E3. Thứ tự tu tâm chung với bậc thượng sĩ
F1. Nói rõ sự phát Bồ đề tâm là ngưỡng cửa đi vào Đại thừa
F2. Làm sao phát khởi Bồ đề tâm
G1. Thứ tự tu tập Bồ đề tâm
H1. Bảy tầng nhân quả
I1. Thứ tự quyết định sanh khởi
J1. Nói rõ tâm Đại bi là căn bản của Đại thừa
K1. Sự quan trọng lúc ban đầu
K2. Sự quan trọng ở đoạn giữa
K3. Sự quan trọng vào lúc cuối
J2. Những nhân quả khác là pháp nhân quả của nó
K1. Từ “nhớ mẹ” đến “từ tâm” là nhân
K2. Ý nhạo tăng thượng và phát tâm thành tựu Phật quả
E3. Thứ tự tu tâm chung với bậc thượng sĩ.
F1. Nói rõ sự phát Bồ đề tâm là ngưỡng cửa đi vào Đại thừa.
Sau một thời gian lâu dài tu tập [hai pháp Hạ sĩ đạo và Trung sĩ đạo], hành giả nhận rõ họa hoạn của sự lưu chuyển sinh tử, biết rằng ba cõi giống như hầm lửa, vì muốn giải thoát khỏi phiền não khổ bức, chứng đắc Niết bàn, cho nên đã cấp bách tu học giới định tuệ, để được giải thoát ra khỏi sinh tử. Điều này tuy khác với pháp tu thiện thế gian, không còn bị thoái thất đọa lạc, thế nhưng, hành giả chỉ mới thu hoạch được một phần nhỏ công hạnh đoạn diệt phiền não chứng đắc quả đức (Niết bàn). Đối với việc tự lợi chưa được viên mãn, còn đối với việc lợi tha thì cũng chỉ làm được vài phần nhỏ nhặt. Rốt ráo vẫn phải cần chư Phật khuyến thỉnh để hướng nhập Đại thừa.
Cho nên những bậc đầy đủ trí tuệ, lúc bắt đầu phát tâm [tu học Phật pháp], lập tức quy hướng Đại thừa. Đây là điều vô cùng hữu lý. Nhiếp Độ Luận nói:
Nếu không đủ sức lợi thế gian,
Phải nên trừ khử tâm Nhị thừa,
Đức Phật đã chỉ Đại bi thừa,
Dùng sự lợi tha làm tự tính.
Nếu thế, chúng ta cần phải ưa thích uy đức, hạnh nghiệp của chư vị Bồ tát, gánh vác sự nghiệp lợi lạc hữu tình, đây mới là điều hợp lý. Giả như chỉ quan tâm đến việc tự lợi thì có khác gì những loài động vật khác, vì thế, bổn tính của chư vị Bồ tát là chuyên tâm an trụ trong sự nghiệp lợi tha. Đệ Tử Thư nói:
Súc sinh chỉ biết ăn một mình,
Lúc khát gặp nước mừng vui uống,
Bồ tát tinh tiến việc lợi tha,
Vì thích công đức lực thù thắng,
Như mặt trời chiếu soi rực rỡ,
Mặt đất nâng đỡ không phân biệt,
Bồ tát chẳng màng sự tự lợi,
Một lòng chỉ biết lợi thế gian.
Những bậc thấy chúng sinh bị khổ bức bèn tu tập công hạnh quên mình lợi người thì được gọi là Bồ tát, cũng được gọi là bậc thiện xảo. Lại nói:
Chúng sinh bị vô minh che lấp,
Bất lực chìm ngụp trong lửa khổ,
Thấy thế giống như đầu bị cháy,
Đây gọi là Bồ tát thiện xảo.
Cho nên, Đại thừa là cội nguồn sinh khởi tất cả sự lợi lạc tự tha, là thuốc thần trị liệu tất cả sự suy tổn, là con đường lớn dẫn dắt tất cả Bồ tát thiện xảo, tất cả sự thấy nghe nhớ nghĩ đều có thể trưỡng dưỡng tất cả chúng sinh, tạo tác công hạnh lợi tha mà vẫn thành tựu công hạnh tự lợi, không chỗ nào không toàn vẹn, đây là con đường rộng lớn Đại thừa đầy đủ uy lực thiện xảo mà Bồ tát có thể tiến nhập. Hành giả phải nên tư duy đây là điều cực kỳ hiếm có, thật vô cùng vinh hạnh được tu tập, và phải nên cố gắng hết sức, dùng tất cả công lực hiện có để tiến nhập con đường vi diệu Đại thừa.
Như vậy, nếu cần phải tiến nhập Đại thừa thì đâu là ngưỡng cửa bước vào? Đức Phật nói có hai loại, một là Ba la mật thừa (Hiển thừa, hoặc Hiển giáo), và Mật thừa (hoặc Mật giáo). Ngoài hai thừa này ra, không còn con đường Đại thừa nào khác. Hai thừa này do cửa nào tiến nhập? Đó chính là Bồ đề tâm. Bất cứ khi nào sinh khởi tâm này, dù chưa hề tu tập các công đức nào khác, hành giả cũng được gọi là tiến nhập và an trụ Đại thừa. Ngày nào thoái thất Bồ đề tâm, dù lúc đó hành giả đã thông đạt công đức Tính không, v.v..., cũng bị gọi là thoái lui vào hàng ngũ Thanh văn, thoái thất giai vị Đại thừa. Điều này đã được nhiều kinh điển Đại thừa đề cập đến. Cho nên sự tiến thoái giai vị Đại thừa đều căn cứ vào hành giả có thoái thất tâm Bồ đề hay không mà đoán định, giống như Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Nếu phát Bồ đề tâm,
Tức khắc tên Phật tử. (Phẩm Một, kệ 9)
Từ Thị Giải Thoát Kinh cũng nói: “Thiện nam tử, vật báu bằng kim cương tuy bị phá nát, cũng vẫn trội hơn các đồ trang sức bằng vàng, v.v..., ánh sáng trùm khắp tất cả, không mất tên kim cương, mà vẫn có thể ngăn chận (cứu vớt) sự bần cùng thiếu thốn. Thiện nam tử, nếu như phát khởi tâm kim cương báu nhất thiết chủng trí (Bồ đề tâm), dù chưa tu hành, vẫn vượt hơn các công đức trang nghiêm của tất cả Thanh văn Độc giác, cũng không mất tên Bồ đề tâm, và có thể ngăn chận tất cả sự bần cùng thiếu thốn trên thế gian.” Nghĩa là hành giả chỉ mới phát Bồ đề tâm, tuy chưa học tập Bồ tát hạnh, cũng có thể gọi là Bồ tát. Nếu chỉ cho rằng “pháp” là Đại thừa thì e chưa đủ, mà điều cốt yếu là hành giả đó phải tiến nhập và an trụ trong pháp Đại thừa. Cho nên, muốn trở thành một hành giả Đại thừa, cần phải có Bồ đề tâm làm nền tảng. Nếu như chỉ hiểu biết Bồ đề tâm qua những kiến giải thông thường, mà vội cho rằng mình là hành giả Đại thừa, thì đây chỉ là hư danh. Nếu có đầy đủ Bồ đề tâm chân thật ắt sẽ là một hành giả Đại thừa thanh tịnh. Cho nên mọi hành giả phải nên nỗ lực phát khởi và thành tựu tâm này. Hoa Nghiêm Kinh nói: “Thiện nam tử, Bồ đề tâm là hạt giống cho tất cả Phật pháp.” Điều này cần phải giải thích bằng một thí dụ. Ví như dùng nước, phân bón, sức nóng (ánh mặt trời), đất, v.v…, hòa hợp với hạt giống lúa mì, sẽ trở thành nhân cho lúa mì; nếu hoà hợp với hạt giống lúa mạch, đậu, v.v…, thì sẽ không trở thành nhân cho lúa mì. Cho nên nước, phân bón, ánh mặt trời, đất, v.v…, là nhân chung (Hán: cộng nhân). Còn các hạt giống rau quả, tuy hòa hợp với các duyên khác, cũng không trở thành nhân cho lúa mì, v.v… Như vậy hạt giống rau quả, v.v…, là nhân riêng (Hán: bất cộng nhân), bởi vì khi chúng hòa hợp với nước, phân, v.v…, thì sẽ trở thành nhân cho rau quả, v.v… Tương tự, tâm Vô thượng Bồ đề là nhân riêng để thành Phật, giống như những hạt giống là nhân riêng cho từng loại hoa trái khác nhau, còn trí tuệ thông đạt Tính không thì giống như nước, phân bón, v.v…, là nhân chung cho ba loại Bồ đề (Thanh văn, Duyên Giác và Phật). Bảo Tính Luận nói: “Lòng tin hiểu Đại thừa (Bồ đề tâm) là cha, trí tuệ sinh Phật pháp là mẹ.” Điều này muốn nói lòng tin hiểu Đại thừa giống như cha, là nhân riêng, còn trí tuệ thông đạt vô ngã, giống như mẹ có thể sinh ra các đứa con khác nhau, là nhân chung. Ví như cha là người Tây Tạng ắt sẽ không sinh những đứa con người Tàu, người Ấn, v.v… Người cha quyết định tộc tính của đứa con. Nhưng nếu mẹ là người Tây Tạng thì có thể sinh ra những đứa con tộc tính khác nhau, ví dụ lấy người Tàu thì sinh con Tàu, lấy người Ấn thì sinh con Ấn, v.v… Tán Tuệ Độ của ngài Long Thọ cũng nói: “Chư Phật, chư Độc giác, cùng các vị Thanh văn, giải thoát do trí tuệ, không còn nhân nào khác.” Chư Độc giác, Thanh văn cũng nhờ vào trí tuệ mà được giải thoát, cho nên nói Bát nhã ba la mật đa là mẹ. Trí tuệ là mẹ của cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa, cho nên không thể dùng sự thông đạt Tính không để phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa, mà phải dùng Bồ đề tâm và công hạnh quảng đại để phán định. Bảo Man Luận nói:
Trong pháp của Thanh văn,
Không nói Bồ tát nguyện,
Tu công hạnh, hồi hướng,
Cùng pháp thành Bồ tát.
Nghĩa là không thể dùng kiến giải để biện biệt, mà phải dùng công hạnh để quyết đoán sự khác biệt giữa hai thừa. Như vậy, trí tuệ thông đạt Tính không còn không thể trở thành con đường Đại thừa riêng biệt, huống hồ là các đạo phẩm khác (không phải trí tuệ). Cho nên, hành giả phải nên đặt giáo pháp Bồ đề tâm làm trung tâm điểm mà tu tập.
F2. Làm sao phát khởi Bồ đề tâm.
G1. Thứ tự tu tập Bồ đề tâm.
H1. Bảy tầng nhân quả.
Bảy tầng nhân quả nghĩa là: (1) viên mãn quả Phật từ Bồ đề tâm sinh, (2) Bồ đề tâm từ tăng thượng ý nhạo sinh, (3) ý nhạo từ Đại bi tâm sinh, (4) Đại bi tâm từ Từ tâm sinh, (5) Từ tâm từ tâm báo ân sinh, (6) tâm báo ân từ tâm nhớ ơn sinh, (7) tâm nhớ ơn từ sự “biết mẹ” sinh. Theo thứ tự như thế nói có bảy tầng.
I1. Thứ tự quyết định sinh khởi.
J1. Nói rõ tâm Đại bi là căn bản của Đại thừa.
K1. Sự quan trọng lúc ban đầu.
Hành giả do lòng Đại bi tác động lên tâm thức, mong tất cả hữu tình được thoát ly sự khổ sinh tử, cho nên phát khởi quyết định thệ nguyện. Nếu lòng Đại bi yếu ớt, ắt không thể làm như thế. Hành giả cần phải gánh vác trách nhiệm to tát là đưa tất cả chúng sinh đến sự giải thoát thì [chính mình] mới được tự tại. Nếu không gánh vác trách nhiệm to lớn này thì không thể tiến nhập Đại thừa. Cho nên tâm Đại bi rất quan trọng vào lúc ban đầu. Vô Tận Tuệ Kinh nói: “Lại nữa, Đại đức Xá Lợi Phất, tâm Đại bi của chư Bồ tát vô tận. Vì sao? Vì nó là tiền đạo. Đại đức Xá Lợi Phất, ví như hơi thở là tiền đạo của mạng sống con người, thì tâm Đại bi của chư Bồ tát là tiền đạo của sự tu tập Đại thừa.” Tượng Đầu Sơn Kinh cũng nói: “Bạch ngài Văn Thù Sư Lợi, cái gì là động lực tới lui [trong sinh tử] của Bồ tát, cái gì là nơi tới lui của Bồ tát.” Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Tâm đại bi là động lực tới lui của Bồ tát, còn hữu tình là nơi tới lui của Bồ tát.”
K2. Sự quan trọng ở đoạn giữa.
Hành giả tuy an trụ trong sự phát tâm lúc đầu, nhưng khi thấy số lượng hữu tình vô lượng, hoàn cảnh ác liệt, học xứ Bồ tát rất khó thực hành, không có giới hạn, phải trải qua một thời gian tu tập lâu dài, nếu như sinh tâm khiếp nhược, sẽ thoái lui vào Tiểu thừa. Cho nên tâm Đại bi không phải chỉ phát một lần, mà cần phải siêng năng tu tập, khiến cho tăng trưởng. Nếu hành giả không màng đến sự khổ vui của chính mình, không nhàm chán việc lợi tha, ắt sẽ sớm viên mãn tất cả tư lương [thành Phật].
K3. Sự quan trọng vào lúc cuối.
Chư Phật chứng quả, không giống như những bậc Tiểu thừa an trụ trong cảnh giới tịch diệt, mà các ngài có thể biến hiện khắp hư không giới để lợi lạc hữu tình, đây vẫn là do tâm lực Đại bi. Nếu không có tâm lực Đại bi thì các ngài cũng chỉ giống như những bậc Thanh văn. Ví như lúa gạo, ban đầu gieo giống, khoảng giữa tưới nước bón phân, lúc cuối có thể gặt hái thành quả là điều quan trọng. Cho nên quả Phật, trong ba giai đoạn, ban đầu phát tâm, khoảng giữa tu tập, sau cùng chứng quả, tâm Đại bi đều là quan trọng. Vừa rồi là lời dạy của ngài Nguyệt Xứng Luận Sư. Ngài Dáng Na Cùng Đôn Ba thỉnh giáo tôn giả Atisha. Tôn giả nói: “Xả bỏ tâm thế gian, tu tập tâm Bồ đề, ngoài ra không còn gì khác.” Ngài Geshe Đôn Ba nói: “Đây là lời dạy tâm yếu của tôn giả Atisha.” Nên biết tâm Bồ đề là mệnh mạch của Phật pháp, chỉ có vìệc phát tâm là khó quyết định nhất, hành giả cần phải thường sám hối, và đọc tụng các kinh luận, như Hoa Nghiêm Kinh, v.v..., để cầu sự quyết định kiên cố. Ngài Mã Minh Bồ Tát nói:
Tâm quý báu của Phật,
Viên mãn giống Bồ đề,
Chỉ Phật mới biết rõ,
Kẻ khác không thể sánh.
J2. Những nhân quả khác là pháp nhân quả của nó.
K1. Từ “nhớ mẹ” đến “tâm từ” là nhân.
Giả như chỉ mong được thoát ly sự khổ, thì cũng có thể thường nghĩ đến sự khổ của hữu tình, thế nhưng, nếu muốn tâm đó dễ sinh khởi, kiên cố mạnh mẽ, thì trước tiên phải khởi tâm hoan hỷ, trân trọng ái kính đối với hữu tình. Nếu người thân chúng ta gặp cảnh khổ thì chúng ta cảm thấy bất nhẫn, nhưng nếu kẻ thù chúng ta gặp cảnh khổ, ắt chúng ta sẽ sinh tâm vui mừng, còn đối với người không thân không thù, thì chúng ta thờ ơ lãnh đạm. Tâm chúng ta đối với một hữu tình có bao nhiêu trân ái thì khi hữu tình ấy gặp cảnh khổ, chúng ta sẽ khởi bấy nhiêu tâm bất nhẫn. Nếu tâm trân ái thuộc bậc trung hạ, chúng ta sẽ khởi tâm bất nhẫn nhỏ, nếu tâm trân ái thuộc bậc thượng, thì dù họ chỉ thọ chút ít khổ, chúng ta cũng sẽ khởi tâm bất nhẫn lớn. Nếu thấy kẻ thù chịu khổ, chúng ta không những không muốn họ hết khổ, mà còn mong họ chịu khổ nhiều hơn, và đừng bao giờ thoát khổ. Đây là do lòng thù ghét sinh khởi. Chúng ta tùy vào sự thù ghét lớn hay nhỏ mà đối với nỗi khổ của kẻ thù khởi tâm hoan hỷ nhiều hay ít. Đối với những người xa lạ thọ khổ, chúng ta không khởi tâm bất nhẫn, nhưng cũng không khởi tâm hoan hỷ. Đây là do không có tâm trân ái hoặc tâm thù ghét. Như vậy, tu tập quán sát hữu tình như người thân, thì có thể khởi lòng trân ái đối với họ; thế nhưng, người mà chúng ta trân ái nhất chắc chắn là bà mẹ của mình. Bởi thế chúng ta nên tu tập ba điều là (1) quán sát hữu tình là mẹ mình, (2) biết ơn, và (3) báo ơn, thì chúng ta có thể tu tập thành tựu tâm trân ái, thương xót hữu tình. Nếu chúng ta khởi tâm từ ái thương xót hữu tình như con một, thì đây là thành quả của ba sự tu tập ở trên, và do đây chúng ta có thể sinh khởi tâm Đại bi. Nếu chỉ tu tập tâm từ và tâm bi thì không nhất định phát khởi tâm Bồ đề, còn nếu tu pháp tất cả hữu tình là người thân thì đây là nguyên nhân cho sự phát tâm Bồ đề. Đây là lời dạy của các ngài Nguyệt Xứng, Đại Đức Nguyệt, và Liên Hoa Giới.
K2. Ý nhạo tăng thượng và phát tâm thành tựu Phật quả.
Theo thứ tự vừa nêu trên, tu tập sinh khởi tâm bi, lại có thể sinh khởi tâm mong cầu thành Phật lợi lạc hữu tình. Đây có lẽ cũng đã đủ, tại sao trong giai đoạn tu tập trung gian lại phải cần thêm ý nhạo tăng thượng? Đại khái, tâm từ bi vô lượng mong muốn tất cả hữu tình thoát khổ được vui, các hàng Thanh văn Duyên giác tuy cũng có đôi phần, thế nhưng, đứng ra gánh vác sự nghiệp dứt khổ đem vui đến tất cả hữu tình thì chỉ có hành giả Đại thừa mới đủ sức đảm đang. Cho nên hành giả cần phải khởi ý nhạo tăng thượng khiến cho tâm lực trở nên mạnh mẽ vượt bực. Đây là lời dạy trong Hải Tuệ Vấn Kinh. Như vậy, nếu muốn sinh khởi tâm nguyện độ thoát hữu tình, nên nghĩ rằng hôm nay nếu ta cứ như vầy, ắt không thể hoàn thành nghĩa lợi cho tất cả. Hơn nữa, cho dù chứng đắc hai quả vị A la hán và Bích chi phật, cũng chỉ có thể lợi lạc một số ít chúng sinh. Tất cả công hạnh tạo tác cũng chẳng qua đưa đến quả vị giải thoát mà thôi, không thể an lập Nhất thiết chủng trí (Phật trí). Hiện tiền ai là người có khả năng thành tựu tất cả nghĩa lợi cứu cánh? Tư duy như vậy, biết rằng chỉ có chư Phật mới kham nhiệm tất cả công hạnh này, do đây, bèn phát tâm thành Phật hầu có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.