cứu có thể đánh giá bệnh nhân chính xác trăm phần trăm, trong vòng một hay hai tháng, bệnh nhân có thể chiến thắng ung bướu hoặc bị ung bướu đánh bại. Chỗ căn cứ của họ hoàn toàn không phải là ung bướu lớn hay nhỏ, bộ vị thế nào, cũng không phải là kết quả kiểm tra của các máy đo, lại càng không phải là các con số trong phiếu xét nghiệm máu, mà hoàn toàn căn cứ vào “tâm thái” của người bệnh, tâm mới là căn nguyên.
Đã có nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy, tâm bị “áp lực” khiến các “tuyến ngực” sẽ teo lại, tức là công năng miễn dịch bị yếu đi. Hơn nữa, các kết quả thực nghiệm cho biết sự nóng giận, âu lo và những trạng thái tình cảm khác cũng đều đưa đến việc công năng miễn dịch bị suy yếu, khiến cho bệnh ung bướu và sự cảm nhiễm dễ phát sinh, đồng thời cũng khiến cho việc trị liệu mất hiệu quả (nói về hiệu quả trị liệu cũng cần phải thông qua công năng miễn dịch của cơ thể thì mới được).
Điều này chứng tỏ “tâm niệm” có sức mạnh rất lớn. Cho nên cần phải lấy tâm niệm của chúng ta mà niệm Phật, vì Phật là an vui, vô tư, quang minh nhất. Niệm Phật thì tự nhiên có quang minh, an vui. cái tâm niệm Phật thì không có độc tố của mọi thứ trạng thái tình cảm tiêu cực, lại có thể hóa giải mọi áp lực, tự cương tăng cường miễn dịch!
Nên biết, áp lực là do tâm “tiếp nhận” chỉ riêng tại đó, các sự việc gây quái ngại mới có thể có “áp lực”. Nếu cải biến quan niệm, không xem đó là áp lực thì áp lực cũng không còn nữa, cũng không có gì mà phải “chịu nhận”. Nếu quyết tâm chuyên “chịu nhận” Phật quang (niệm Phật), thì không có cái tâm nào “chịu nhận” áp lực. Cần phải luyện tập “chịu nhận và không chịu nhận đều do tự tâm làm chủ”.
Sự nghiên cứu khoa học cũng chứng tỏ rằng, khi người ta an vui, não cũng tiết ra các chất hóa học, như Endorphins và Enkephalins. Chất trước có thể gia tăng sản lượng “tế bào T” trong cơ thể (cũng như gia tăng số lượng cảnh vệ, quân đội); chất sau có thể gia tăng lực lượng “tế bào T”, chiến thắng các tế bào ung bướu (cũng như võ công cao cường), đồng thời cũng khiến cho “tế bào T” hoạt bát hữu hiệu được gia tăng. Có thể xem “tâm niệm” là vị tướng tổng chỉ huy, chỉ huy quân đội miễn dịch. Đây là kết quả thực nghiệm của khoa học, cũng chứng minh lời Phật dạy “mọi sự vật đều do tâm tạo ra” (vạn pháp duy tâm tạo). Người niệm Phật nguyện tâm thế giới Cực Lạc chính là nguyện không có chúng sanh nào chịu khổ mà chỉ thọ nhân an vui, cũng chính là nguyện cái tâm luôn ở trạng thái an vui.Đức Phật A Di Đà còn được gọi là “Hoan Hỉ Quang Phật”; thường niệm Phật thì thường hoan hỉ, thường tạo ra mọi chất làm gia tăng sức miễn dịch. Cho nên gọi Phật là “Vô Thượng Y Vương”. Hoan hỉ niệm Phật là liều thuốc bổ công hiệu nhất.
Các nhà tâm lí đã từng làm một cuộc thực nghiệm, thực nghiệm vào một tử tội. Trước hết chúng ta không phải lưu tâm về cuộc thực nghiệm của họ có nhân đạo hay không. Họ để tử tội nằm trên giường, bịt mắt anh ta lại, rồi sau đó nói với anh: “Chúng tôi cắt huyết quản ở cổ tay anh để cho máu anh chảy ra từng giọt, đến khi máu chảy ra hết thì anh chết”. Sau khi nói xong, họ giả làm như lấy cái gì đó mà cắt vào tay anh, thực ra da chưa bị rách, theo đó nhà tâm lí học lại dùng nước có nhiệt độ như nhiệt độ của cơ thể mà nhỏ từng giọt trên tay anh ta, khiến anh có cảm giác như máu đang ấm chảy. Họ lại dùng một thùng sắt để phía dưới hứng nước ấm ấy, để cho anh ta nghe âm thanh của từng giọt nước ấy, rồi họ lại nói với anh: “Máu của anh tuôn chảy, tuôn chảy không lâu thì hết, nay chỉ còn vài phút nữa thôi”. Quả nhiên sau đó, phạm nhân này đã chết vì sợ. Thực ra ngay một máu của anh cũng không hề chảy ra, da cùng không bị rách chút nào, chỉ thuần túy là bị ngôn ngữ và huyễn tượng lừa dối, cho nên sợ quá mà chết. Tuy đây là một cuộc thực nghiệm tàn nhẫn nhưng cái sự thật muốn nói với chúng ta là tâm niệm và tín niệm có thể quyết định vận mạng của chúng ta. Có thể nói người tử tội ấy là một vị Bồ Tát, tuy anh ta phải chết vì quá sợ hãi, nhưng kết quả cuộc thực nghiệm này có thể khiến chúng ta có sự hiểu biết và tín tâm về ý nghĩa câu nói của nhà Phật “Tất cả đều do tâm tạo ra” (nhất thiết duy tâm tạo). Trước đây tôi thường kể cho bệnh nhân nghe cuộc thực nghiệm này. Họ vốn rất ưu sầu, nhưng sau khi nghe và hiểu rõ ý nghĩa này, họ biết rằng có thể dùng tâm niệm để biến đổi vận mạng của mình, không cần phải tự mình làm cho tự mình phải sợ hãi, không cần phải tự huyễn để cho mình phải sống một cuộc sống tối tăm.
Tôi còn nhớ hồi còn đang học tiểu học, tôi có đọc một truyện được dịch từ tiếng nước ngoài. Đọc xong tôi rất cảm động đến chảy nước mắt, đến nay vẫn còn giữ ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm văn chương này nói về một người mang bệnh nặng, cảm thấy mình là một bệnh nhân không thể chữa lành được. Hàng ngày ông nằm trên giường nhìn ra cửa sổ, bấy giờ mùa thu gần qua, mùa đông sắp đến. Mùa đông ở nước ngoài trời rất lạnh, lá cây rơi lả tả. Người bệnh nhìn lá rơi mà trong lòng rất đau thương. Một tối nọ ông nằm mơ thấy có người bảo với ông: “Khi nào lá của cây ở ngoài cử sổ rụng hết thì sanh mạng của ông sẽ kết thúc”. Người bệnh tỉnh mộng thì rất buồn khổ. Hàng ngày đều chăm chú nhìn từng chiếc lá cây rơi, mỗi chiếc lá rơi xuống càng làm ông thêm lo sợ. Một vị bác sĩ nhân từ đến thăm ông, thấy ông buồn khổ nên hỏi chuyện, do đó vị bác sĩ này tìm cách giúp đỡ ông. Khi sắp đến những ngày tuyết rơi, một đêm kia trời gió rất mạnh, hầu như các lá cây đều rụng hết. Nhưng sau khi trời sáng, vị bác sĩ liền đến thăm ông, chỉ vào cái cây ở ngoài cửa sổ mà nói: “ Ông xem, lá trên cành cây kia đều rụng hết, chỉ còn độc nhất một cành có vài chiếc lá còn nguyên. Hôm qua gió lớn như thế mà không làm rụng mấy chiếc lá ấy. Đây thật là một điều kì lạ; chứng tỏ rằng bệnh của ông nhất định sẽ có điều kì lạ xuất hiện, nhất định sẽ được lành trở lại!” Người bệnh nhìn ra ngoài cửa sổ, quả nhiên lá trên cây đều rụng, các cành trơ trọi chỉ cây này còn vài chiếc lá. Người bệnh thấy thế, lại nghe vị bác sĩ nói nên tinh thần phấn khởi, vui vẻ hẳn lên, chẳng bao lâu được hồi phục, rời phòng bệnh. Bạn biết tại sao câu chuyện này khiến tôi cảm động và có ấn tượng sâu sắc không? Vì mấy chiếc lá không rơi kia là do vị bác sĩ nhân từ muốn an ủi người bệnh, vào nửa đêm đã trèo lên cây gắn chặt những chiếc lá vào cành, để khiến người bệnh phấn chấn lên, tràn trề lòng tin, vui vẻ mà sống. Mấy chiếc lá không rơi ấy tuy là giả, nhưng lòng tin của người bệnh là thật, cái sức mạnh được sản sinh ra là thật. Từ sự thật này chúng ta có thể hiểu rằng, tín tâm có tác dụng quyết định, chúng ta có thể quyết định khi còn sống phải sống cho an vui, không chịu ảnh hưởng của bệnh tật. Như thế không ai có thể ngăn cản ta được.
“Thai nhi” là một ung bướu lớn nhất trong cơ thể, nhưg thai phụ không sợ thì không hề gì.
Tôi từng đọc một tài liệu y học về khoa phụ sản, trong đó có một câu: “Thai nhi là một ung bướu lớn nhất trong cơ thể con người.” Quả thật, thai nhi phát triển trong cơ thể người mẹ càng lúc càng lớn, bà mẹ vốn khống chế được, thậm chí loại máu cũng không giống của mẹ. Nhưng trong thân thể của người mang thai lại có một “sinh mạng khác nữa không chịu theo sự khống chế của mình”. Tài liệu ấy còn bảo đó là cục ung bướu lớn nhất trong cơ thể, trong lòng người mẹ mà người mẹ lại không thấy sợ hãi, mà phần lớn còn rất thích thú. Nói chung tình huống của những người mang thai đều như thế, cho nên suy ra cũng không có gì phải sợ. Nếu tất cả chúng ta đều bị ung bướu, mọi người cũng nên sống cho an vui, sau này có ai bị ung bướu cũng không phải qúa lo lắng. Không ai qui định rằng hễ bị ung bướu thì phải cúi đầu buồn khổ, khóc lóc bi ai. Chúng ta cũng có thể phấn chấn tinh thần, thư thái mà sống.
Chỗ tôi có một cây mộc qua. Cây này từng là bác sĩ của tôi và cũng là thầy của tôi. Tại sao bảo thế? Có một dạo dạ dày tôi bị ung bướu hành hạ rất đau, cho nên ăn uống rất khó khăn, người gầy đét. Một hôm, tình cờ trông thấy cây mộc qua này, tôi rất kinh ngạc. Cây này còn nhỏ hơn cổ chân tôi, chỉ lớn hơn cổ tay tôi một chút, nó cũng không cao, có thể nói đây là một cây mộc qua vừa ốm, vừa nhỏ. Nhưng trên cây này lại có nhiều tầng trái, ít ra cũng ba mươi trái. Mỗi trái còn lớn hơn cục bướu của tôi, nhưng cây mộc qua ốm yếu này lại không hề vì có bao nhiêu trái vừa to, vừa nặng như thế mà ngã xuống, thậm chí nó còn đứng thẳng, không xiêu vẹo chút nào. Trông thấy cây ấy, tôi vô cùng cảm động vì sức sống kiên cường của nó. Tôi không khỏi rớm nước mắt mà kính cẩn nói với nó: “Người quả là thầy của ta, ta phải học tập người”. Quả là học theo cây mộc qua này cũng không phải là dễ, nhưng chúng ta há lại không được như cây mộc qua vừa ốm, vừa nhỏ này hay sao? Chúng ta há lại yếu đuối thế này sao? Có một nữ dược sĩ trẻ cũng bị chứng ung bướu, cô cảm thấy sắp phải chết, thật cô ta vẫn còn khỏe; nếu như không bảo với các vị thì các vị cũng không biết cô có bệnh gì nặng, dáng vẻ cũng tròn trĩnh sắc mặt cũng tươi tốt, nhưng vì tinh thần cô suy sụp, cho nên các vị thầy trong học viện của tôi đem cô đến tìm tôi, để chúng tôi khuyến khích nhau. Khi cô ấy đến tôi đưa cô đến xem cây mộc qua này, nói cho cô nghe về lời dạy của nó. Cô cảm động rưng rưng nước mắt mà cười. Chúng tôi cùng chắp tay kính lễ cô ấy, phát tâm học tập theo cây mộc qua kiên cường ấy. Cây mộc qua sinh ra trái, đã có thể sinh ra thì cũng có thể chịu đựng được. Thân chúng ta sanh ra ung bướu, đã có thể sanh ra ung bướu thì thân thể chúng ta cũng có thể chịu đựng được, xử lí ổn thỏa được. Đây là niềm tin cơ bản.
Thân thể chúng ta vốn ở trong bụng mẹ, chỉ là cái “trứng thụ tinh” nho nhỏ. Cái trứng nhỏ ấy phát triển thành nhiều bộ phận khác nhau. Mỗi bộ phận tự lớn lên, có các công năng riêng, có thể nói là không thể nghĩ bàn. Các vị không quản lý nó được, da thịt của các vị cũng đổi mới hàng ngày. Không có người nào chưa từng học nghành y mà có thể biết được mình có các bộ phận theo dạng nào. Tuy các vị không biết chúng, từ nhỏ chúng cũng giúp các vị làm việc thuận tiện, chúng có tiềm lực rất lớn. Trước đây tôi có nghe thầy Tiêu Vũ Dung giảng Phật pháp. Ông dạy chúng ta phải có lòng biết ơn đối với thân thể. Ông kể một câu chuyện rất thú vị. Ông bảo khi chúng ta dùng bữa, các chất béo bám vào chén bát, nếu không dùng chất tẩy thì sẽ không rửa sạch được chén bát ấy. Nhưng ruột của chúng ta đã ăn rất nhiều chất béo, chúng vẫn không cần chúng ta ăn chất tẩy rửa nào, chúng vẫn được tẩy rửa sạch. Chúng đều tự xử lý lấy cả, không cần chúng ta phải bảo chúng, can thiệp vào chúng. Các vị thử nghĩ xem, phải chăng chúng ta có một thân thể rất giỏi giang, rất tinh xảo, quả là nó có Phật tính; hơn nữa, bên trong lại có nhiều tiềm năng rất mạnh mẽ. Chúng ta nên khéo vận dụng nó, phát triển nó, vận dụng nó, không nên chỉ oán trách nó, làm hư hại nó. Khi không có bệnh, không chịu sống theo quy cũ, tức là làm hư hại nó; khi mang bệnh lại oán trách nó!
Các vị hãy nghĩ xem, từ nhỏ trái tim của chúng ta không từng ngưng đập. Chúng ta ngủ, nó không ngủ, vẫn đập liên tục, xưa nay chưa từng xin phép chúng ta nghỉ một ngày nào, cũng không hề nghỉ việc, quả là các bộ phận ấy cũng rất khổ nhọc. Hiện nay, tuyệt đối không mời được một công nhân nào trung thực như thế. Cho nên, khi các bộ phận trong cơ thể chúng ta bị nhiễm bệnh, bệnh mệt mỏi, chúng ta cần dùng một chút lòng biết ơn mà thông cảm nỗi khổ của chúng, cho chúng cơ hội để điều lý, khôi phục, không nên cứ oán trách nó, bài xích nó, giống như kẻ thù không đội trời chung mà phải cắt bỏ, không giết chết thì không được. Thế nhưng cục bướu thì lại ở nhằm chỗ không cắt được, nên lòng sinh oán hận, sợ hãi. Chúng ta hãy nghĩ xem giả như một ông chủ thường không thương giúp người làm công, khi người làm công có chút sai trái thì muốn giết đi. Các vị thử nghĩ, người chủ này có phần lỗi nào không? Người chủ như thế hẳn là sẽ bị người làm công bội phản.
Chúng ta thử nghĩ, một ngày trước khi ung bướu bị phát hiện, ung bướu vẫn nằm trong cơ thể chúng ta, lớn nhỏ không khác gì hôm sau bao nhiêu, phải chăng bạn cũng mang nó đi đây đó? Phải chăng bạn vẫn lamf việc, vẫn nói cười cùng mọi người? Tại sao bỗng nhiên có câu “tôi bị ung bướu” nhập vào trong óc bạn; sau khi có ý nghĩ ấy thì thế giới trở nên mịt mù, mình thì không vui nổi? Chúng ta biết rằng, mỗi người hễ sinh ra thì nhất định phải có ngày sinh mạng kết thúc. Đều này đâu phải sau khi có ung bướu mới biết đến! Giả như vì sinh mạng phải kết thúc mà lo buồn, thế từ hôm mới sinh, hãy lo buồn cho xong, cũng không phải là chờ tới khi bị tuyên bố là đã mắc bệnh ung bướu thì mới lo buồn.
Thật ra tế bào ung bướu vốn là tế bào tốt trong cơ thể chúng ta như người dân tốt. Vì phải bất đắc dĩ bị áp bức, thương tổn, kích thích mới thay đổi, cũng vì các nhân duyên không tốt, các thông tin không tốt, khiến tế bào chúng ta thay đổi, biến thành tế bào hư hại, sai lầm chịu sự quản chế của cơ thể chúng ta, vì thân thể chúng ta giống như một quốc gia, xã hội, có hệ thống cảnh sát. Đối với tế bào sai lầm, bạch huyết cầu của chúng ta giống như hệ thống cảnh sát của thân thể, chúng có thể phát hiện các tế bào ấy, quản chế chúng. Nếu thể lực chúng ta bị suy yếu, sinh hoạt không điều độ, thì công năng của hệ thống cảnh sát (hệ thống miễn dịch) này biến thành suy yếu, khiến tế bào sai lầm không nhận được sự cải tạo tốt. Chúng không biết tự sửa đổi cho tốt, cho nên các tế bào sai lầm tiếp theo. Điều này cứ tiếp tục như thế, biến thành một đoàn thể tự động phát triển, chính là “ung bướu” vậy. Điều này cũng giống như một đứa bé tốt, gặp phải nhân duyên không tốt, tâm tính biến đổi, bỏ bê học hành, đi tổ chức băng đảng, chiếm giữ các địa bàn làm chuyện bậy bạ. Đứa bé trở thành hư hỏng, đi tổ chức băng đảng, củng có thể trở thành tốt, chỉ cần chúng ta hiểu rõ và tiêu trừ các nguyên nhân gây xấu. Đương nhiên cái người chủ trương phải giết chết những đứa trẻ loại này thì mới giải quyết được, nhưng giết như thế thì sau này có thể giải quyết được chăng? Nếu cả phong khí và điều kiện nhân duyên của xã hội không thay đổi, thì sau này những đứa trẻ tốt khác cũng có thể trở thành xấu, thì phải giết đến chừng nào chứ? Chúng ta cần phải hiểu rằng, đứa trẻ trở thành xấu là có nguyên nhân, chúng ta cần phải hiểu rõ nguyên nhân mà tiêu trừnguyên nhân. Đứa trẻ có thể trở nên xấu nhưng cũng có thể cảm hóa nó, khiến nó trở nên tốt. Tế bào của chúng ta cũng vậy, không phải khai đao giết chúng là xong.
Tôi từng quen biết một số người xuất thân từ các băng đảng, lại còn cùng họ giao tiếp rất tốt đẹp. Tôi cũng rất tôn kính họ. Họ hoàn toàn chẳng có gì xấu, thậm chí còn tốt hơn nhiều người khác, thiện tâm cũng rất nhạy bén. Họ chỉ vì nhất thời có nhân duyên không tốt, trong lòng có điều buồn khổ, nhất thời không thể giải quyết được và phải dấn bước sai lầm mà thôi vậy. Nếu có người thật tình thông cảm hoàn cảnh và nỗi khổ của họ, thì chỉ trong phút chốc họ cũng có thể trở thành tốt. Sau khi Phật tính thiện lương của họ được khai phát thì thậm chí còn vượt quá nhiều người trong chúng ta. Chúng ta nên biết rằng nhân duyên thì có thể thay đổi, tế bào cũng như thế, tế bào cũng có thể biến thành xấu, cũng có thể biến thành tốt.
Y học đã thực nghiệm việc bồi dưỡng tế bào ung bướu. Khi điều kiện khống chế được tốt, thì rõ ràng có thể khiến các tế bào ung bướu chuyển hóa mà trở thành tế bào lành lặn. Chúng ta nên bình tĩnh mà xét đến nguyên nhân khiến cho các tế bào kia trở thành hư hại, để trừ khử các nguyên nhân ấy, cải biến nhân duyên thì các tế bào có thể trở thành tốt lành, hoặc ít ra không còn sanh sôi bậy bạ nữa.
Chúng ta thử nghĩ xem có phải tế bào ung bướu của chúng talớn bằng một con chó con hay một con mèo con không? Mèo con, chó con là một thể sinh mạng khác, một đám tế bào khác. Nếu một con mèo con hay một con chó con bám vào thân thể chúng ta, thì cũng chưa hẳn nó làm hại chúng ta, huống chi là đám tế bào của chính thân thể chúng ta, lại không thể lớn bằng con mèo con hay con chó con, thì chúng ta có đáng sợ hãi không? Cho dù rắn độc cắn phải cũng chắc gì đã phải chết, thì tế bào ung bướu cũng không hẳn gây hại gì cho chúng ta.
Trong chúng tôi có một vị sư phụ rất thành khẩn. Một hôm bà đi xe gắn máy trên đường núi, vì không thấy rõ tưởng trên đường có một sợi dây nên cán qua phần cuối, khi cán qua mới biết đó là một con rắn, lại là rắn hổ mang. Vị sư phụ không vì sợ mà tăng tốc độ, trái lại bà dừng xe lại, rất từ bi mà xem con vật có bị thương hay không. Con rắn hổ mang bị cán, dựng thân lên có vẻ giận dữ, phóng về phía vị sư phụ. Bấy giờ bà không biết làm sao, bèn hướng về con rắn mà chí thành khẩn thiết, sám hối như đang bái Phật, sau đó lại niệm Phật cho con rắn. Con rắn thấy thế, có vẻ hiểu được tâm ý của bà, bèn ngoan ngoãn mọp xuống và từ từ bỏ đi. Chúng ta thử nghĩ xem: loài rắn độc mà còn cảm thọ được tâm niệm từ bi, cải biến thái độ và hành vi của nó, huống chi những tế bào sanh sản bậy bạ trong người chúng ta. Sự thật mấy tế bào ung bướu nho nhỏ có từ trường rất nhỏ, năng lượng cũng rất nhỏ. Thân thể chúng ta to lớn như thế này, thì tâm niệm từ trường, năng lượng của chúng ta mới rất lớn, về mặt lý luận, chúng ta phải cải biến được những tế bào nho nhỏ kia. Huống chi, Phật tính vốn đầy đủ thì quảng đại vô biên, Phật lực thì không thể nghĩ bàn.Nên biết rằng, bất kể chúng ta bị tuyên bố là mắc bệnh ung bướu nhiều hay ít, thì thật ra các tế bào ấy cũng không nhiều bằng các tế bào lành lặn của chúng ta. Thân thể chúng ta có bao nhiêu tế bào lành lặn? Khoảng chừng sáu mươi triệu tế bào lành lặn. Bao nhiêu mới kể là một triệu? Phải một trăm vạn mới là một triệu, cho nên chúng ta biết rằng sáu mươi triệu là một số lượng rất lớn, làm sao mà vì một đám tế bào do nhân duyên không tốt bị biến hoại, lại khiến cho sáu mươi triệu tế bào lành lặn của chúng ta bị hư hoại hết được chứ!? Về mặt lý luận thì tuyệt đối không thể như thế được! Trừ khi các tế bào lành lặn vốn có đều quá sợ hãi mà không thể gượng lên được.
Chúng ta có thể dùng ví dụ để hiểu, ví như: Làng nọ có một số rất đông tráng đinh. Một hôm có một tên cướp đến, toàn bộ tráng đinh của làng đều bị giết chết. Bà nghĩ xem như thế có hợp lý chăng? Không lẽ số tráng đinh ấy đều ngủ quên? Hoặc quá khiếp sợ mà mất hết sức lực chăng? Nên biết rằng tráng đinh là người, tên cướp cũng chẳng qua là người, vì sao các tráng đinh lại phải sợ? Tên cướp không sợ tráng đinh, tráng đinh lại sợ tên cướp, có lý nào như thế ư! Có một đứa trẻ mới ba tuổi, người ta hỏi nó: “nếu có kẻ xấu bắt con đem đi, và sẽ giết con chết thì con phải làm sao?” Đứa trẻ ấy nghe xong liền dõng dạc đáp: “Thì niệm A Di Đà Phật cho người ấy!”, đứa bé cũng biết nên dùng sức mạnh lớn vốn có của Phật tính. Tên cướp cũng có phật tính, cũng có thể phát tâm từ bi, có thể cảm hóa, làm tên cướp là “một niệm tâm” được quyết định, cũng như “buông đao lập tức thành phật” cũng là một niệm tâm quyết định. Chúng ta có thể liên hợp sáu mươi triệu tế bào lành lặn của toàn thân, dùng cái lực lượng vĩ đại này để cảm hóa, để cải biến các tế bào hư hoại, ít ra cũng có thể bị ảnh hưởng để có cuộc sống tốt đẹp.
Tâm niệm và quán niệm quyết định vận mạng và hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta có thể quán sát mình, giả như chúng ta gặp phải sự việc không như ý hoặc gây sợ hãi, thì phải chăng tim chúng ta liền đập nhanh hơn, thậm chí ruột đau như có ai rứt bụng, tay chân liền lạnh cóng, đổ mồ hôi lạnh, thậm chí còn run lẩy bẩy, chúng ta có nghĩ rằng “ai bảo trái tim ta đập dồn dập?” “ai bảo tay chân ta run lập cập?”.
Trước đấy khi chúng tôi ở Viện Y Học thi các môn “giải phẫu học”, mọi người đều rất khẩn trương, vì phải một mặt giải đáp đề thi về thi thể, một mặt lại giải đáp về giải phẫu bào thai. Có một vị đồng học bức xúc nói: “lạ thật, hai chân cứ run lẩy bẩy, có dây thần kinh nào khống chế đây, sao mà cứ run lập cập không dừng được?”, không biết quý vị có nhận thấy không, thông thường chỉ một cái tin truyền đến thì khiến tâm niệm chúng ta biến đổi, sáu mươi triệu tế bào của toàn thân cũng đều biến đổi? Môi cũng từ hồng nhuận trước đó mà biến thành thâm tím, lông trên toàn thân cũng từng sợi, từng sợi dựng lên. Phải chăng chúng ta cũng thường dùng những tâm niệm mang áp lực phiền não để trấn áp sáu mươi triệu tế bào lành lặn của chúng ta? Trách gì cái số tế bào làm phản! Nếu chúng ta biết cái sinh mạng hữu hạn này rồi sẽ đến hồi kết thúc, giờ đây thật đáng quý, thì chúng ta phải chăng nên sống một cách thong dong tự tại, hoan hỉ từ bi? Phải chăng là phải cứ gây cho mình áp lực, khiến cho mình thống khổ cho đến chết?
Chúng ta thử nghĩ xem, nếu có người chủ chiếu cố, thông cảm đối với công nhân, thì công nhân sẽ vui vẻ làm việc, vì chủ mà phục vụ. Nếu người chủ quá hà khắc, ngày nào cũg nóng giận trách mắng công nhân, thì phải chăng công nhân lại càng không muốn làm tốt việc, thậm chí còn cố ý quậy phá, chống đối, khiến người chủ phải điêu đứng. Tình hình tế bào toàn thân chúng ta cũng như thế, chúng cũng như những công nhân của chúng ta, phải chăng chúng ta là người chủ, thì phải dùng tâm niệm tốt lành, từ bi, khiến cho mỗi tế bào đều vui vẻ trở nên tốt, đạt được lợi ích; tạo cho chúng nhiều cơ hội tốt, đẹp, khỏe mạnh, hấp thụ đầy đủ dũng khí trong máu huyết. Chúng ta hãy nghĩ xem, trong khi chúng ta cảm nhận cái tâm niệm hoan hỉ và thiện lương, thì phải chăng toàn thân chúng ta đều đạt sảng khoái? Chúng ta niệm Phật, niệm kinh chính là để đem cái tâm niệm chúng ta đặt vào cái trạng thái năng lượng cao nhất, hoan hỉ, thanh tịnh nhất, từ bi nhất. Như thế thì có thể mang đến cho mọi tế bào cái niềm an ủi và khích lệ tốt đẹp. “Niệm Phật” chính là con đường quý báu, thiện lành nhất của tâm niệm chúng ta.
Niệm Phật là sự xoa bóp tế bào tinh vi nhất, là sự tự trị liệu bằng sóng âm thanh kì diệu nhất, là khả năng trị liệu tự nhiên để khai phát Phật tánh.
Chúng ta hoàn toàn niệm Phật thì không có sự thành tựu đặc thù nào, vì chúng ta hiểu được rất ít, về mặt thực hành cũng không có ai hết lòng hết sức, nhưng chúng ta có một kinh nghiệm nho nhỏ, đó là khi niệm Phật thì trong miệng tiết ra nước bọt rất ngọt, cho nên suốt ngày dù không uống nước cũng không cảm thấy khát, chính là cứ mở miệng niệm Phật, niệm cả ngày cũng không bị khan cổ, có khi lại cảm thấy lục phủ ngũ tạng đều ngọt ngào, giống như mọi tế bào đều rất hoan hỉ. Trên thế giới không hề có người nào quy dịnh chúng ta niệm Phật, lại càng không có người nào bắt buộc chúng ta phải niệm bao nhiên đức Phật thì mới được. Nhưng chúng ta cảm thấy, niệm Phật quả là thoải mái, khỏe khoắn nhất, vượt hơn hẳn bất cứ sự hưởng thụ nào, cho nên đương nhiên chúng ta chọn niệm Phật. Làn sóng tâm niệm của sự niệm Phật trong tâm và làn sóng âm thanh phát ra từ tiếng niệm Phật tạo cho toàn thân chúng ta những chấn động rất vi diệu, tựa như là xoa bóp cho các tế bào của chúng ta. Loại xoa bóp này rất êm ái nhẹ nhàng, giúp cho chúng ta trong lúc sảng khoái có thể phát huy công năng tốt nhất. Loại rung động vô cùng tinh tế vi diệu này chỉ có thể được cảm nhận rõ ràng khi thân tâm của chúng ta đều thanh thản. Giới y học và giới âm nhạc đang từng hợp sức nghiên cứu, dùng âm nhạc để trị liệu. Các âm nhạc không giống nhau thì có hiệu quả trị liệu không giống nhau, đều này đã có người làm thực nghiệm để chứng minh. Khi chúng ta mở rộng tâm, toàn thân rất thanh thản và niệm Phật theo vân luật, thì chắc chắn sẽ có hiệu quả trị liệu hơn so với việc dùng các thứ âm nhạc. Vì ngày nay trong danh từ Phật có hàm chứa “cái tâm niệm vĩ đại rằng đức Phật sẽ từ bi cứu độ chúng sinh” trong đầu, đồng thời cũng có trí tuệ rất thâm sâu trong đầu. Danh từ Phật đồng thời cũng khải phát chúng ta, đó chính là cái Phật tính vốn có của chúng ta, sáng ngời và đầy năng lực công đức. Năng lực công đức đương nhiên bao quát năng lực trị bệnh: năng lực trị liệu tâm bệnh, thân bệnh. Chúng ta niệm Phật thì có thể làm tỏ lộ, sức mạnh của Phật tính của chính mình để giải quyết rất nhiều vấn đề. Vì Đức Phật là người đã khải phát Phật tính của ngài một cách thành công viên mãn, cho nên trong khi chúng ta niệm Phật, ngài cũng sẽ y theo thệ nguyện của ngài mà dẫn đạo giúp đỡ chúng ta cùng tiến đến cảnh giới vĩnh viễn, an lạc, vô ưu.
Vọng tưởng chấp trước là phiền não. Tống khứ phiền não đi thì được thanh thản.
“An lạc vô tư thì gọi là Phật”. Trước kia, khi chúng tôi thảo luận câu này ở viện y học, một vị đồng học nói: “Có gì lạ đâu, tôi cũng hiểu, bây giờ tôi đang an lạc vô ưu, bây giờ tôi là Phật vậy!” mọi người đều cười lên. Riêng có một vị ở lớp trên vặn hỏi một câu: “Ngày mai giáo sư đuổi bạn, bạn gái bỏ bạn, thử xem bạn có an lạc vô ưu không? Bảo đảm bạn sẽ oán trời trách người, dứt khoát là sẽ không an lạc vô ưu!” Mọi người đều cười, vị đồng học kia cũng cười mà nói: “nói là nói thế, Phật mà tôi nói là giả tạm thôi! Đó là Phật bong bóng, giống như bong bóng xà phòng, chỗ nào, lúc nào cũng có thể vỡ”. Thực ra Đức Phật vốn đã bảo chúng ta: Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, đều có thể giác ngộ mà an lạc vô ưu, nhưng lòng chúng ta đầy vọng tưởng chấp trước, ngày nào cũng phiền não, khổ đau, bị tư tưởng rối rắm dẫn dắt, cho nên không thể an lạc, vô ưu, sức mạnh và tiềm năng của Phật tính vốn có không thể phát huy được. Thực ra chúng ta có thể chọn lựa: xem vọng tưởng chấp trước là thứ rác rưởi phải bỏ đi để hưởng thụ bổn tánh thanh tịnh tự tại. Như thế thì không có ai ngăn trở, nhưng chúng ta lại cứ mù quáng mà hoan hỉ “chiếm hữu”, đó chính là chiếm lấy khổ đau, dính mắc vào khổ đau không gỡ mà cũng can tâm.
Một hôm tôi nói với người bạn: “chị cho rằng thải phân ra thì được hay mất?” Chị ấy nghe xong, cười ha hả mà nói: “tôi đã sống bốn mươi năm, giải đại tiện bốn mươi năm mà chưa từng nghĩ đến vấn đề này”. Chị suy nghĩ một hồi lại tiếp: “Àø! Nên nói: cũng có được mà cũng có mất”. Tôi bèn hỏi: “Chị được cái gì? Mất cái gì?” Chị ấy đáp: “Giản đơn thôi, mất là mất phân hôi hám, được là được nhẹ nhàng, thoải mái”. Tôi lại hỏi chị: “Phải chăng phân được xem là của chị, phải chăng được xem là do chị sở hữu?” Chị ấy lại cười mà nói: “Câu hỏi này thật tức cười!”. Tôi nói: “Phân không phải của chị, nó được chế tạo trong bụng chị, là do ruột của chị gia công chế tạo. Nếu bảo là của chị thì nó không thể ở mãi trong bụng, cũng chẳng ai muốn giữ nó, không tống nó ra thì không được. Hãy nghĩ xem đại tiện là thế nào chứ? Đâu dễ bôn ba để kiếm tiền, cực khổ mua thức ăn, cực khổ nấu nướng để ăn, ăn xong đâu dễ tiêu hóa thành quả, lại không thể giữ nó lại, không tống ra thì không được, không tống ra mà để trong bụng thì sình bụng, rất đau, rất khổ. Phải tống ra thì mới thoải mái.”
Trong qúa trình tu học Phật pháp, tôi có thể kể đến một Phật duyên nho nhỏ mà thôi, vốn không nói đến tu hành thế nào, mà chỉ là một kinh nghiệm nho nhỏ khiến tôi nhận thấy sự tu hành giống như giải đại tiện, tống khứ vứt bỏ những phiền não, rác rưởi, quái ngại để được nhẹ nhàng thư thái. Nếu giản bớt đi cái tinh thần suy nghĩ bậy bạ thì thể lực được gia tăng tốt đẹp. Nếu phân trong bụng chúng ta không được thải ra ngoài thì dù có uống thuốc gì cũng không thư thái được. Nếu cái phiền não, rác rưởi quái ngại về mặt tâm lý mà không thật sự loại trừ, thì dù niệm Phật cũng không thể được khỏe mạnh, thư thái.
Tâm khéo an trụ nơi tối thượngÝ thường thanh tịnh thật an vui
(Hoa Nghiêm Kinh)
VIỆC ĂN UỐNG - “TÂM NIỆM” VÀ “HIỆU QUẢ TRỊ LIỆU”
Nhân có nhiều người nêu các câu hỏi có liên quan đến “vấn đề ăn uống”, do đó tưởng cũng nên thảo luận thêm.
Rất nhiều bệnh nhân và gia đình đặt trong tâm sinh hoạt, tư tưởng vào việc tìm kiếm loại thuốc đặc hiệu (thuốc bí truyền) nào đó, hay loại thức ăn đặc hiệu nào đó, thậm chí họ chưa biết rõ nguyên lý, phương pháp mà vẫn cứ mạo hiểm nhịn ăn lâu ngày; hoặc cứ đôn đáo cầu tìm này nọ chỉ khổ khiến tâm bị ràng buộc, tự tạo cho mình áp lực rất lớn, không cách nào đạt đến sự điều hóa, thanh thản, an định chân chính của thân tâm, lại phương hại cho năng lực miễn dịch.
Chúng ta có thể hiểu: cùng một thức ăn nhưng người ăn có tâm tình khác nhau, thì cái mùi vị cảm thọ và thành phần dinh dưỡng đạt được lại khác nhau xa. Chúng ta hãy tự quan sát cùng một mâm thức ăn, nhưng trạng thái cảm nhận và hấp thụ “khi no” và “khi đói” rõ ràng là khác nhau. Khi thi đỗ và khi thi rớt, thì cảm nhận bữa cơm không giống nhau, lại nữa, khi bị trách mắng và khi được khen ngợi, tình trạng tiêu hóa tất có khác nhau. Sở dĩ như thế là vì “tâm niệm” có thể sản sinh các sóng điện ảnh hưởng đến vật chất; tâm tình không giống nhau thì lượng chất men tiêu hóa sản sinh ra không giống nhau. Ví dụ: Khi ăn uống mà người ăn chán ghét thức ăn hay có điều bất mãn đau buồn, thì “nước bọt” sẽ biến chất, giảm lượng (kháng thể cũng ít đi, chất men tiêu hóa cũng giảm nhiều); hơn nữa, sự co bóp của ruột cũng không tốt, cho nên dù có ăn thức ăn tốt, cũng không hấp thụ được, cũng không được lợi ích nhiều.
Trước đây đã nói, “tâm niệm an vui” thì có thể sản sinh ra chất tăng cường miễn dịch; hơn nữa, thân tâm được thư thái thì huyết dịch mới thông suốt, dưỡng khí mới đầy đủ, nước bọt (chứa kháng thể, chất men chua) mới dồi dào. Tâm an định và có niềm tin thì nước dịch bên trong mới có thể điều hòa, và mới có thể sản sinh chất men dồi dào để phân giải và hấp thụ thức ăn.
Người nào trong khi ăn uống, do tâm hoan hỉ mà cảm thấy ngon miệng thì chất dịch bên trong hiển nhiên rất điều hòa, chất men cũng rất đầy đủ, cho nên cùng ăn một thức ăn mà so với người khác thì sự dinh dưỡng, ích lợi mà người ấy nhận được, nhất định cao hơn (theo sự nghiên cứu của Nhật Bản, thì hiệu quả trị liệu đối với loại người như thế là tốt nhất, chỉ cần ăn cơm với gạo lứt, ngũ cốc, nhai kỹ, nuốt chậm, hòa trộn với nước bọt, thì bệnh cũng có thể lành!) (Nguyên lý này, ba ngàn năm trước Đức Phật cũng đã biết, dạy chúng ta ăn cơm thì nên phát nguyện lành, khéo dụng tâm).
Cho nên cái tâm niệm khi ăn uống (cảm ân, tán thán, phát nguyện lành, tràn đầy niềm tin mà hoan hỉ niệm Phật) thì quan trọng và lợi ích hơn “Nội dung đồ ăn”. Đức Phật dạy chúng ta: “Khi ăn cơm thì nên nguyện chúng sanh xem niềm vui thiền là thức ăn, niềm hoan hỉ đối với Phật pháp được sung mãn”. Đó là dạy chúng ta khéo dụng “tâm” để điều thân tu công đức, phải dụng tâm phát nguyện lành, chúc phước từng cá nhân, từng tế bào đều được sung mãn niềm vui tối cao của thiền định và niềm vui đến từ chân lý; và ăn với lòng biết ơn, với chánh niệm. Trước đồ ăn không khởi tâm niệm tham, sân thì mới gọi là “tự chế tạo chất độc”. “Tự chế tạo chất độc” thì chỉ trong phút chốc tạo ra một lượng rất lớn chất độc thâm nhập vào máu, so với chất độc “từ ngoài đến” thì tai hại hơn nhiều. Nếu ăn các thứ tinh sạch mà lòng còn mang buồn giận không vui thì đó vẫn mãi là “độc không tống ra được”.
Gần đây có nhiều người chọn thức ăn, đều nghe theo lời đồn đãi, “biết hai hiểu một” đều do vào tưởng tượng của mình, hoặc chưa hiểu rõ hết mà cứ suy đoán nguyên lý phối hợp chữa trị “thân, tâm, linh” rồi “tùy tiện mà chọn ý nghĩa”, cứ chọn bừa một phương pháp ăn uống, tự mình sinh ra lắm bệnh khốn đốn. Thậm chí có nhiều người có tâm lý lo sợ việc ăn uống, cả đến món ăn quen thuộc cũng chê bai, ăn món gì cũng lo sợ, sợ rằng đây cũng có độc, kia cũng có độc, suốt ngày nghi thần, nghi quỷ; ngỡ rằng ăn thứ này không biết có bổ lắm không hay khiến cho ung bướu lớn ra? Aên thứ kia có thể là quá hàn, mất khí lực chăng? Khi ăn cứ nơm nớp lo sợ, hoàn toàn mất đi lòng cảm ân, lòng hoan hỉ, nỗ lực, mà không biết rằng những tâm niệm hắc ám như “sợ sệt”, “nghi ngờ”, “bất mãn” trong lòng tạo ra độc tố, hơn nữa lại gây hao tổn năng lượng. Aên uống vốn là để phát huy ánh sáng của sinh mạng, khiến chúng ta có sức mạnh triển khai lương tri, lương năng, tu hành Phật đạo, thế mà một niệm sai lầm khiến cái sinh mạng rất tốt đẹp phải vì ăn uống mà sợ hãi ưu sầu. Có nhiều người suốt ngày vì thức ăn uống mà phải bận rộn mệt mỏi; lại có nhiều người lâu ngày không ăn, bỗng dưng chịu không nổi lại ăn rất nhiều; lại có người nghe nói ăn thứ gì đó tốt, rồi theo lời đồn mà ăn bừa bãi. Như đoàn thể nọ từng bị chê cười: Họ nghe nói rượu tiểu mạch thảo rất tốt, bèn không cần hỏi lượng dùng bao nhiêu, và điều kiện dùng thế nào, cả tập thể mỗi người uống một ly thật lớn (tưởng lầm rằng càng uống nhiều càng tốt), kết quả: “toàn quân tiêu tan” (đây là hình dung từ để đùa ý nói toàn thể đều muốn ói, mệt lã, không đứng nổi, đầu choáng váng). Cho nên phải biết rằng phương pháp trị liệu bằng ăn uống cũng cần “biết đây biết đó” (biết tình trạng bệnh hoạn của mình, biết thuốc uống đúng dung lượng và cách thức); nếu không biết mà thực hành hồ đồ, thì khó tránh khỏi sự lệch lạc, không đạt được lợi ích gì. Lại nữa, phải hiểu rõ toàn bộ sự liên hệ giữa “thân, tâm, linh” thì mới không phụ ý chỉ tốt đẹp của người truyền bá nhằm thương giúp chúng sanh. Dứt khoát đừng “tu mù, luyện mờ”, không biết rõ phương pháp phối hợp chính xác và điều kiện dùng thích đáng, mà cứ khăng khăng chấp vào thức ăn. Phải biết đây biết đó thì mới sáng suốt.
Riêng đối với các bạn thích “kiêng ăn”, tôi xin trân trọng giới thiệu việc nhịn ăn đúng theo pháp Phật hợp lý và an toàn nhất. Phật chế “bát quan trai giới”, tức là trong một ngày một đêm (24 giờ) thọ pháp “tám giới” và “trai giới”: “Trai” nghĩa là không ăn quá chính ngọ, cho đến mặt trời mọc ngày hôm sau thì không ăn (tương đương nhịn ăn 18 giờ, có thể uống nước). Nhịn ăn có ý nghĩa sâu xa, về mặt y học, nhịn ăn thời hạn ngắn là một việc rất hợp lý, là một phương pháp nhịn ăn vừa có lợi cho mình vừa có lợi cho kẻ khác (còn có chuyện đề thảo luận về nguyên lý y học của sự việc này).
Do tám giới điều chỉnh nội tâm được an định, từ bi, khiến cho tâm niệm chỉnh tề, thanh tịnh (không độc hại) chữ “Trai' của Hán ngữ có nguyên ý là “chỉnh tề, thanh tịnh”. Bát quan trai giới của Đức Phật khiến thân tâm được chỉnh tề, thanh tịnh, phát huy công năng tốt đẹp nhất.
Bát giới (tam giới) là:
1) Không sát sanh, 2) Không trộm cắp, 3) Không dâm dục, 4) Không nói bậy, 5) Không uống rượu, 6) Không dùng nước hoa, 7) Không ca múa xướng hát, cũng không đi xem, nghe các thứ ấy, 8) Không ngồi nằm giường cao rộng.
Nếu phát nguyện Đại Bồ đề tâm, thọ trì một ngày một đêm thì công đức vô lượng không thể nghĩ bàn.
Người ưa thích nhịn ăn có thể chọn cho mình ngày nghỉ thuận lợi để thọ trì bát quan trai giới. Đức Phật là bậc Đại Y Vương, phương pháp trai giới mà ngài dạy cũng là phương pháp nhịn ăn thời hạn ngắn, trung đạo nhất, hữu ích nhất, khiến thân tâm thanh tịnh an vui.Lạy Phật: tiêu trừ nghiệp chướng khai phát tiềm năng.
Tôi còn có một chút kinh nghiệm tưởng cũng có thể nêu lên để quí vị tham khảo, cũng có lẽ trong lúc bệnh có sự đột phá và giúp đỡ lớn lao. Khi tôi bị bệnh không lâu, sư phụ Sám Công có dạy tôi nên lạy Phật nhiều để tiêu trừ nghiệp chướng: Nên nói sơ qua về hai chữ “nghiệp chướng”. “Nghiệp” là hành vi, “Chướng” là chướng ngại; cũng là do các thứ hành vi trong quá khứ tích lũy mà sinh ra các chướng ngại, bất kể là chướng ngại về thân thể hay về tâm lý. Cái gọi là các thứ hành vi trong quá khứ thì bao gồm: ý niệm, suy nghĩ trong tâm chúng ta, ngôn ngữ do miệng nói ra và các tâm thế của thân thể chúng ta. Vì sao bảo lạy Phật, niệm Phật thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Vì khi niệm Phật thì tâm niệm phải được điều chỉnh cho “cung kính” và “từ bi thanh tịnh”; động tác của thân thể thì nhu nhuyễn khiêm hòa cung kính, tiêu trừ những tư thế không tốt trong sinh hoạt hàng ngày, vốn tạo ra áp bức, chướng ngại. Ba phương diện thân, khẩu, ý đều thanh tịnh cung kính thì có thể tiêu trừ các chướng ngại do các hành vi bất hợp lý của thân tâmtạo ra. Đây cũng là thuận tiện cho việc huấn luyện “an định trong lúc động”. Điều này cũng như lấy nước từ từ và liên tục mà rửa sạch thì có thể an ổn, thanh tịnh, có thể khai phát tiềm năng, đồng thời có thể làm linh hoạt cơ năng của các bộ phận thân thể.
Trong lúc tôi đang ốm yếu vì ung bướu rất lớn, động tác niệm Phật cũng “năm vóc sát đất”; người phải quỳ thấp, đầu phải chạm đất (vì hai tay, hai đầu gối và đầu), năm bộ vị đều chạm trên đất, nên gọi là “Ngũ thể đầu địa”. Mới đầu, nếu không rõ phương pháp thì khi làm động tác này cục ung bướu và ruột chèn nhau, sẽ cảm thấy như nghẹt thở; khi đứng lên lại cảm thấy trời đất tối sầm, mỗi khi lạy một lạy thì phải mất nhiều sức. Có điều tôi vốn có lòng tôn kính và tin tưởng thâm sâu với Đức Phật, cho nên trong lòng cảm thấy dù lạy Phật đến chếùt cũng còn tốt hơn là không lạy, cũng còn tốt hơn là nằm trên giường mà chết, thế là tôi vẫn tiếp tục cố gắng lạy.
Mới đầu, mỗi ngày lạy một trăm lạy thì phải cố gắng hết sức mới lạy đủ, cảm thấy thân thể quá nặng nề, vừa cử động nhẹ là đã thấy khó thở, trời đất tối tăm. Sau đó có một hôm tôi biết được chị họ Vương lớp trên bị cưa một chân, hằng ngày đều dùng cái chân còn lại, đứng mà niệm Phật, lạy Phật; mỗi ngày chị có thể lạy một trăm lẻ tám lạy, chị lại còn làm rất nhiều việc nhà. Tôi rất hổ thẹn mà nghĩ: chị ấy dùng có một chân khó khăn như thế mà còn có thể lạy một trăm lẻ tám lạy, hai chân của tôi còn lành mạnh, ít ra cũng phải lạy được ba trăm lạy. Thật thế, quý vị chỉ cần tự mình thử xem, hẳn có thể biết lạy với một chân thì khó khăn gấp mười lần lạy với hai chân! Công việc chị khó khăn gấp mười lần so với công việc của tôi mà chị đều có cách làm được, cho nên tôi phải nỗ lực nhiều hơn, cho nên tôi phải phát một lời nguyện: Phải lạy mười vạn lạy để cảm tạ ơn Phật, ơn cha mẹ, sư trưởng và ơn của hết thảy chúng sanh, và cũng để hồi hướng cho các chúng sanh đau khổ, các bằng hữu bị ung bướu, khiến tất cả mọi người đều có thể lìa khổ, được vui.
Trên đời tuyệt không ai buộc tôi phải lạy Phật, trái lại mọi người đều khuyên tôi không nên để cho quá mệt mỏi. Đây là do tôi tự phát nguyện, đã phát nguyện thì phải thực hiện, dù khổ cũng phải cố cho được. Nhưng thật kỳ lạ, đây hoàn toàn không phải khổ, mệt như mọi người nghĩ; trái lại hình như càng lúc, càng không mệt. Mỗi ngày lạy ba trăm lạy, tôi phải chia làm nhiều lần mới lạy xong, về sau không biết tại sao càng lạy càng thấy nhẹ nhàng. Tôi cũng không nghĩ cần phải đẩy nhanh tốc độ, chỉ là do trọng lượng thân thể của tôi giảm bớt rất nhiều. Tôi có cảm giác như có vòi nước rưới vào chỗ khô, làm sảng khoái, chứ không như khi mới dội nước, bùn đất chưa trôi đi dược. Một hôm, bỗng nhiên tôi lạy một lần được ba trăm lạy mà không còn biết mệt, không khó thở, giống như vừa mới lạy cái lạy đầu tiên.
Trước đây tôi nghe nói có một vị pháp sư mỗi buổi sáng đều lạy ba ngàn lạy; hồi đó tôi không tin. Người ta bảo Ngài lạy xong ba ngàn lạy rất nhanh, tôi quả thực khó tin, vì chính tôi lạy rất chậm chạp nặng nề, có cố gắng cho nhanh cũng không có cách chi lạy xong ba ngàn lạy. Ngoài ra cũng có người khác thông tin như tôi, bèn đến tận nơi để xem vị Pháp sư lạy Phật và đếm giúp ngài, thì thấy ngài lạy bộ không hối hả, bộ dạng rất thong dong, chứ không có vẻ cố tăng tốc độ, chỉ rất nhẹ nhàng, động tác uyển chuyển giống như không hề có trọng lượng. Người ấy đếm đủ ba ngàn lạy, không thiếu lạy nào, sau đó tôi mới tin rằng “khi vọng niệm của người ta càng giảm, càng ít thì sự ghánh chịu của thân thể càng ít, càng nhẹ nhàng, hoạt động càng không bị chướng ngại, do đó mới có thể nhanh như thế”. Trong cửa Phật, có rất nhiều vị pháp sư đã âm thầm dụng công như thế, xem ra tôi thật lười biếng.
Việc lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học thâm sâu.
Trước kia sư phụ Sám Công nói: “Lạy Phật là sự vận động tốt nhất, còn tốt hơn cả khí công và thái cực quyền”. Tôi nghe thế nhưng chưa hiểu, về sau, khi lạy Phật tôi mới phát hiện rất nhiều điểm tốt lành trong việc lạy Phật, đông thời cũng thấy mối liên hệ tương ứng của việc lạy Phật và nguyên lý y học, tôi mới dần dần hiểu ra câu nói ấy. Lạy Phật khiến thân, khẩu, ý của chúng ta vận động một cách thanh tịnh, có thể tương ứng với Đức Phật thì đương nhiên cũng có thể trị bệnh. Về sự liên hệ giữa việc lạy Phật và y học, chúng ta có chuyên đề riêng để thảo luận, ở đây chỉ đơn giản nói vài câu thôi.
Tinh thần của con người hiện đại rất căng thẳng, bị nhiều áp lực, cơ bắp của toàn thân không nhạy cảm là do bị buộc chặt, hơn nữa vì thiếu vận động, toàn đốt xương sống cứng đơ rất khó uốn cong. Về mặt y học, chỗ nối giữa hai đốt xương sống là chỗ đi qua của các dây thần kinh và mạch máu. Các thần kinh từ tủy sống đi ra đảm trách việc quản lý các nội tạng; nếu các đốt xương sống nằm sát nhau quá thì có thể ép vào mạch máu và các dây thần kinh. Mạch máu và thần kinh của đốt nào bị chèn ép thì đốt ấy sẽ có vấn đề. Công năng nội tạng mà đốt xương ấy phụ trách sẽ dần dần bị hư hại. Do vì tư thế không đúng, cơ bắp bị chèn ép khiến cho xương sống cũng bị ép, máu không lưu thông, thần kinh cũng bị ảnh hưởng, cho nên không thể cung cấp cho các tế bào nội tạng đủ chất dinh dưỡng và dưỡng khí. Hễ tế bào thiếu dưỡng khí thì dễ biến thành tế bào ung bướu có mối liên quan rất lớn. Vì vậy các tư thế đi, đứng, ngồi nằm, các động tác và sự hô hấp của chúng ta hàng ngày có ảnh hưởng rất lớn đối với bệnh tình.
Nếu động tác lạy Phật mà đúng thì có thể giúp cho việc trị liệu, vì trong khi lạy Phật thì phải cúi đầu xuống một cách mền mại cho đến khi cằm chạm vào xương ngực. Động tác này có thể làm cho bảy đốt xương cổ giản ra, từ đó có bảy lợi ích sau đây:
1) Lưu lượng máu được đầy đủ: chỉ có hai đôi mạch máu cung ứng cho não bộ, đôi trước là động mạch cổ, đôi sau là động mạch chùy. Động mạch này khiến cho động mạch chùy không bị chèn ép, khiến máu chảy dễ dàng cung cấp dưỡng khí đầy đủ, cải thiện công năng của não.
2) Tủy dịch của não, xương sống được lưu thông: tủy dịch não, xương sống tuần hoàn bên ngoài tủy sống và não, vào đến các tầng dịch thể của não thất benâ trong. Có bốn công năng (1) điều tiết sức ép của não, (2) bảo hộ não, (3) cung ứng chất dinh dưỡng, (4) thải các phế vật. Nếu tư thế của đầu, cổ không tốt, góc độ không đúng, sự lưu động ấy gặp trở ngại thì não và tủy sống như ngâm trong nước dơ, áp lực của não cũng không bình thường, dễ bị đau đầu, choáng đầu. Động tác lạy Phật có thể giúp cho tủy dịch của não và tủy sống lưu thông dễ dàng, khiến công năng của não được tốt đẹp, có thể chỉ huy khéo léo các tế bào của toàn thân.
3) Khiến cho các dây thần kinh từ xương cổ đi ra không bị ép, công năng tốt đẹp; dây thần kinh ở các đốt xương cổ có quan hệ mật thiết với công năng ngũ quan, trái tim, huyết áp, khí quản, mắt, nước bọt dây thần kinh cánh tay cũng từ xương cổ, nếu bị chèn ép thì cũng sinh ra các chứng đau tê. Nếu thường lạy phật cúi đầu mền mại, kéo dãn các đốt xương cổ thì có thể trị các chứng bệnh tại các bộ vị nói trên.
Khi cúi xống lạy Phật (cúi đầu, cong lưng, co đầu gối) là dùng gót chân làm chuẩn, chuẩn gót chân là trọng tâm vật lý tự nhiên thì cơ bắp không bị căng, mất sức, bộ ngực và bụng đưa ra rồi sau đó kéo lui (cho đến khi thấy được gót chân sau) thì mới gập lưng xuống, tốt nhất là gập cho đến khi bụng sát vào vế, động tác này có thể làm cho cơ bắp ở hai bên cột sống dãn ra, khiếùn các khớp nối được kéo ra. Làm như thế khiến nội tạng và mạch máu được tốt. Khi lạy xuống trong động tác quì, thân tay động nhưng trọng tâm vẫn được giữ không độ (nhứt tâm), (định trong trọng).
Trong khi lạy Phật chớ nhắm mắt, nên thu nhiếp nhãn thần, tự quán chiếu mình. Nếu nhắm mắt thì tư thế không ổn định, công năng điều chỉnh huyết áp cũng có thể bị ảnh hưởng. Hơn nữa, mở mắt và nhắm mắt thì “sóng não' không giống nhau. Chúng ta lạy Phật là khai phát cái công năng của “giác tính”, khai phá cái công năng cao cấp của bộ não, chứ không phải sùng bái một cách mù quáng.
Khi lạy Phật thì hai bàn tay chắp lại, nhưng trước khi quì xuống thì trước tiên buông thõng hai tay, đặt xuống đất làm điểm tựa, sau đó mới co đầu gối quì xuống, lòng bàn chân phải lật lên trên, người ngồi vào chỗ nghiêng vào trong của gót chân sau (kéo dãn nhượng chân, đồng thời kích thích, hoạt hóa điểm phạn xạ của bạch huyết cầu); sau đó cúi phần trên của thân thể cho ấn đường giữa hai mày chạm đất, cần chú ý từ đầu đến cuối phải mở mắt. Động tác này có thể làm cho cột sống của chúng ta được vững mạnh. Vì người ta cứ muốn duy trì tư thế đứng cho nên thường bị tức hông đau lưng, một số người khi đứng, phần bụng bị căng thẳng, cho nên phần xương sống phía dưới thường cong về phía bụng, như thế sẽ khiến các đốt cột sống ỏ phần này ép chặt vào nhau, gây trở ngại (ảnh hưởng đến các bộ phận nằm trong bụng như: gan, dạ dày, thận, ruột non, ruột già, bàng quang ) Lạy Phật có thể loại trừ những chướng ngại này, đó cũng chính là tiêu trừ nghiệp chướng, làm vững mạnh cột sống, khiến nó hướng trở lại về phía lưng, cũng chính là mở rộng các khớp xương sống đang bị dính nhau, loại trừ sức đè ép.
Khi quì lạy Phật, đầu chạm đất, đồng thời hai tay nhẹ nhàng đưa về phía trước, chuẩn bị tiếp Đức Phật, tay đưa ra cách đỉnh đầu một nắm tay, đồng thời mở rộng tối đa phần dưới nách, nhằm mở rộng dung lượng tim của chúng ta và gia tăng sức hoạt động của phổi, cũng là để gia tăng sức chuyển đổi không khí của phổi (gia tăng sức chứa không khí). Sau khi duỗi tay ra phía trước đầu, lật bàn tay lên trên, động tác này trỏ ý “tôi quyết định chuyển biến tâm cảnh của tôi để nghinh đón ánh sáng của đức “Phật”, cũng trỏ ý “Tôi đem hết tâm tôi mà cúng dường đức Phật, không giữ lại một chút nào”. Lúc này cần phải quán chiếu vào đầu ngón tay của chúng ta, giống như cánh hoa sen mền mại, nhẹ nhàng, không nên dùng sức, dùng hoa sen của hai bàn tay để tiếp đón đức Phật, động tác này nhắc nhở chúng ta hoa sen nở không phải dựa vào sức mạnh bên ngoài, mà dựa vào sức mạnh tự giác bên trong. Tâm hoa của chúng ta nở ra cũng như thế. Bây giờ nên quán tưởng đức Phật đại từ đại bi đang đứng trên hoa sen hai bàn tay của chúng ta mà tiếp nhận lễ bái. Chúng ta có thể đối mặt cùng đức Phật, điều này thật hân hoan hỉ lạc biết bao nhiêu! Lúc này một nụ cười của nội tâm tự nhiên xuất hiện. Chúng ta lại quán tưởng đức Phật phóng ánh sáng thanh tịnh, từ bi đến đỉnh đầu của chúng ta, khiến toàn thể thân tâm chúng ta đều thanh tịnh, quang minh. Tất cả bệnh tật đau đớn giống như bóng tối, gặp được ánh sáng thì không còn tối tăm. Chúng ta lại quán tưởng ngoài chúng sinh đều cùng chúng ta lạy Phật, tắm gội ánh sáng của đức phật.
Tất cả chúng ta đều đang hít thở, nhưng thật ra rất ít người biết hít thở như thế nào, rất ít người có được sự hít thở hoàn chỉnh, triệt để. Tại sao như thế? Chúng ta có thể quán sát trạng thái của người đang bận rộn, hoặc tâm đang chú ý về một sự việc gì đó bên ngoài, thì thấy rằng hô hấp của người ấy bị ảnh hưởng, biến thành sự hô hấp rất cạn, rất ngắn, thậm chí có khi ở trạng thái gần như ngưng dứt, nhất là khi tâm tình phiền não, giận dữ, loại hô hấp này sẽ khiến không khí dơ bẩn trong cơ thể không thể thoát ra được để thay đổi không khí tốt tươi. Cho nên lâu sau sẽ tích lũy không khí ô nhiễm trong thân thể, thiếu thốn dưỡng khí. Tế bào thiếu dưỡng khí thì dễ sanh ra ung bướu. Chúng ta lạy Phật thì có thể điều chỉnh hô hấp, khiến cho hô hấp được triệt để và hoàn toàn. Lạy Phật cũng là môn khí công rất tốt vậy. Động tác lạy xuống khi chúng ta lạy Phật có thể giúp chúng ta tống khí ra triệt để, khiến không khí ô nhiễm của phổi và toàn thân được tống ra hết. Trong khi năm vóc sát đất, vì toàn thân buông lỏng, cơ bắp buông lỏng không bị trở lực nào. Trong tình trạng không bị trở lực, cơ bắp tự nhiên sẽ có được sự hấp khí rất sâu, rất hoàn toàn. Theo nguyên lý động lực học về huyết dịch, máu lưu chuyển cũng do tác dụng hấp dẫn của sự hấp khí sâu, máu sẽ trở về tim một cách thuận lợi, để rồi lại từ tim mà đi ra. Mỗi tế bào của chúng ta đều nhờ động tác lạy Phật mà có được nhiều dinh dưỡng và dưỡng khí cùng với không khí an lạc, hoan hỉ của thế giới Cực Lạc. Khi đang lạy mà muốn đứng dậy thì phải nhân lúc hít mà vận dụng sức để đứng lên, như thế mới được nhẹ nhàng mà không phí sức.
Gọi là “vĩnh viễn an lạc vô ưu” chính là từng lúc an lạc vô ưu trong hiện tại.
Dần dần tôi nhận ra rằng, té ra một ngàn lạy, một vạn lạy bất quá cũng chỉ là một lạy trước mắt mà thôi. Vốn không cần phải so đo, lại càng không phải phí tâm nghĩ đến mình đang lạy một lạy. Cứ hưởng thọ cái sát na trước mắt được đối diện với Đức Phật là tốt vậy. Người xưa nói: “Vạn cổ mênh mông, một ngày trăng gió”, khoảng trời mênh mông từ vạn cổ đến nay, chính là trăng gió mà bạn nhìn thấy trong khoảnh khắc trước mắt, mỗi trăng gió trong mỗi ngày đều là khoảng mênh mông vạn cổ. Cho nên bảo rằng: “Vĩnh viễn an lạc vô ưu” chính là mỗi “cái hiện tại” đều an lạc vô ưu. Nếu hiện tại mà không đủ mở lòng để hoan hỉ phát huy sinh mạng, tạo phước cho mọi người thế thì có tranh thu ûngày mai cũng không ích gì. Tôi rất thích một câu nói cổ “dù ngày mai là ngày tàn của thế giới, đêm nay ta vẫn cứ trồng đầy hoa sen trong vườn, lấy lòng yêu gió mát trăng thanh mà ca vịnh Đức Phật A Di Đà”.
Dù ngày mai là ngày tàn của thế giới;
Đêm nay ta vẫn trồng đầy hoa sen trong vườn;
Đem lòng yêu gió mát trăng trong mà ca vịnh Đức Phật A Di Đà.
Mọi sự trên đời, mọi bệnh tật đều nhất nhất giải quyết, giải quyết đến cuối cùng, chỉ còn lại một vấn đề sinh tử không thể tránh khỏi, và vấn đề sau khi chết lại luân hồi thọ khổ. May mắn có đức Phật A Di Đà từ bi phát 48 đại nguyện làm chỗ nương tựa cho chúng ta trong sinh tử. Tôi đã tận mắt chứng kiến rất nhiều người niệm Phật vào lúc lâm chung nhìn thấy đức Phật đến tiếp dẫn và vui mừng vãng sanh đến thế giới Cực Lạc. Cho nên tôi suy nghĩ kĩ, đã bị ung bướu thì phải làm sao? Phương pháp tốt nhất chính là hiện tại cứ hoan hỉ, can đảm thẳng tiến (“vãng”) đến cõi Tịnh Độ từ bi mà “sinh” sống (ý nghĩa của “vãng sinh”). Nắm lấy hiện tại an vui “vãng sinh” (thì mới không sống uổng). Đến khi sắp chết lại càng an vui, vì người niệm Phật chỉ cần người niệm Phật có tín nguyện kiên cố thì tất nhiên Đức Phật sẽ hiện tiền từ bi gia hộ, khiến chúng ta an nhiên tự tại, không khổ đau, không hoảng loạn và đón tiếp chúng ta. Xin chú ý, hoan hỉ “vãng sinh” thể giới Cực Lạc là đang sống mà có thể “vãng sinh” (di dân) đến thế giới Cực lạc Vô Lượng Thọ Mạnh, (hoàn toàn không phải chết đi mới mới gọi là “vãng sinh”), vãng sinh Cực Lạc là đến lưu học tại nước Phật, phát huy đầy đủ tiềm năng Phật tính, rồi quay trở về nhập vào thế giới khổ nạn mà cứu độ chúng sanh, thực hiện trọn vẹn đại nguyện vĩnh hằng! Quí vị nghĩ xem, có phương pháp nào tốt hơn thế chăng?
CƯ SĨ LÝ MỘC NGUYÊN
(Tế bào ung bướu biến thành rừng công đức). Chúng ta nên tin vào Phật lựcHay tin vào nghiệp lực?
Tín lực của chúng ta không giống nhau, thì kết quả sẽ không giống nhau.
Đến đây chúng tôi xin giới thiệu một người thật việc thật. Đó là một sự tin tưởng cảm ứng Phật lực của một cư sĩ hoa kiều ở Singapore là cư sĩ Lý Mộc nguyên. Ông đã lấy lòng tin và nghị lực vô cùng kiên cố mà niệm A Di Đà phật, đồng thời đem thân mình cống hiến cho chúng sanh, cống hiến cho Phật giáo, nhờ đó mà ông đã loại trừ được chứng ung bướu và bệnh tim rất nghiêmtrọng. Không những ông không bị ma bệnh đánh ngã, mà còn dùng ung bướu làm động cơ, động lực, nỗ lực hoằng dương Phật giáo. Không những ông đã vạch ra con đường lớn trang nghiêm sáng sủa của việc học Phật, mà còn thúc đẩy chúng ta thêm nỗ lực, cho chúng ta sự khích lệ và niềm tin rất lớn.
Vị cư sĩ này là người chân tình, hào sảng, hăng hái, từ nhỏ đã thích đi tìm chân lý, bất cứ việc gì cũng tìm chứng cứ, tìm sự thật, không mù quáng tuôn theo, không tùy tiện tin tưởng. Ông cũng rất có lòng hiếu. Khi mẹ ông bị ung bướu, tất cả những việc lặt vặt như cơm nước, dọn dẹp vệ sinh cho mẹ đều chính ông lo liệu, chính tay ông làm. Ông săn sóc bệnh cho mẹ trong ba năm, có nhân duyên tiếp xúc với Phật pháp, tự thân thể nghiệm sự diệu dụng của việc niệm Phật. Mới đầu cha ông rất phản đối việc ông tin phật niệm kinh. Tuy nhiên ông rất tế nhị, khi mang kinh ra, tụng kinh ông đều trải ra một tờ báo, giả như đang đọc báo, mà thật ra thì để tâm vào việc tụng đọc kinh Phật. Tuy ông có nhân duyên tiếp xúc với Phật pháp và cũng nhiệt thành vì Phật giáo mà phục vụ đại chúng, nhưng khi sư phụ khuyên ông ăn chay, ông lại bảo: “tôi rất ghét ăn chay, đường đường một con người như tôi mà phải ăn cỏ ư?” Ông xem trọng và ưa thích việc ăn mặn, thân thể béo mập nặng tới chín mươi ký, vòng bụng lớn bốn trăm tám mươi phân. Có người đùa ông bảo, mỗi lần mua quần áo ông phải mua hai cái, để mỗi bên mặc một cái.
Năm 1982, một buổi sáng nọ ông ho ra máu, kết quả kiểm tra của bác sĩ cho rằng ông bị bệnh lao phổi, nhưng sau thời gian trị liệu, bệnh tình của ông hoàn toàn không thuyên giảm. Ông lại được kiểm tra thêm một lần nữa thì mới biết ông bị ung thư phổi. Không những phổi bị ung bướu mà cả ruột cũng bị ung bướu, thậm chí các tạng phủ đều có hiện tượng di căn. Bác sĩ bảo ông rằng tình trạng vô cùng bi đát, có thể không quá sáu tháng nữa.
Ông là một người có trí tuệ lớn. Nơi cửa ải sinh tử này, ông cũng thể nghiệm được lòng tin tưởng sâu xa của ông đối với Phật lực. Sau khi ông ho ra máu, sư phụ muốn ông nghỉ ngơi, nhưng ông không chịu. Ông phát tâm vì đại chúng mà làm việc, dứt khoát không chịu nửa đường phế bỏ. Ông nói: “Tôi chẳng kể gì, tôi cứ niệm Phật!”. Ông biết rằng bệnh tình của mình rất nghiêm trọng, bèn giao toàn bộ sự việc cho vợ quản lý, kinh doanh, ngay cả thẻ tín dụng cũng trả lại cho ngân hàng. Sau đó ông toàn tâm toàn mạng cống hiến cho Phật giáo, sống một ngày cống hiến một ngày, yên tâm niệm Phật, quyết chí vãng sanh thế giới Cực lạc ở Tây Phương.
Phục vụ tại “Phật giáo cư sĩ Lâm”, phàm những công tác hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh, ông đều xông xáo thực hiện không tiếc sinh mạng. Ông nói: “tôi đem thân xác giao cho “Long Thiên Hộ Pháp”. Ông tin tưởng Phật pháp, tin rằng tâm thanh tịnh thì sẽ không có bệnh tật. Ông nghe theo lời dạy của sư phụ: “cần phải kiểm thảo tâm niệm của chính mình. Nếu vì mình thì đó là ma, nếu vì đại chúng thì đó là Phật.” Ông tôn trọng nguyên tắc này để phục vụ đại chúng, kết quả là sáu tháng đã trôi qua, thậm chí sáu năm trôi qua, mười năm trôi qua ông vẫn không chết, vẫn không bệnh, cho đến giờ đây ông vẫn sống khỏe mạnh. Lại nữa, ông thường tổ chức các đoàn đi Đại lục, hộ trì Phật pháp ở Đại lục. Ông còn đảm nhận chức Lâm trưởng hội Cư sĩ Lâm ở Singapore, lễ thọ Pháp sư Tịnh Không hoằng dương chánh pháp Tịnh độ. Ông còn sáng lập ra thôn Di Đà, mỗi ngày đều rất rộn rịp đông người.
Năm 1988, do Tổng hội Phật giáo ở Singapore sắp truyền giới, sư phụ muốn ông nỗ lực phát động đại chúng thọ giới. Ông nghĩ, nếu muốn người ta thọ giới thì mình phải phát tâm thọ giới. Sư phụ bảo ông thọ giới Bồ Tát, nhưng bấy giờ ông vẫn thích ăn mặn, ăn chay tối đa là mười ngày. Khi ông đến giới trường, một vị sư phụ nghiêm nghị nói với ông: “Làm Bồ Tát gì mà còn ưa ăn thịt!” Nói ra thì thật là kì diệu, sau khi thọ giới, trước khi về nhà ông còn gọi điện thoại bảo người nhà nấu đồ ăn ngon (đồ ăn mặn) mà chờ ông. Nhưng khi về đến nhà, ông bỗng cảm thấy trong nhà có mùi hôi thối giống như mùi chuột chết, dù ông tìm mãi không thấy con chuột chết nào. Sau đó ông mới phát hiện mùi hôi thối đó té ra là mùi cá thịt mà ông thường thích ăn nhất. Từ đó về sau, chỉ ngửi thấy mùi thịt là ông có cảm giác đó là mùi chuột chết, và tự động không dám ăn. Ông nói: “Chính tôi cũng không dám tin, tôi đã là người thích ăn thịt như thế mà rốt lại chuyển sang ăn chay”. Đây là sự không thể nghĩ bàn của Phật pháp vậy.
Ông vốn không những bị ung bướu mà còn bị bệnh tim rất nặng, cao huyết áp, tiểu đường rất nghiêm trọng. Hơn nữa huyết quản của tim có ba đường bị nghẹt, trong đó hai đường bị nghẹt chín mươi lăm phần trăm. Bác sĩ bảo onâ g phải mổ vì bệnh rất nguy hiểm, lúc nào tim cũng có thể trơ cứng. Nhưng vào hôm ông sắp đến bệnh viện để mổ lại đúng vào lúc Phật giáo có việc rất quan trọng cần ông giúp đỡ. Ông nghĩ rằng đây là Bồ Tát bảo ông không nên đi mổ, do đó ông nói với Bồ Tát: “Tôi không muốn đi mổ nữa!” Do đó ông báo với y viện bãi bỏ việc mổ, và ông vì Phật giáo mà làm việc. Giữa “vì mình” và “vì Phật giáo đại chúng” ông đã chọn vì Phật giáo, vì đại chúng, buông bỏ lợi hại, được mất của cá nhân, buông bỏ sự sinh tử của cá nhân.
Mỗi ngày ông đêøu niệm Phật, đem hết sức phục vụ Phật Giáo và đại chúng. Ông làm việc trong hội Cư sĩ Lâm, thư viện Phật giáo và ban bồi dưỡng huấn luyện hoằng dương Phật pháp. Từ việc dạy nhi đồng đọc kinh, đến vỗ về săn sóc người già, khuyên người già niệm Phật, thậm chí ông còn đến nhà lao thuyết giảng Phật pháp, hộ niệm, tắm rửa cho người chết. Chỉ cần việc gì có ích cho chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh học tập, ông đều xông xáo, nhiệt thành mà làm. Kết quả ông bị ung bướu cũng chẳng sao. Về sau kết quả kiểm tra cho biết ba đường máu bị nghẽn của tim rớt lại đã khôi phục như thường, hơn nữa, thân thể ông càng ngày càng cường tráng, mỗi ngày ông có thể bơi một ngàn năm trăm mét, thậm chí có lần ông bơi được năm ngàn mét. Mọi người đi thuyền đều chóng mặt, riêng ông là không bị; ông lại còn phụ giúp bác sĩ săn sóc những người kia. Khi đến Đại lục là nơi trời rất lạnh, ông ăn mặc sơ sài cũng không hề lạnh.
Nhiều người và cả bác sĩ đều cho rằng ông lành bệnh rất kì lạ. Nhưng lão Pháp sư Tịnh Không nói: “Chẳng phải lạ lùng gì, đây là hiện tượng bình thường. Chúng ta bị bệnh, già yếu là do trong nội tâm của chúng ta có các độc tố của tham, sân, si, đồng thời còn thêm các thứ ô nhiễm xấu ác bên ngoài, cho nên ai cũng vì thế mà bị bệnh, già yếu.” Lão Pháp sư cho rằng cư sĩ Lý Mộc Nguyên được lành bệnh là vì ông đã tiêu diệt được độc tố của bệnh ở nội tâm của ông, ông khiến trái tim khôi phục trở lại, thanh tịnh, chân thành, từ bi, do đó tế bào của toàn thân đều tự động tổ chức mới lại, thân thể tự nhiên được khôi phục, mạnh khỏe.
Ông dứt bỏ hết cái tâm tư suy nghĩ, tính toán của mình, lấy tâm mà niệm Phật, vì đại chúng mà nỗ lực phục vụ. Do đó mà ông cải biến được bệnh tật, khỏe mạnh trở lại; hơn nữa, lại khắc phục được các khó khăn, chướng ngại của hoàn cảnh. Ông hết sức phục vụ vì Phật giáo, thế mà có người hiểu lầm ông, thậm chí còn vu oan ông tham ô, ông bị cục điều tra Singapore điều tra mười ba lần. Kết quả là người của cục điều tra chứng thực là ông không tham ô, đồng thời cũng cảm thông hoàn cảnh của ông, bảo ông làm đơn kiện ngược lại người vu cáo. Nhưng ông nói: “Tôi đã thọ giới Bồ Tát, tôi không nên làm như thế!” Ông một lòng chỉ muốn giúp đỡ mọi người học Phật, không muốn gây ác duyên cùng mọi người. Ông chịu rất nhiều lao đao, chướng ngại, nhưng vẫn không nản lòng, mà ngược lại càng dũng mạnh, tinh tấn, vì Phật giáo, vì chúng sanh mà phục vụ.
Ông cho rằng nghiệp chướng trong việc học Phật của ông rất nặng, cho nên cần phải chuyên cần niệm Phật. Vào hôm qui y ông đã gặp chướng ngại. Mỗi lần gặp chướng ngại, ông càng chứng thực được sức mạnh của việc niệm Phật là không thể nghĩ bàn, khiến ông lại càng có tín tâm đối với việc niệm Phật. Hồi ấy các trạm xăng dầu còn chưa có nhiều, mỗi lần lái xe, ông phải chuẩn bị một thùng xăng ở sau hòm xe. Sự an ninh ở Singapore rất tốt, nổi tiếng trên thế giới. Nhân viên cảnh sát luôn luôn chú ý đến sự an toàn của nhân dân. Hôm qui y, giữa đường ông gặp cảnh sát chận xe để kiểm tra, cảnh sát phát hiện thùng xe phía sau có một thùng xăng và một áo choàng đen, bèn nghĩ ông là kẻ đốt nhà, cướp của, do đó bắt ông về cục cảnh sát mà tạm giam. Cảnh sát nói với ông: “hôm nay là thứ bảy, cảnh sát trưởng không đến, ngày mai chủ nhật, thứ hai là Quốc Khánh, thứ ba ông sẽ ra tòa.” Thế là ông bị tạm giam. Chỗ tạm giam đã có hai người lớn tuổi, đều là phụ xe ba gác, do đánh bạc mà bị bắt. Cư sĩ Lý nghĩ bụng, không biết làm sao cho phải, ông liền bắt đầu lớn tiếng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng thời yêu cầu hai người phụ xe ba gác cùng niệm với ông. Hai người ấy không để ý gì đến ông. Ông càng niệm càng lớn tiếng, lại nghĩ đến lúc ông qui y, Pháp sư Diễn Bồi có nói: “hôm nay là ngày 19 tháng 6, mọi người ngoài việc niệm Thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng có thể niệm A Di Đà Phật.” Do đó ông lại lớn tiếng niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật niệm tới 11 giờ thì có một người cảnh sát đến mở cửa và nói với ông: “Ông bước ra, cảnh sát trưởng gọi ông.” Ông lấy làm lạ, vừa rồi cảnh sát có nói hôm nay là thứ bảy, cảnh sát trưởng không đến, nay vì sao lại đến? Ông bước ra thì thấy ông Cảnh sát trưởng, trạc hơn ba mươi, hỏi ông vì sao bị bắt. Ông đáp: “tôi để một thùng xăng trên xe, họ bảo tôi định đốt nhà. Tôi lại có mang theo một cái áo choàng đen, họ bảo tôi là ăn cướp.” Rồi ông phân trần với ông cảnh sát trưởng: “Ông xem! Tay của chiếc áo đen này rộng như thế, làm ăn cướp mà chạy thì rất khó, sẽ té ngã!” Ông cảnh sát lại hỏi ông: “Họ đối xử với ông có tệ không?” Cư sĩ Lý đáp: “Không” Ông cảnh sát trưởng nói: “Ông có thể về nhà được rồi!” Ông lại còn bảo ông cảnh sát giúp ông bỏ thùng xăng lên xe. Trước khi ra đi, ông còn đặc biệt chạy trở lại chỗ tạm giam hai người phu lớn tuổi kia và nói: “Các vị xem! Tôi niệm Phật mà ra khỏi đây. Thế mà các ông không chịu niệm, không nghe lời tôi!”
Cư sĩ Lý suốt đời cứ lận đận lao đao, nhưng ông tin tưởng vào Phật lực, không hề buông xuôi, vẫn kiên trì dùng sự niệm Phật và nguyện lực để vượt qua nghiệp lực của ông. Có lần ông đến núi Cửa Hoa ở Đại lục, gặp một vị rất giỏi bói toán nói với ông: “Ông sẽ bị tê liệt, không thể đi được.”, và khuyên ông mau trở về. Ông nói: “tôi tin Phật, Bồ Tát! Dù thế nào cũng chả sao!” Đâu đâu ông cũng chứng minh cho chúng tôi thấy rằng, sức mạnh của tín nguyện và niệm Phật nhất định thắng nghiệp lực! Chẳng những ông không bị tê liệt mà còn đi như bay! Tâm của ông cải biến thì thân thể cải biến, hoàn cảnh thế giới cũng cải biến.Chúng ta cần phải hiểu rõ danh lợi, quyến thuộc ở thế gian là những thứ không mang theo được, chỉ có công đức phước báo của việc tu hành mới mang theo được, đem dùng được. Ông có sự phán đoán, chọn lựa rất trí tuệ. Ông quyết định buông bỏ cái lợi danh “không mang theo được”, quyết định dùng sinh mạng để trồng nhân lành, để tu các phước báo công đức “có thể mang theo được”. Nếu chúng ta trồng nhân lành vãng sinh Tây Phương thành Phật thì nhất định chúng ta cùng đại chúng sinh vào nước Cực Lạc, được thành phật, quả báo tốt lành nhất.
Phật A Di Đà, oai đức vô cùng
Một niệm tương ứng, phong quang động địa.
PHÓNG SANH LÀ PHÓNG SANH CÁI TÂM TỪ BI, PHÓNG SANH SỰ SỐNG LẠI CỦA MÌNH. VỊ BÁC SĨ VƯỢT KHỎI BỆNH UNG THƯ MÁU
Tôi có một bạn đồng học, nay là giáo sư đại học tại Mỹ quốc, và cũng là một nhà khoa học về thực phẩm nổi tiếng trên thế giới. Khi còn học trong nước, ông mắc bệnh nặng. Cha mẹ đưa ông đến các danh y, thực hiện rất nhiều cuộc kiểm tra rất nhọc nhằn, người ta phát hiện trên tấm phim X quang chụp ngực của ông có một đốm đen đặc biệt nhưng không đưa ra được lời chuẩn đoán chính xác. Vị đồng học này vì đã trãi qua rất nhiều khổ đau, nên ông rất dễ thông cảm nổi khổ của người khác, tâm địa của ông rất từ bi. Hồi còn học đại học, ông đã học Phật, lại còn phát tâm thọ năm giới. Sau khi thọ giới ông rất thành tâm giữ giới.
Khi còn học cấp thạc sĩ tại Mỹ, bài học và việc thực tập của ông rất bề bộn. Mỗi ngày ông phải làm việc tới 12 giờ, 1 giờ sáng. Cứ phải trường kỳ lao nhọc và mất ngủ, lại thêm không có ăn uống bổ dưỡng đầy đủ, lâu ngày, ông dần dần phát hiện mình có bệnh, ông thấy môi mình tái nhợt. Khi ông sắp nhận được học vị thạc sĩ, ông còn phaỉ làm một cuộc thực nghiệm, theo đó ông phải giết khá nhiều chuột. Lòng từ bi vốn có và tinh thần giữ giới khiến ông không chịu sát sanh, cho nên ông kiên quyết buông bỏ học vị thạc sĩ sắp đến tay. Người trong nhà và bằng hữu đều chê trách ông: “Anh đã chịu khổ sở lâu nay tại Mỹ quốc như thế, tại sao cuối cùng lại buông bỏ chứ? Mọi người phải chịu khổ nhọc như thế tại Mỹ chính là để có được học vị này, tại sao anh khờ dại thế, không chịu giết chuột mà lại buông bỏ học vị?”
Ông là một người ôn hòa, không ưa tranh biện. Đối với ông trí tuệ và từ bi của việc học Phật vượt khỏi cái tâm công danh, lợi lộc của thế gian. Do đó ông chuyển đổi việc học tập, chọn loại nghiên cứu mà không cần phải sát sanh. Ông phải khổ nhọc trong thời gian rất lâu mới có được học vị thạc sĩ.
Vì phải nghiên cứu, học tập, ông trãi qua nhiều năm thực nghiệm, đêm khuya phải quan sát kết quả thực nghiệm. Ông hkông ngủ trong thời gian dài, ăn uống sinh hoạt không quy củ, bao năm mệt nhọc, thể lực suy mòn. Khi ông về nước, tôi thấy sắc mặt ông rất nhợt nhạt, xem ra huyết sắc tố nhất định dưới bảy; thì ra bấy giờ, bệnh ung thư máu của ông đã phát triển một thời gian rồi.
Vị bác sĩ kiểm tra trị liệu cho ông tại Mỹ, và cũng là tác giả cuốn sách giáo khoa thuyết Dịch Học của chúng tôi, giáo sư Sheeling đã lắc đầu trước bệnh tình của ông, cho rằng hoàn toàn không có cách gì chữa trị. Bạch huyết cầu của ông chỉ bằng một phần ba hay bằng một phần tư của người bình thường, hồng huyết cầu không bằng phân nửa người ta, huyết tiểu bản xuống thấp đến mức có thể bị xuất huyết. Trước đây tôi đã khám các bệnh nhân có huyết tiểu bản thấp đến mức năm mươi ngàn thì đã xuất huyết, rất khó khống chế. Huyết tiểu bản của ông chỉ ngang mức ba, bốn chục ngàn, thế mà ông chưa hề bị xuất huyết, kể cũng may cho ông.
Người đồng học này của tôi đã phải chịu đựng nhiều khổ nhọc qua các lần kiểm tra bệnh, cũng biết được bệnh tình của mình nên không muốn chữa trị tại y viện. Ông kiên trì ăn chay, nhưng cải biến nội dung ăn uống, và quyết giữ như thế. Ông lại còn kiên trì niệm Phật, và vẫn giữ các sinh hoạt bình thường. Ông lại tiếp tục học cấp Tiến sĩ. Trong đám bạn bè, nếu không nhắc đến không ai biết ông mắc bệnh nghiêm trọng này. Ông còn tiếp tục theo học cấp Tiến sĩ tại đại học Wisconsin tại Mỹ quốc. Trong khi ông lo lắng vì huyết cầu của ông quá ít, tôi nói với ông: “Không hề gì (anh không nên lấy cái tâm hồi hộp mà xem kết quả kiểm nghiệm), huyết cầu của anh tuy ít, nhưng nếu anh cứ niệm Phật cho tốt, cố tịnh tâm thì mỗi huyết cầu của anh là một cao thủ võ lâm, một chống mười, cũng giống như một vị tướng đánh thắng một trăm tên lính! Tâm của anh chớ để ý đến các các số mục lên xuống của báo cáo kiểm mghiệm. Chỉ cần vui vẻ mà sinh hoạt tốt. Ông nghe thế thì mỉm cười vui vẻ.
Quá khứ không cần suy lường
Vị lai chớ nên lo sợ
Hiện tại chẳng phải khẩn trương
Niệm Phật tự nhiên tốt lành
Thật ra, với bệnh tìn như vậy thì người khác đã chết từ lâu, nhưng ông vẫn đạt được học vị của Đại học Wisconsin. Hơn nữa, hằng ngày dù có bận rộn công việc bao nhiêu ông vẫn sáng tối thực hiện công khóa niệm Phật. Công đức trì giới không sát sanh, sự thành tâm niệm Phật của ông và sự gia bị của Phật lực, khiến ông có thể sinh hoạt bình thường. Trong sự mông lung này có sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.
Ông rất kính ngưỡng ân sư, sư phụ Sám Công (tức Pháp sư Sám Vân). Khi sư phụ đến Mỹ quốc để hoằng pháp, ông bỏ hết công việc để lái xe cho sư phụ. Ông lại còn thuê một chiếc xe rất lớn để sư phụ có thể nghỉ ngơi thoải mái, người khác thì không lái nỏi loại xe lớn này; ông tuy thân thể không khỏe, nhưng cũng hoan hỉ tự mình lái xe, lại còn mời sư phụ ở tại nhà ông. Tôi có cảm giác ông dùng lòng hiếu thuận của đứa trẻ con đối với sư phụ. Khi ông mua một chiếc ghế mới có chỗ ngồi rất êm ái thì câu nói đầu tiên của ông là: “À! Sau này sư phụ Sám Công đến, ta phải mời ngài ngồi vào ghế này, ” Do đó ông chuẩn bị thật tốt, để lần tới khi sư phụ tơi sẽ mời ngài ngồi. Ông thân cận với Cao Tăng, Đại đức như thế, quả là đã được gia trì không thể nghĩ bàn. Khi sư phụ Sám Công đến Mỹ quốc, ông bèn tham gia khóa tu bảy ngày do sư phụ chủ trì; có lần trong pháp hội có một người Mỹ, là một người theo tôn giáo khác, không biết vì nhân duyên gì cũng đến chùa Trang Nghiêm. Người mỹ này thấy sư phụ Sám Vân toàn thân tỏa ánh sáng chiếu vào mọi người đang ở đó! Người Mỹ này lấy làm lạ, không dằn lòng được bèn cho mọi người biết. Khi họ đến chùa Trang Nghiêm, ngài Hiển Công (tức lão pháp sư Hiển Minh) vốn là người rất từ bi, lại có nhãn lực hơn người, vừa trông thấy đã phát hiện ngay người đồng học của tôi đang bị bệnh. Ngài Hiển Công vô cùng từ bi đã nhờ cậy một cư sĩ chuyên nghiên cứu y học lại tinh thông Kinh Dịch. Cư sĩ này vốn là một vị tướng, sau khi về hưu thì ở ẩn. Ngoài Hiển Công, không ai biết ông tinh thông y học. Vị cư sĩ này rất từ bi, ông nhận lời ủy thác của ngài Hiển Công, khám bệnh cho cư sĩ lý Mộc Nguyên thường gọi điện thoại hỏi han bệnh tình, dùng trái cây và các loại rau xanh phối hợp để trị liệu. Người khác mà bị bệnh như thế thì phần lớn trị cho đến rụng hết tóc, hư cả miệng, thường phải tiếp thêm máu, phải nằm bệnh viện và nằm cách li; còn ông thì ngày ăn trái cây và rau xanh rất ngon, ăn đến mập ra, lại còn có thể vận động, đánh banh mỗi ngày đánh một, hai tiếng đồng hồ, hoan hỉ niệm Phật không phải tiếp máu.
Ông lại rất hiếu thuận, bị bệnh nặng như vậy chịu đau đớn mà không cho cha mẹ ở Đài Loan biết. Vợ con ông chăm sóc ông hết lòng, suốt sáu bảy năm mà cha mẹ ông hoàn toàn không hay biết. Vì ông nghĩ rằng cha mẹ đã lớn tuổi, hai vị lại đang ở Đài Loan, ông không nỡ để cho họ lo lắng ưu phiền, nên ông cố không nói cho cha mẹ biết bệnh tình của mình.
Tôi phát hiện ra rằng người từ bi quả là có phước báo đặc biệt. Gọi là phóng sinh, cũng chính là phóng sinh cho cái tâm từ bi của chúng ta. Ông thà bỏ cái học vị mà mọi người mong muốn, phóng sinh cho bọn chuột. Ông vốn không mong muốn gì, chỉ vì từ bi mà không nỡ để chúng sinh khổ, hơn nữa lại tôn trọng giới luật của đức Phật mà không sát sanh. Khi ông mang trọng bệnh, trong tình trạng có thể chết, ông cảm khái nói với tôi: “tôi gặp được cao nhân rồi!” Quả là có người xuất hiện cứu ông, vị này dùng phương pháp rất an lạc không thể nghĩ bàn khiến ông khỏe mạnh trở lại, khiến ông sống lại, đồng thời không phải chịu khổ nào quá lớn. Vốn là cái tâm “thà chết vẫn trì giới”, lại có kết quả là “không chết cũng không khổ”. Hiện nay ông còn có thể đến các nơi trên thế giới để phát biểu, diễn giảng về học thuật. Một vị đàn anh trong nghành của tôi là bác sĩ khoa huyết dịch biết được quá trình bệnh trạng của ông, rất lấy làm lạ, vì những người bị bệnh như ông, tuy sau ông nhưng đã chết. Huyết cầu của ông do sự gia trì của Phật từ tâm mà trở nên một chống mười. Ông hiểu được sự diệu dụng và sức mạnh của Phật pháp, nên lại càng chuyên tâm học Phật.
Xin kể một câu chuyện lý thú không thể nghĩ bàn. Vợ chồng ông thường cùng các hoa kiều tại Mỹ và các lưu học sinh niệm Phật tu hành. Vào mùa đông năm nọ, mọi người hẹn nhau tới nhà ông để thực hành khóa tu bảy ngày, cùng nhau niêïm Phật, bạn bè khắp nơi tụ tâïp lại. Có người phải lái xe những ba giờ đồng hồ trên đường tuyết mới đến được nhà ông cùng tu. Không ngờ bấy giờ mẹ ông từ Đài Loan sang mỹ Quốc. Vì mẹ ông thường phản đối việc niệm Phật, học Phật, nên khi biết mẹ sắp đến, vợ chồng ông sợ mẹ ông đến khi mọi người cùng tu, giả như mẹ ông vẫn kịch liệt phản đối mọi người như trước kia thì hai bên không biết phải làm sao, thật là khó xử với những người từ xa đến thành tâm tham gia niệm Phật. Cho nên vợ chồng ông nhờ người em trai ở gần đó tiếp đãi mẹ vài ngày trước đã. Em trai ông cũng đang học tại Mỹ, vợ chồng ông sắp đặt cho mẹ đến nhà em ông vài ngày, đồng thời thành tâm cầu Phật gia bị, khiến ai cũng đều hoan hỉ. Khi mẹ ông vừa đến, em trai ông mời bà về nhà mình, tạm thời không đến chỗ của anh. Bà mẹ lấy làm lạ nói: “Mẹ muốn đến liền xem sao!” Do đó bà tự mình đến chỗ ông. Hai anh em ở gần nhau chỉ đi chừng vài phút là tới, mẹ ông vẫn thường đến và rất quen đường. Nhưng hôm ấy thật lạ, đi đã mấy phút mà vẫn không thấy nhà ông đâu, trái lại bà lại đến một công viên rất đẹp, bà vào công viên ngắm cảnh rất thú vị. Sau đó bà quay về nhà em ông mà nghỉ ngơi, bà nghĩ: “Thật lạ! Sao lại tìm không được kìa?ï mẹ ông cứ suy nghĩ mãi mà không yên lòng. Cứ cách một ngày, bà lại đi tìm nhà ông, nhưng thật kì lạ, bà lại kiếm nhà không ra, lại vào công viên ngắm cảnh như trước. Cho đến ngày họ kết thúc việc niệm Phật, mẹ ông mới kiếm ra nhà ông. Khi mẹ ông tìm được nhà, bà rất lấy làm lạ, rõ ràng nhà rất gần! Nhà sờ sờ ra đó mà bà cũng đã đến đó tìm, thế nhưng bao nhiêu ngày bà vẫn tìm không được, lại được thưởng ngoạn ở công viên rất vui thú. Mọi người đều cảm thấy Phật lực quả là không thể nghĩ bàn. Bao nhiêu người thành tâm tụ tập để niệm Phật, được Hộ Pháp, Bồ Tát an bài giúp đỡ rất linh diệu!
Mẹ ông bình thường tuy phản đối việc niệm Phật, nhưng bà vẫn nghe vợ chồng ông niệm “A Di Đà Phật”, nghe lâu ngày cũng có ấn tượng sâu sắc. Có một lần động đất, bà đang ở nhà một mình, rất sợ hãi, bèn niệm: “A Di Đà Phật? Cho nên chúng ta có thể hiểu được, có người tuy giờ đây không chịu niệm Phật, nhưng chỉ cần nghe danh từ “A Di Đà Phật” thì đã gieo một hạt mầm kim cang Phật, dù thế nào cũng không tiêu mất, chỉ cần nhân duyên chín muồi thì hạt mầm sẽ nở hoa kết trái. Chỉ cần nghe đến A Di Đà Phật thì khi nguy hiểm cũng có thể khởi dụng mà niệm Phật. Bây giờ mẹ của ông cũng đang dần dần học Phật do vì nhân duyên chuyển biến, nên các bằng hữu học Phật cũng không cần phải lo lắng vì người nhà không chịu học Phật, chứ nếu buồn giận người nhà thì tức là tự mình đã là không hợp với Phật pháp. Chỉ cần tự chúng ta chân thành không thoái chuyển thì người nhà cũng dần dần được cảm hóa, cảm ứng. Cư Phật Bồ Tát há không kiên trì chờ đợi chúng ta một ngàn, hai ngàn cho đến vô số ngàn năm sao? Tự chúng ta cũng như thế, cứ trễ nãi mà không chịu giác ngộ! Tự mình phải giác ngộ thì mới có thể thức tỉnh người khác được!
Vị bằng hữu ấy còn có một chuyện khiến tôi cảm động. Khi còn học ở Đại học Trung Hưng ở Đài trung, nhân đến nghe Kinh tại Pháp hội của cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Ông thường đến Liên Xã Đài trung để lễ Phật sáng tối. Bấy giờ ông phát nguyện, hễ còn ở Đài Trung ngày nào thì ngày ấy ông sẽ đến Liên Xã để lạy ba lạy, cảm tạ ơn Phật, cảm tạ ơn cha mẹ, cảm tạ ơn thầy, cảm tạ các bậc thầy, bậc đàn anh tâm huyết tại Liên Xã. Sau khi phát nguyện, quả thực dù bận rộn thế nào, hoặc có việc phải đi Đài Bắc, đến khi trở lại lại Đài Trung lúc mười một giờ đêm, hai giờ sáng, Liên Xã đã đóng cửa, ông vẫn quyết đến lạy ba lạy, dù lạy ở ngoài cửa cũng được, trước sau không hề có một ngày gián đoạn.
Một hôm, ông từ Mỹ trở về, người nhà đến sân bay Đào Viên đón ông, ông liền lái xe đưa mọi người về quê ở Đài Nam. Khi xe đi qua Đài Trung thì đã mười một giờ đêm, bỗng ông lái xe rẽ vào Đài Trung. Người nhà hỏi: “Anh sao vậy?” Ông yện lặng không nói, cứ một mực lái xe đến cửa Liên Xã. Ông đứng ngoài cửa, cứ theo lời nguyện cũ mà cung kính lạy ba lạy rồi mới tiếp tục lái xe về nhà.
Từ khi bị bệnh, ông phát một nguyện, nguyện an uỉ tất cả những bệnh nhân ung thư máu đều không lo sợ, khiến họ khởi lòng tin. Tôi tin rằng lời nguyện của ông nhất định được thành tựu, viên mãn, vì Chư Phật, Bồ Tát xưa nay không hề phụ lòng người chân thành. Khi sinh mệnh của người ta chấm dứt, thì dù có tiền bạc nhiều, học vị cao cũng không cách nào mua được một phút sinh mạng. Sinh mạng đáng quí như thế, cho dù một con sâu rất nhỏ, chúng ta cũng không có năng lực để khiến nó đã chết mà sống lại được. Cho nên khi nó còn sống thì phải thương quí nó để cho nó tự do an vui! bình thường chỉ cần dùng tiền bạc rất ít cũng có thể tránh được cho các sinh vật sự sợ hãi bị giết, cho nó một con đường sống, tại sao chúng ta lại không chịu như thế? Khi bỗng dưng bạn bị đối mặt với cái chết, hoặc sinh mạng của bạn đang ở trong tay người khác, thì bạn có thể hiểu được cái tình trạng ham muốn được phóng sinh.
Giả như người bạn đồng học của tôi bấy giờ mong muốn có được học vị Thạc sĩ, mà che mờ tâm từ bi, phá giới, đem mấy con chuột ra giết để làm thí nghiệm thì e rằng về sau không có nhân duyên tốt đẹp để được cứu. Chúng ta hãy nghĩ xem, nếu khi bệnh ung thư máu của ông phát triển giống như nhiều người bệnh khác, thì đối mặt với cái chết, học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ của ông có lợi ích gì chứ?
Không nỡ để chúng sinh khổ,
Không nỡ để Thánh giáo suyCho nên ngay nơi đâyKhởi lên tâm đại bi.
SỨC MẠNH CỦA CÁI TÂM HOAN HỶ
Tôi đã từng khám cho một bệnh nhân, đó là một nữ sinh học trung cấp. Em sinh ra chưa được bao lâu thì bị mắc bệnh ung bướu. Khối u đã xâm nhập vào não và tủy sống. Từ nhỏ em đã phải trị liệu, đến khi học trung cấp thì bệnh tái phát. Em trở lại y viện để chữa trị. Chữa trị được một thời gian thì tóc rụng hết, bạch huyết cầu xuống rất thấp, thấp đến nỗi phải nằm bệnh viện, và cách ly với người khác nữa, lại thường mang khẩu trang để tránh lây nhiễm. Bấy giờ gần đến lễ tốt nghiệp, em rất muốn đến tham dự lễ, nhưng bác sĩ thấy em có thể nguy hiểm sinh mạng bất cứ lúc nào, nên không muốn em dự lễ, vì như thế là quá mạo hiểm, do đó không chịu cho em xin phép nghỉ để đi dự lễ.
Hôm ấy, khi tôi đến khám cho em, em ngồi trên giường mà chảy nước mắt thất vọng vô cùng. Em nói với tôi, không biết em sống để làm gì, ngày ngày phải bị giam mình trong phòng bệnh để chích thuốc, quả thực chết còn hơn. Mẹ em cũng không biết cách nào để an uỉ em. Cô bé nhỏ như thế mà phải chịu đau khổ như thế, tôi nhìn cô mà lòng chua xót.
Tôi nhận ra rằng một người phải sống cho có quang minh, có hi vọng, càng chịu nhiều khổ đau khi chữa trị thì mới có ý nghĩa, và mới hiểu rõ ra. Thực ra, vị bác sĩ nào cũng không thể bảo đảm rằng có một người bệnh cứ mãi giam mình trong y viện thì tuyệt đối không thể chết; cho nên tôi nói với em: “Chúng ta hãy cùng nhau niệm Phật cầu Phật gia hộ cho em. Tôi kí tên để em tham dự lễ tốt nghiệp”, em nghe tôi nói liền trố mắt, vui vẻ hỏi tôi: “Thật đấy chứ?” Tôi nói: “Đương nhiên là thật. Em cứ niệm A Di Đà Phật đi”Sau khi đồng ý cho phép em nghỉ, tôi liền gọi điện thoại cho cô giáo của em và nói: “em bé này rất ngoan, em rất mong có thể đến trươnø g học mà mãi vẫn không đến được. Giờ đây em rất muốn dự lễ tốt nghiệp, nhưng bệnh tình đang lúc nguy hiểm. Có nhiều đứa bé thân thể rất khỏe mạnh, nhưng lại không biết thương mình, không biết quí mình, lại không thích đi học. Còn con bé này thì đã chịu bao nhiêu đau khổ, lại vẫn rất muốn đi học. Sự đau khổ mà em phải chịu thì những em bé bình thường không thể chịu đựng được, hy vọng duy nhất của em là được tham gia lễ tốt nghiệp. Thưa cô, tôi có thể nhờ cậy cô được chăng? Vào hôm lễ tốt nghiệp xin phát cho em một phần thưởng và đề nghị các bạn đồng học khen ngợi em, giúp em qua khỏi cửa khó trong đời. Nếu nhà trường không dự định có phần thưởng, thì tôi xin đảm nhận phần thưởng cho em, để em được dịp vui mừng, vì em đã lâu lắm rồi không có được niềm vui! ...”
Cô giáo của em rất từ bi, rất xót thương em, cô liền đồng ý, cô sẽ bàn với hiệu trưởng, nhất định sẽ phát cho em một phần thưởng lớn, để khích lệ em. Kết quả là tôi đã ký được giấy phép cho em được nghỉ, em cũng được đi dự lễ tốt nghiệp, và lãnh được một phần thưởng lớn mang về. Em hoàn toàn không hay biết việc tôi đã gọi điện thoại cho cô giáo nên em tươi cười rất dễ thương, và vui vẻ kể cho tôi nghe về lễ tốt nghiệp và phát thưởng. Đây là lần đầu tiên tôi thấy em cười! Nhìn thấy em cười tôi cũng vui vẻ với em, vui vẻ đến nỗi chảy cả nước mắt.
Tôi hiểu ra rằng sức mạnh của tâm quả thực rất lớn, sức mạnh của “tâm hoan hỉ” thật không thể nghĩ bàn. Trước đây tôi đã từng nói, khi vui sướng thì não có thể tiết ra chất hóa học làm tăng chất miễn dịch và số lượng, công lực của tế bào T. em chẳng những không bị nguy hiểm gì mà sau khi trở về chưa được mấy ngày thì huyết cầu của em đã tăng vọt lên, tăng vọt đến mức bình thường, có thể xuất viện về nhà được, thì việc đầu tiên là em sẽ đánh đàn cho tôi nghe. Tôi hỏi em: “Em có biết dùng đàn dương cầm để đàn A Di Đà Phật chăng? Vừa đàn vừa niệm Phật.” Em vui vẻ bảo với tôi là khi về nhà em đàn thử xem. Tuy tôi không rảnh để đến nhà em nghe em đánh đàn, nhưng tôi đã nghe tiếng Phật của nội tâm em qua nụ cười của em
BÀI HỌC TỪ HAI VỊ UNG THƯ VÚ ĐỒNG CẢNH GẶP NHAU, KHÔNG ĐỒNG TÂM TRẠNG
Khi tôi còn làm việc tại khoa ung bướu dãy nhà chẩn khám thứ nhất thông với dãy nhà chẩn khám thứ hai bằng một cánh cửa. Một hôm, tại nhà chẩn khám thứ nhất, tôi khám cho một phụ nữ khoảng hơn năm mươi tuổi bị ung thư vú. Bà khóc thảm thiết, vì bấy giờ cục an sinh chưa thông qua cấp phát tiền trợ cấp, bà cảm thấy áp lực nặng nề về cả kinh tế và bệnh tật nên phát khóc vì chịu không nổi.
Bấy giờ ở nhà chẩn khám thứ hai lại có một bệnh nhân hơn ba mươi tuổi bị ung thư vú đang chờ khám. Nghe tiếng khóc từ bên kia vách, bà vẫy tay gọi tôi rồi vốc tiền trong bao ra và nói nhỏ: “Bác sĩ Quách, xin nhờ cô đem chút tiền này đem cho bà bên kia vách”. Bà đỏ mắt mà nói: “mọi người đều cùng đang thọ khổ”. Tôi nghe xong rất cảm động, liền ca ngợi tinh thần Bồ Tát của bà. Vì theo tôi hiểu, hoàn cảnh người bệnh trẻ tuổi này thật ra còn khốn khổ hơn bà kia, vì con của bà đang cần bú mớm, chồng bà thu nhập chẳng bao nhiêu, lại không có trợ cấp an sinh. Bà vốn đã qua phẫu thuật ở một bệnh viện khác, tiền dành dụm hầu như đã dùng hết. Cho nên khi bác sĩ nội khoa của y viện ấy giới thiệu bà tới trị liệu tại y viện này, bà đã vì không thể nào cáng đáng chi phí trị liệu, đành buông xuôi sanh mạng.
Bà nói với tôi, hôm bà đến sơ khám, thấy trên bảng có ghi một câu:
“Dù ngày mai là ngày tận thế
Đêm nay ta vẫn trồng đầy hoa sen trong vườn”
Bà nói với tôi là bà đã nhìn thấy câu ấy, liền phấn khởi trong lòng, muốn tiếp tục sống nên đã mượn tiền của mẹ để chữa trị. Bà nói: “sinh mạng thật vô thường, tuy tôi không đủ sức để cảm nghiệm hết khổ đau, nhưng tôi có chút tấm lòng mong giúp đỡ người cùng chịu cảnh khổ, khiến người ta lìa khổ được vui”.
Tôi nghe bà nói xong, trong lòng rất cảm động. Cùng bị ung thư vú mà người thì buồn khổ, khóc than cho mình, có người thì vượt ra khỏi sự bi ai của mình, tiến lên một bước lau nước mắt cho người khác, phát huy ánh sáng của sanh mạng.
Chúng ta thử nghĩ xem, chưã trị ung bướu phải chịu bao nhiêu cam go? Nếu dùng cái sinh mạng trăm thứ cam go mới đổi được để bi ai khóc lóc thì há chẳng đáng tiếc lắm sao? Tại sao lại không cùng nhau trồng hoa sen trong sạch, thơm tho? Chúng ta được sống một ngày thì trồng hoa sen một ngày, tự nhiên sẽ có được hoa sen tỏa ngát đầy hồ.
Tuy chúng ta không đủ khả năng cống hiến lớn lao, nhưng cho dù một nụ cười cũng bố thí vậy. Nếu có thể khiến tâm chúng ta sinh khởi một tâm từ bi thì dù bệnh tật, nghèo khổ cũng không ngăn ngại gì chúng ta.Chỉ cần một niệm tâm từ bi sinh khởi
Bệnh tật, nghèo khốn đều vô ngại
KHÔNG THỌ NHẬN CÁI KHỔ CỦA MŨI TÊN THỨ HAI
Thọ nhận khổ như bị trúng tên
B? trúng mũi tên thứ nhất, chớ để bị trúng mũi tên thứ hai.
Thái độ của Đức Phật đối với đệ tử cũng giống như của vị thầy đối với học trò. Nhưng nội dung mà Đức Phật dạy cho đệ tử hoàn toàn không phải là số học, lịch sử, mà là phương pháp xử thế làm người, cho nên chúng ta có thể nói, Đức Phật là vị thầy dạy làm người, Đức Phật vì khảo nghiệm trình độ hiểu biết Phật lí của hàng đệ tử, cho nên khi ngài nêu ra một số đề mục ứng dụng, để xem đệ tử hiểu biết bao nhiêu. Có một lần, Đức Phật hỏi đệ tử: “người chưa được nghe Phật lý gặp phải vui sướng, khổ đau, người đã nghe Phật pháp cũng gặp vui sướng, khổ đau, như thế người đã nghe Phật lý và người chịu nghe Phật lý khác nhau ở chỗ nào?” Các đệ tử đáp: “Kính mong Đức Phật làm mắt thấy cho chúng con, mà cho chúng con lời dạy chính xác.” Đức Phật bảo các đệ tử: “Người chưa từng được dạy Phật lý gặp phải khổ đau, thì giống như trúng phải mũi tên thứ nhất; sau khi bị trúng tên, tâm người ấy chấp trước vào mũi tên ấy, càng lúc càng bị mê hoặc, càng lúc càng bị sợ hãi, thật giống như sau khi trúng một mũi tên, lại bị trúng thêm mũi tên thứ hai nữa, cảm thấy càng lúc càng đau đớn. Con người đã được dạy Phật lý, nếu gặp phải khổ đau thì bình tĩnh quán sát khổ đau, tiêu trừ khổ đau. Sau khi bị trúng mũi tên thứ nhất, người ấy sẽ không còn trúng mũi tên thứ hai nữa, thậm chí còn có thể nhổ mũi tên thứ nhất ra.” Đức Phật dạy cho chúng ta không thọ nhận cái đau khổ của mũi tên thứ hai.
Về việc gặp phải điều vui sướng, Đức Phật cũng dạy như thế. Ví như nhìn thấy bông hoa rất đẹp, người đã được Phật dạy cũng cảm nhận vui sướng như mọi người, nhưng tuyệt đối không vì vui sướng mà làm mê muội chính mình. Nếu trong lúc vui sướng mà làm mê muội chính mình thì cũng giống như mũi tên thứ hai mang đau khổ đến; cho nên Đức Phật dạy rằng không thọ nhận cái khổ của mũi tên thứ hai.
Chúng ta, những người đang đau khổ, đều cần hiểu rõ sự giáo hóa của Đức Phật, học tập cái trí tuệ xử lý đau khổ của Đức Phật. Ví như chúng ta bị bệnh đang nằm trên giường, nếu ngày nào chúng ta cũng cứ oán than mình vì sao mà bất hạnh như thế, bị mắc bệnh, oán than cổ họng đau thế này, không biết làm sao ăn cơm, oán than mình vì sao phải gánh chịu nặng nề thế này, nghĩ lại cả đời không làm gì xấu xa, vì sao mà trời lại khiến ta chịu khổ thế này? Nghĩ đến con cái trong nhà không người săn sóc, không biết làm sao? Phiền não vì bệnh của mình, không biết có lành hay không? Cứ phiền não, lo lắng như thế, suốt ngày không ăn cơm được, đến tối không ngủ được, cả ngày nằm mơ cũng mặt mày ủ dột. Chúng ta thử nghĩ xem như thế đối với mình có chỗ nào tốt đâu?
Chúng ta đã bị bệnh thì cái khổ của thể xác cũng giống như trúng phải một mũi tên. Giả như chúng ta lại tự tìm phiền não, lo lắng điều này, oán than điều kia, như thế thì mũi tên thứ hai, mũi tên thứ ba, cho đến thứ tư, thứ năm cũng không ngừng bắn tới, khiến chúng ta càng thêm đau đớn, thân tâm càng thêm hỗn loạn, khiến chúng ta đánh mất cái sáng suốt và trí tuệ vốn có, không có cách gì giải quyết bất cứ vấn đề nào.
Cho nên chúng ta, những người đang chịu khổ, tốt nhất là học tập sự giáo dục của đức Phật, khiến tâm tình bình tĩnh trở lại không phải chịu thêm cái khổ của mũi tên thứ hai. Muốn khiến tâm tình bình tĩnh trở lại, phương pháp tốt nhứt là niệm Phật, niệm “A Di Đà Phật”. Đây là phương pháp vừa giản đơn, vừa nhanh chóng khiến tâm chúng ta bình tĩnh. Trong tâm chúng ta quán tưởng sự quang minh của đức Phật làm sung mãn nội tâm chúng ta, bằng lòng từ bi và trí tuệ của đức Phật. Một khi chúng ta không bị khổ vì mũi tên thứ hai thì sự đau khổ của mũi tên thứ nhất cũng sẽ nhanh chóng tiêu tan. Niệm “A Di Đà Phật” chính là biện pháp tốt nhất để nhổ cái mũi tên ra.
Niệm Phật tâm cảnh thật sáng suốt
Từ bi tỏa diệu hương
Kẻ oán người thân đều do từ bi mà được hoan hỉ, đều cùng hưởng nước Cực Lạc.
ANH DŨNG VƯỢT KHỎI BỆNH UNG THƯ GAN
Chuyện này xảy ra khi tôi còn làm bác sĩ nội khoa ở y viện. Một hôm, vào buổi tối đúng vào phiên trực của tôi, có một bà hơn năm mươi tuổi, ruột bị chảy máu phải nằm viện. Bấy giờ theo thói quen trị liệu, người ta phải đặt cho bà một ống thông từ mũi xuống dạ dày, rót nước lạnh vào để cầm máu, đòng thời để xem bà còn bị chảy máu nữa không. Người bị đặt ống thông như thế đều hiểu rõ, một ống nhựa từ trong ống mũi thông xuống đầu dạ dày, không phải là một sự dễ chịu. Nhưng khi tôi đặt ống cho bà, tôi phát hiện bà là một người rất kiên định, không những không quýnh quáng, kháng cự và có phản ứng ói mửa, thậm chí kéo tay bác sĩ như nhiều người khác, mà bà còn bình tĩnh thậm chí không hề nhíu mày, quả thực khiến tôi khâm phục vô cùng.
Sau đó, tôi kiểm tra thân thể của bà, và phát hiện thấy gan bên phải phần bụng của bà bị sưng lớn, mà lại rất cứng. Tôi chuẩn bị, cứ cách ngày tiến hành kiểm tra từng bước cho bà. Lúc ấy, tôi phát hiện trên tay bà có dấu thẹo gây ra do nhang mà người Phật tử khi thọ giới đốt lên để cúng Phật; tôi mới biết té ra bà là một Phật đồ rất thuần thành. Tối hôm đó, vì không còn phòng cho nên bà phải tạm thời ngủ trên xe đẩy ngoài hành lang. Y viện Nguyễn Tông Hợp mà tôi phục vụ có rất nhiều bệnh nhân, nên các phòng thường hết chỗ, không đủ dùng, thường có nhiều bệnh nhân phải ngủ ngoài hành lang. người bệnh ngủ ngoài hành lang nếu không bực mình vì hành lang có nhiều người qua lại ồn ào, cũng bực mình vì không có vách ngăn hoăïc vì bất tiện khi đi vệ sinh. Nói chung nếu có người ở ngoài hành lang thì tôi cứ phải nghe oán thán mãi.
Tuy nhiên người phụ nữ này lại vượt ngoài dự liệu của tôi. Tối hôm ấy tôi phải bận bịu nhiều việc, suốt cả đêm không coi sóc gì người bệnh đang ở đấy, mà phải lo cấp cứu cho những bệnh nhân ở phía bên kia, mãi cho đến năm giờ sáng mới xong. Khi tôi đến hành lang gần xe đẩy của bà, bà nhìn thấy tôi liền chắp tay nói: “Bác sĩ quách, A Di Đà Phật! Không khí ở đây thật tốt, hơn bốn giờ sáng tôi đã công phu xong.”
Đây là lời nói của một người mà dạ dày, ruột bị chảy máu, lại bị đặt ống thông từ mũi đến dạ dày và phải nằm ở hành lang: “Không khí ở đây thật tốt, hơn bốn giờ sáng tôi đã công phu xong”. Lời nói quả thực khiến tôi cảm động muốn rơi nước mắt. Nếu người khác mà như bà, thì không biết sẽ buồn khổ đến như thế nào! Đâu được như bà mà sáng sớm bình tĩnh thức dậy niệm Phật, tụng kinh; thật là không đơn giản.
Nhưng điều đáng nói nhất là phần sau đây. Kết quả kiểm tra bằng siêu âm hôm sau cho thấy, trong gan của bà có một cục bướu, kết quả kiểm tra sinh thiết, thì rõ ràng là ung thư gan. Vì bà không hề đau đớn, cho nên bà không phát hiện bệnh. Bây giờ vì nhận thấy công phu tu hành của bà rất vững vàng, cho nên tôi định nói thật cho bà biết về bệnh tình của bà. Bấy giờ tôi cũng lo rằng vạn nhất mà bà nghĩ không ra, chịu không nổi, thì không biết phải làm sao! Sinh tử là một việc không giản đơn như thế. Nhưng tôi suy đi nghĩ lại, đối với một Phật giáo đồ chân chính tu hành như bà, tôi nên nói thật để bà chuẩn bị cho tốt. Không ngờ, hình như bà đã sớm chuẩn bị lời lẽ để đáp lại tôi: “Tôi còn sống thêm được một ngày, cũng muốn làm thêm một số việc cho chúng sinh. Nếu ngày ấy đã đến thì tôi nên trở về, suốt cả đời, tôi chờ ngày ấy, Đức Phật A Di Đà sẽ đến đón tôi!” tôi nghe xong rất cảm động, cảm động đến không nói ra lời, trong lòng rất hổ thẹn, tôi đã nhiều lần phản tỉnh, chẳng phải tôi không có được cái tâm tình vĩ đại, thanh thoát như bà đó sao? Trong con mắt tâm của tôi, tuy bà không có tiền, không có thế lực, không có thanh danh, không có địa vị, bà chỉ âm thầm cống hiến chính bà, nhưng địa vị của bà trong mắt tâm tôi rất cao cả, tôi tôn kính bà như tôn kính một vị Bồ Tát vậy.
Bấy giờ các giáo sư làm một thủ thuật nhỏ, chuẩn bị ngăn chặn các mạch máu của khối u trong gan bà, nhưng vì các mạch máu của bà quá quan queo, cho nên thủ thuật lần ấy bị thất bại, bà xuất viện về nhà. Trong mấy tháng đầu tôi thường liên lạc với bà, được biết bà vẫn tham gia lạy Phật, làm việc từ thiện. Một thời gian sau, tôi không còn liên lạc với bà nữa, một là vì tôi bận công việc, hai là mỗi lần định gọi điện hỏi thăm bà, trong lòng tôi đều phát sinh một cảm giác không nói được. Tuy vậy, tôi biết rằng nếu bà không còn trên đời này nữa, thì nhất định bà ở bên cạnh Đức Phật A Di Đà, cỡi hoa sen lớn mà học tập Phật pháp nhiều hơn để làm lợi ích cho chúng sinh. Nhưng vì tôi cảm thấy cái thế giới ô nhiễm này của chúng ta đang cần người như thế, cho nên lòng tôi quả thực không chịu được sự ra đi của bà.
Một tháng, lại một tháng trôi qua, bà mang bệnh ung thư gan nghiêm trọng như thế, thì phần còn lại của sinh mạng kéo dài chẳng được bao lâu. Nhưng vượt ngoài sự thống kê của y học nhiều tháng, có một lần tôi đến ngôi chùa mà bà thường đến, hỏi vị sư ở đó về tình trạng của bà. Nói thật, bấy giờ, lòng tôi hồi hộp, tim đập rất nhanh, không ngờ lời giải đáp cho tôi là: thân thể bà rất khỏe mạnh. Bà vẫn thường giúp đỡ mọi người học tập Phật pháp, lại còn phục vụ cho người cần phục vụ. Tôi nghe xong, tôi ngẩng đầu nhìn tượng Phật trong đại điện, và bỗng dưng tôi hiểu ra, hiểu cái tinh thần của Chư Phật Bồ Tát xả thân vì người. Đôi mắt của Đức Phật như phảng phất nụ cười, lại hình như đầy cả nước mắt.
Chớ phiền não vì sống không được bao lâu. Nên quyết tâm “dù sống được bao lâu cũng nên sống cho tốt”.
Bấy giờ, lòng tôi rất cảm động. Thử nghĩ xem, có nhiều bệnh nhân, hàng ngày cứ phiền não vì mình không còn sống được bao lâu, mà là sống bao lâu họ cũng không sống cho tốt. Từ trước đến nay, họ không hề buông bỏ mình để lo cho người khác, để lợi dụng những năm còn sống mà hiến mình cho tốt. Hàng ngày cứ chui rúc trong xó, mày sầu mặt khổ. Sống như thế thì dù sống một trăm năm, hai trăm năm cũng uổng phí. Như thế là sống một ngày, phiền não một ngày, thậm chí là sống một ngày, phiền não hơn trăm ngày. Sống một ngày là đau khổ một ngày, thậm chí còn nghĩ đến những gì hơn trăm ngày trước đã khiến mình đau khổ. Như thế là sống càng lâu thì càng đau khổ; giống như ăn một chén lại khó ăn, mà không ăn thì không được; còn ăn một tô thì lại muốn ói mửa. Tôi cảm thấy người như thế, phần lớn không phải chết vì bệnh mà chết vì phiền não.
Tôi cũng thường gặp nhiều người cũng vĩ đại như bà ấy. Họ không phiền não về mình, chỉ nghĩ tới việc cống hiến thân mình, phục vụ cho chúng sinh. Kết quả là không cần phiền não về mình, vì chư Phật. Bồ Tát đã sớm an bài đâu vào đấy cho họ rồi. Ngay cả khi bị bệnh, nằm viện loại người này cũng có thể cho người ta lời dạy rất lớn, thậm chí vào lúc sắp chết, cái tinh thần vĩ đại của họ vẫn sống trong con mắt của tôi, là thầy của tôi, là tiêu bảng của tôi, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, tôi đều lưu truyền chuyện của họ, để cho hàng ngàn, hàng vạn người đang chịu khổ biết, trong đau khổ hoàn toàn không nhất định phải mày sầu mặt khổ mà oán thân cho mình. Chỉ cần chúng ta nêu cao tinh thần, phát huy ánh sáng của sinh mạng chúng ta thì chúng ta đã sống một đời không uổng phí. Chúng ta đều có thể học tập theo các vị nữ cư sĩ ấy, đầy đủ lòng tin rằng chỉ cần chúng ta sống một ngày, chúng ta cũng làm việc vì chúng sinh. Đến khi chúng ta phải ra đi, đức Phật A Di Đà nhất định sẽ tiếp đón chúng ta.
XÃ HỘI ĐEN TRỞ THÀNH HỘI LIÊN TRÌ THẢM ÁN TRỞ THÀNH VỞ KỊCH VUI TIẾNG GỌI CỦA MÁY ĐẾM SỐ
Tôi có quen một vị Pháp sư, ngài đã chỉ dẫn và giúp đỡ tôi rất nhiều. Vị Pháp sư này rất từ bi, nhiệt tâm. Hễ hô niệm cho ai, ngài cũng tận tâm, tận lực. Nếu ngài không kể với bạn thì nhất định bạn không biết, trước kia ngài đã từng tham gia băng cướp. Ngài kể với chúng tôi ngài đã từng là “Hình đường”, . Tôi vốn không biết “Hình đường” là gì, ngài bảo: “Đó là giả như có người phạm luật lệ băng đảng, thì người phụ trách xử tội được gọi là “Hình đường”, ví như: “Chặt ba ngón tay v.v”. ngài bảo trong giày ống của họ có giấu lưỡi dao, họ thường đi đánh nhau. Nhưng sau khi ngài xuất gia, tu hành, niệm Phật lâu năm, người ta không biết được hình ảnh của ngài trong quá khứ.
Có lần, mấy cư sĩ chúng tôi đến hầu thăm Pháp sư, gặp lúc phát sinh sự việc. Có một thủ lĩnh băng đảng xã hội đen đến cảm ơn ngài. Chúng tôi rất thích thú biết được nội dung. Té ra ngàt cầm đầu băng đảng này có cơ hội bất ngờ gặp Pháp sư này. Pháp sư từ bi khuyên ông niệm Phật, và kể rằng ngài đã từng trãi qua những gì giống như ông ta vậy. Người cầm đầu băng đảng cùng Pháp sư trò chuyện rất tâm đắc. Pháp Sư bèn cho ông ta một máy đếm số dùng để niệm Phật. Ông bỏ máy này trong xe hơi. Về sau nhóm người của ông bất hòa với một nhóm người khác mà sanh rắc rối, nhóm của ông quyết định phải bắt cho được người cầm đầu, ít nhất phải chặt một chân người ấy. Do đó mọi người đều theo đó mà làm. Quả thực họ đến bắt người ấy, bỏ lên xe rồi chạy vào nghĩa địa vắng vẻ, chuẩn bị ra tay tại đó.
Nhưng không ngờ, chẳng bao lâu sau khi người cầm đầu lái xe ấy đi, vì đường không bằng phẳng nên xe bị xốc, máy đếm số niệm Phật để trước tay lái cũng nảy lên nảy xuống, tựa hồ đang kêu gọi ông: “Niệm Phật đi! Niệm Phật đi!” Cũng tựa lòng từ bi của đức Phật đang cảnh giới ông.
Ông nhìn thấy máy đếm số rồi bất giác với tay cầm lên, đồng thời bất giác niệm mấy tiếng “A Di Đà Phật”, “A Di Đà Phật” Niệm như thế, tâm của ông bỗng lắng dịu xuống. Ông nghĩ đến vị Pháp Sư đã cho ông máy đếm số. Vì sao người ta có thể xuất gia tu hành, hối cải lỗi lầm, mà tại sao ta vẫn cứ phải phạm tội? Ông niệm “A Di Đà Phật”, “A Di Đà Phật”, rồi bỗng nhiên ra lệnh cho đồng bọn: “Ta không can dự nữa!”
Đồng bọn nói: “Đại ca, vì sao anh không can dự nữa? Anh không can dự, chúng tôi can dự cũng không có ý nghĩa gì!” Do đó ông ta một niệm hồi tâm, quay đầu xe lại, đi mua vài chai nước ngọt, mời mọi người uống, đồng thời cũng mời đối phương bị trói uống.
Người nhà của đối phương vốn đã chuẩn bị chống lại, cảnh sát cũng bắt đầu điều tra tìm người. Nhưng sức công đức của việc niệm Phật khiến thảm án sắp xảy ra, biến thành màn kịch vui. họ biến đổi chiến tranh thành hòa bình, đạo gậy thành lễ vật, không có chuyện đổ máu xẩy ra, cũng không có việc tự đưa mình vào tù. Về sau người cầm đầu ấy càng suy nghĩ càng cảm kích. Vị Pháp Sư đã giao máy ấy cho ông niệm Phật, chẳng những cứu được ông lại còn cứu được cả đối phương của ông. Ông quay về cảm tạ Pháp Sư.
Mọi chúng sinh đều có Phật tính, công đức của danh hiệu A Di Đà Phật không thể nghĩ bàn, có thể xúc động mầm thiện của người ta, có thể khai mở Phật tính của người ta. Một niệm hồi tâm niệm Phật, các anh em băng đảng xã hội đen cũng có thể trở thành chư Bồ Tát của Hải hội liên trì. Tôi vô cùng tôn kính người thủ lĩnh ấy. Ông có được sự giác tỉnh, liền quay đầu xe: “Biển khổ vô biên, quay đầu là bến”. Tôi phản tỉnh mình, nếu phát giác hành vi của mình là không đúng, thì tôi cũng có được dũng khí, như ông ta không để quay đầu ngay, sám hối, cẩn thận tu sửa chính mình? Quả thật tôi không được như ông! Ông có thể buông bỏ phiền não của mình, có dũng khí để sửa đổi mình, quả thật là một đại anh hùng khó sánh!
Chặt đứt phiền não quả là anh hùng.