F2. Số lượng phát tâm
F3. Trừ tà phân biệt
F4. Quyết trạch khả năng giải thoát sinh tử
G1. Thân nào diệt trừ sanh tử
G2. Tu tập con đường nào để diệt trừ
F2. Số lượng phát tâm.
Từ hai môn khổ đế và tập đế biết rõ hành tướng thế gian, nếu như chỉ sinh khởi tâm mong cầu xả ly, và chứng đắc Niết bàn tịch diệt, tuy đó cũng gọi là tâm xả ly, nhưng vẫn chưa đủ. Ví như người đang ở trong nhà lửa, hoặc bị lao tù, đối với nhà lửa ngục tù sinh khởi tâm bất mãn càng lớn bao nhiêu, thì tâm mong cầu vượt thoát càng mãnh liệt bấy nhiêu, tuy thế, sau đó vẫn phải tiếp tục tăng gia lòng mong muốn thoát ly này. Ngài Hạ Nhạ Ngõa nói: “Giống như vấy một ít bụi trên mặt chung rượu, những hạt bụi này chỉ nổi lều bều trên mặt rượu, tương tự, hành giả nếu phát tâm xả ly thế gian cạn cợt, thì lòng mong cầu giải thoát, trừ diệt khổ tập, cũng chỉ giống như hạt bụi trên mặt chung rượu mà thôi.” Bởi thế, tuy cũng muốn tu tập đạo giải thoát, nhưng vẫn chỉ là những lời nói xuông. Hơn nữa, cũng không thể sinh khởi tâm Đại bi, thương xót các chúng sinh đang đắm chìm trong sinh tử, mà cũng chẳng thể khởi phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nếu tự xưng mình là hành giả Đại thừa thì cũng chỉ là trên đầu môi chót lưỡi. Bởi thế, hành giả cần phải thường xuyên tu tập quán sát.
F3. Trừ tà phân biệt.
Có người cho rằng: “Nếu tu tập sự nhàm chán sinh tử, mong cầu xuất ly, thì cũng giống như hàng Thanh văn nhàm chán thế gian, ắt sẽ đọa vào cảnh giới tịch diệt của Nhị thừa. Sự tu tập nhàm chán thế gian, đối với Tiểu thừa tuy là thượng sách, thế nhưng, nếu Bồ tát tu tập pháp này thì thật là điều phi lý. Đây là lời dạy trong Bí Mật Bất Khả Tư Nghị Kinh.” Trả lời: “Kinh dạy Bồ tát không nên sợ hãi thế gian, không có nghĩa là những hành giả đang còn bị nghiệp lực khống chế, bị trôi lăn trong sinh tử, nhận thọ sự khổ sinh lão bệnh tử, không cần mong cầu xuất ly, mà có nghĩa là các Bồ tát bi nguyện đã được tự tại (bi tăng thượng), vì muốn lợi ích hữu tình, thị hiện thọ sinh trong ba cõi, không nên sợ hãi thế gian. Bởi vì những hành giả vẫn còn bị hoặc nghiệp khống chế, luân hồi sinh tử, bị sự khổ bức bách, công hạnh tự lợi còn chưa tu tập được, huống gì tu tập những công hạnh lợi tha.” Đây là một sự kiện suy tổn lớn lao, cho nên Bồ tát càng phải nhàm chán thế gian gấp vạn lần so với Thanh văn. Thế nhưng, những bậc bi nguyện tự tại thì phải nên hoan hỷ thọ sinh vào thế gian để lợi ích hữu tình. Kinh trên cũng nói: “Chư Bồ tát vì muốn tất cả hữu tình đều được thành thục, dễ bề hóa độ, nếu ở thế gian, thấy được công hạnh lợi ích chúng sinh thì không nên an trụ trong cảnh giới Niết bàn.” Giả sử chưa hiểu rõ ý nghĩa này mà vội hàm hồ cho rằng Bồ tát không nên ham thích Niết bàn, nếu hành giả đó đã thọ giới Bồ tát thì sẽ phạm tội đột kiết la, phạm với tâm nhiễm ô. Đây là lời dạy trong Bồ Tát Địa. Nếu sau khi phát tâm cầu xuất ly sinh tử, quán sát hữu tình như thân thuộc, vì muốn làm lợi ích cho họ, thì phải nên phát Bồ đề tâm. Đây là mật ý của Tứ Bách Tụng.
Ngài Nguyệt Xứng cũng đã dạy như thế.
F4. Quyết trạch khả năng thoát ly sinh tử.
G1. Thân nào diệt trừ sinh tử.
Như phần trên đã nói, tu tập quán sát sự trầm kha của sinh tử, sinh khởi tâm mãnh liệt mong cầu xuất ly, trừ diệt sinh tử. Thân Hữu Thư nói: “Diệt trừ tám điều không nhàn hạ để được thân nhàn hạ, lúc đó mới có thể tu tập sự lợi ích đời sau.” Điều này có nghĩa phải nên lợi dụng cơ hội tốt đẹp này để tu tập diệt trừ sinh tử, nếu gặp nghịch cảnh (tám điều không nhàn hạ) ắt không thể tu tập cầu giải thoát. Ngài Đại du già sư (Milarepa?) nói: “Đây là lúc vượt thoát nẻo súc sinh.” Ngài Bác Đỏa Ngõa cũng nói: “Từ xưa đến nay bị luân hồi không thể vượt thoát, hiện nay cũng chưa thể vượt thoát, cho nên phải tu tập xuất ly sinh tử. Có được cơ hội tốt đẹp để tu tập, hiện nay chính là lúc thời cơ thuận tiện nhất.”
Hơn nữa, sự tu tập của những hành giả tại gia không những có nhiều chướng ngại, mà còn dễ tạo nghiệp xấu. Các hành giả xuất gia thì tương đối dễ dàng tu tập, và ít tạo nghiệp xấu. Cho nên dùng thân xuất gia tu tập diệt trừ sinh tử là một sự kiện thù thắng bậc nhất. Những hành giả thiện xảo phải nên hâm mộ đời sống xuất gia, phải nên nguyện xuất gia. Điều này muốn nói rằng hành giả nên nguyện thọ giới tỳ kheo. Trang Nghiêm Kinh Luận cũng nói:
Nên biết thân xuất gia,
Đủ vô lượng công đức,
Hơn Bồ tát tại gia,
Tinh tấn trì giới hạnh.
Như vậy, không chỉ vì sự tu tập giải thoát sinh tử mà tán thán công đức xuất gia, mà ngay trong các pháp tu cầu thành Phật của hai thừa Hiển giáo và Mật giáo cũng cho rằng đời sống xuất gia là thù thắng. Giới xuất gia tức là giới biệt giải thoát (nhiếp luật nghi) trong ba tụ tịnh giới của Bồ tát. Hành giả phải nên khởi tâm cung kính giới pháp Biệt giải thoát này.
G2. Tu tập con đường nào để diệt trừ.
Thân Hữu Thư nói:
Dù cho lửa dữ cháy trên đầu,
Toàn thân y phục cháy thành tro,
Khổ này tuy vậy, vẫn chịu được,
Cầu chứng vô sinh còn gấp hơn,
Cần cầu thi la, và định tuệ,
Tịch tĩnh điều nhu, lìa tai ương,
Niết bàn vô tận, không lão tử,
Sinh già bệnh khổ đều thong dong.
Điều này có nghĩa là hành giả cần phải tu tập ba học giới định tuệ. Ở đây tuy chỉ hướng dẫn bậc trung sĩ, nhưng cũng phải nói rộng về ba pháp giới định tuệ làm phương tiện tu tập. Thế nhưng, hai pháp tu chỉ quán sẽ được trình bày tường tận trong phần thượng sĩ đạo, trong phần này chỉ nói sơ lược về giới học. Trước tiên, hành giả phải thường tư duy về lợi ích thù thắng của giới luật, nếu tâm quyết định, sự tu tập giới luật sẽ dũng mãnh tăng trưởng. Thân Hữu Thư nói:
Chúng sinh trụ trong giới,
Như đất sinh tất cả.
Diệu Tý Kinh cũng nói:
Giống như lúa mạ nương vào đất
Không bị hư hoại, được phát sinh
Nếu y vào giới, các pháp lành
Nước bi thấm nhuần, được tăng trưởng.
Nên theo lời dạy vừa nêu trên mà suy ngẫm.
Hành giả sau khi thọ giới, cẩn thận hộ trì sẽ được rất nhiều lợi ích thù thắng. Nếu như thọ mà không hộ trì cũng sẽ bị rất nhiều sự tổn hoại. Tỳ Kheo Trân Ái Kinh nói:
Hoặc giới đem an lạc,
Hoặc giới đem đau khổ,
Giữ giới ắt an lạc,
Phá giới ắt đau khổ.
Văn Thù Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh nói:
Trì chú mà phá giới,
Không được thượng tất địa,
Trung phẩm cũng không thành,
Cũng không thành hạ phẩm,
Phật nói người phá giới,
Trì chú không thành tựu,
Cũng không chứng Niết bàn,
Cảnh giới và phương sở,
Đâu cũng gặp ác nhân,
Chú làm sao thành tựu,
Những kẻ phá giới này,
Làm sao sinh cõi lành,
Cõi trời còn chưa sinh,
Không được vui thắng diệu,
Làm sao mà thành tựu,
Mật chú do Phật nói.
Những lời dạy trên nêu rõ sự tổn hoại của việc không nghiêm trì giới luật. Hành giả phải nên thường thường suy ngẫm. Tam Muội Vương Kinh nói:
Đối với người tại gia,
Ta nói những học xứ,
Lúc ấy các tỳ kheo,
Không còn các giới này.
Điều này muốn nói rằng khi các tỳ kheo không thể giữ năm điều giới (nghĩa là lúc đó không còn người xuất gia), thì những người tại gia tinh tiến thủ hộ năm điều giới này sẽ được vô lượng công đức. Cho nên các hành giả phải nên nỗ lực hộ trì giới luật. Kinh ấy cũng nói:
Cùng tận vị lai hằng sa kiếp,
Dùng lòng tin Phật đem ẩm thực,
Lại đem dù, lọng, phan, đèn, nến,
Thừa sự vô số vô lượng Phật,
Nếu ở thời Chánh pháp suy hoại,
Thánh giáo của Phật sắp điêu tàn,
Trong một ngày đêm trì một giới,
Phước này thù thắng hơn phước trên.
Phương pháp tu học thế nào? Đối trị bốn loại nguyên nhân sinh khởi tội chướng. (1) Đối trị sự vô tri: cần phải lắng nghe để hiểu rõ tất cả học xứ mà hành giả đang thọ trì. (2) Đối trị sự phóng dật: cần phải ghi nhớ cảnh sở duyên của những hành tướng thủ xả, và phải thường quán sát ba môn (nghiệp chướng, phiền não chướng, sở tri chướng), biết rõ sự chuyển biến của các nghiệp thiện ác. Nương vào tự lực hoặc pháp lực, sinh khởi tâm tàm (tự mình nhận thức điều quấy), và tâm quý (sợ người khác quở trách mình làm quấy), sợ hãi quả báo của việc ác mà khởi tâm phòng hộ. (3) Đối trị sự bất kính: đối với các bậc đại sư, những điều răn cấm, và các bạn đồng tu, đều phải nên khởi tâm cung kính. (4) Đối trị phiền não xí thạnh: quán sát thân tâm đều là phiền não xí thạnh, nỗ lực tu tập đối trị. Nếu như không nỗ lực đối trị, cho rằng sự vi phạm không đáng kể, lỗi lầm nhỏ nhặt, đối với những điều cấm chế, mặc tình phóng túng, rốt cuộc sẽ gặt lấy quả báo khổ sở. A Hàm Kinh nói:
Đối với lời dạy của Đức Phật
Cho rằng nhỏ nhặt mà vi phạm
Người đó sẽ thọ quả báo khổ
Như phá rào, hoại cây Am la.
Trên đời có người phạm luật vua
Hoặc giả, không bị vua trị tội
Thế nhưng, vô cớ phạm giới cấm
Bị đọa loài rồng Y bát la.
Bởi thế, hành giả phải nên nỗ lực không để vi phạm; giả như lỡ phạm, cũng không nên bỏ qua, mà phải cố gắng y theo các nghi quỹ để sám hối thanh tịnh. Các pháp tắc hộ trì giới luật tuy là luật nghi biệt giải thoát, nhưng các hành giả Mật giáo cũng phải nên tuân hành đúng pháp. Diệu Tý Kinh nói:
Giới biệt giải thoát Phật đã dạy
Tịnh giới điều phục mọi phiền não
Hành giả tại gia, trừ hình tướng
Quỹ tắc, ngoài ra, đều phải học.
Điều này có nghĩa là những hành giả Mật giáo tại gia, ngoại trừ một vài hình tướng y phục, các nghi quỹ yết ma, và một số luật nghi cuả người xuất gia, tất cả phần giới luật còn lại đều phải học tập, huống chi những hành giả Mật giáo xuất gia (mà không chịu tu học). Ngài Khang Long Ba nói: “Đang lúc đói khát, lương thực là quan trọng nhất, như vậy, tất cả sự tu tập đều liên hệ đến giới luật, cho nên cần phải siêng năng tu học.” Thế nhưng, muốn trì giới thanh tịnh, nếu không tư duy về nghiệp quả (của sự phạm giới), thì sự trì giới thanh tịnh sẽ không thành tựu. Cho nên sự tư duy về nghiệp quả là giáo thọ bí mật, là giáo thọ chân thật của chư Phật. Ngài Hạ Nhạ Ngõa cũng nói: “Tóm lại, thiện ác nương vào pháp mà sinh khởi. Trong Phật pháp, nếu y vào giới luật mà tu tập, ắt sẽ không còn do dự, nội tâm thanh tịnh, thường được sự hỷ lạc. Sau này sẽ đưọc quả báo thiện diệu.”
Ngài Geshe Đôn Ba nói: “Có một loại hành giả thích trì giới, hủy báng sự tu tập mật chú, lại có một loại hành giả tu tập mật chú, hủy báng sự trì giới, nhưng họ đâu biết mật chú là bạn của giới luật, giới luật là bạn của mật chú. Lời dạy của bậc Thượng sư của tôi (Tôn giả Atisha) bao quát cả hai (trì giới và mật chú).” Tôn giả Atisha cũng nói: “Ở Ấn Độ, lúc gặp sự việc quan trọng, hoặc sự việc đột xuất, thường triệu tập các vị thọ trì Tam tạng, hỏi xem sự việc đó, trong Tam tạng kinh điển có cấm ngăn hay không, có đi ngược với lời dạy trong Tam tạng hay không? Sau khi được quyết định, sự việc cứ y theo đó mà tuân hành. Ở Chùa Liên Hoa Giới có hỏi thêm là trong Bồ tát hạnh có ngăn cấm hay không, có đi ngược với Bồ tát hạnh hay không? Bất cứ sự việc gì đều y cứ vào sự phán quyết của Luật sư.”
Đến đây đã giải thích xong phần tu tâm của bậc trung sĩ.