H2. Đã được giữ cho không mất
I1. Nhân duyên làm cho sự tu học phát tâm đời này không mất
J1. Nghĩ đến sự lợi ích của tu học là tăng trưởng mạnh mẽ sự phát tâm J2. Vì muốn tăng trưởng sự phát tâm cho nên tu học “mỗi ngày phát tâm sáu lần”
K1. Tu học nguyện tâm không xả bỏ tâm đã phát
K2. Tu học tăng trưởng (tâm đã phát)
J3. Tu học sau khi phát tâm, dù gặp bất cứ điều gì cũng không xả bỏ hữu tình
J4. Tu học tích tập phước đức tư lương
I2. Tu học đời sau không xa lìa Bồ đề tâm
J1. Tu học xa lìa bốn pháp ác có thể phá hoại Bồ đề tâm
J2. Tu học bốn pháp lành không phá hoại Bồ đề tâm H3. Phương pháp sau khi phạm, khôi phục thanh tịnh
H2. Đã được giữ cho không mất.
I1. Nhân duyên làm cho sự tu học phát tâm đời này không mất.
J1. Nghĩ đến sự lợi ích của tu học là tăng trưởng mạnh mẽ sự phát tâm.
Bất luận đọc kinh điển, hoặc nghe lời giảng của thầy, nên tư duy sự lợi ích thù thắng của Bồ đề tâm. Hoa Nghiêm Kinh có nói rộng, hành giả phải nên tham khảo. Trong kinh, ví Bồ đề tâm như hạt giống của tất cả Phật pháp, và hơn nữa, tổng nhiếp tất cả Bồ tát hành và Bồ tát nguyện. Nếu nói rộng thì hành tướng của Bồ đề tâm nhiều vô lượng vô biên; nếu nói lược thì Bồ đề tâm bao nhiếp tất cả. Bồ Tát Địa nói về sự thắng lợi (thù thắng lợi ích) là nói về sự thắng lợi của nguyện tâm. Trong đó nói rằng các vị tân Bồ tát phát tâm kiên cố được hai sự thắng lợi: (a) trở thành phước điền thù thắng cho chúng sinh; (b) có phước lớn, các loài chúng sinh khác không thể não hại. (a) Hành giả vừa phát Bồ đề tâm thì liền trở thành đối tượng để chúng sinh lễ kính, hay nói khác hơn, vừa mới phát tâm đã trở thành ruộng công đức của tất cả chúng sinh. Lại nói: “Vừa phát Bồ đề tâm đã trở thành dòng giống Phật, vượt hẳn các bậc Đại A la hán, ” nghĩa là hành giả sẽ thành Phật. Lại nói: “Tuy tạo chút phước, vẫn có thể gặt hái quả báo vô lượng; làm phước điền thù thắng, và là chỗ nương tựa cho tất cả thế gian, giống như đại địa, ” nghĩa là làm bậc cha mẹ của tất cả chúng sinh. (b) Tất cả chúng sinh không thể não hại, nghĩa là thường được các vị thần (nhiều gấp đôi số thần theo hộ trì Chuyển luân thánh vương) theo bảo hộ. Dù trong lúc ngủ nghỉ, hôn mê, phóng dật, các dọa xa, quỷ thần, hoặc loài phi nhân đều không thể não hại. Các minh chú, mật chú có công năng trừ diệt bệnh tật, ôn dịch, truyền nhiễm, lúc đang trong tay người khác tuy không hiệu nghiệm, nhưng khi vào tay Bồ tát lại có thể phát sinh ứng nghiệm. Điều này muốn nói rõ rằng ngay những năng lực tiêu tai diệt nghiệp cũng phải nhờ vào sự phát Bồ đề tâm kiên cố mới dễ dàng ứng nghiệm. Các pháp tu thành tựu tập thể cũng nhân Bồ đề tâm mà được thành tựu nhanh chóng. Ở bất cứ nơi nào, các sự sợ hãi về đói khát, hiểm họa phi nhân, v.v..., nếu chưa sinh khởi sẽ không sinh khởi. Sau khi mạng chung, cũng ít bị sự tổn não, hơn nữa, không bị bệnh hoạn, đầy đủ nhẫn nhục nhu hòa, có thể nhẫn chịu sự tổn hại của kẻ khác. Hơn nữa, ít bị đọa vào nẻo ác, dù có bị thác sinh vào nẻo ác, cũng mau được thoát khỏi. Khi trong nẻo ác cũng chỉ nhận chịu một ít sự khổ. Lại do nhân duyên này, khởi tâm nhàm chán sinh tử mãnh liệt, đối với hữu tình khởi lòng thương xót. Do phước lực của Bồ đề tâm nhiếp trì, giả như phước này có hình tướng, thì mười phương hư không cũng không dung chứa nổi. Phước báo do dùng tài vật cúng dường chư Phật so với phước lực của Bồ đề tâm quả thật nhỏ nhoi không đáng kể. Đức Thí Sở Vấn Kinh nói: “Phước lực của Bồ đề tâm, giả như có hình thể, thì tận hư không giới cũng không thể dung chứa hết. Giả sử tất cả chúng sinh trong hằng ha sa số cõi Phật, dùng tất cả trân bảo cúng dường chư Phật, lại có một chúng sinh chắp tay lễ kính Bồ đề tâm, thì sự cúng dường (lễ kính) này thù thắng hơn phước báo của tất cả chúng sinh cúng dường trân bảo, không có sự cùng tận.” Tôn giả Atisha lúc đi nhiễu Kim cương tòa (Bồ đề đạo tràng) đã từng tư duy như thế nào để mau thành Phật. Lúc ấy, các hình tượng nhỏ gần đó bỗng đứng dậy hỏi các hình tượng lớn: “Muốn mau thành Phật phải học pháp gì?” Đáp: “Phải nên học pháp Bồ đề tâm.” Lại nữa, có một bà lão và một đứa bé đứng trên hư không phía trên đạo tràng, đứa bé hỏi bà lão câu hỏi tương tự, bà lão cũng trả lời giống như các hình tượng lớn. Tôn giả Atisha nghe xong bèn sinh đại tâm quyết định đối với Bồ đề tâm. Nên biết, Bồ đề tâm bao hàm tất cả các giáo thọ quan trọng tất yếu của Đại thừa, là đại tạng cho tất cả sự thành tựu, là pháp đặc biệt siêu xuất hàng Nhị thừa, là chỗ nương tựa vô cùng thù thắng cho các hàng Phật tử đang mạnh mẽ tiến bước. Đối với sự tu tập Bồ đề tâm phải nên tăng gia sự hăng hái, dũng mãnh, giống như người đang khát nghe đến “nước uống.” Chư Phật Bồ tát ắt đã từng trong nhiều kiếp dùng trí tuệ hiếm có, vô cùng vi tế quán sát các pháp tu, biết rằng chỉ có Bồ đề tâm là phương tiện thù thắng nhất để tu hành thành Phật.
Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Phật nhiều kiếp tư duy
Tâm Bồ đề là nhất. (Phẩm Một, kệ 7)
J2. Vì muốn tăng trưởng sự phát tâm cho nên tu học “mỗi ngày phát tâm sáu lần.”
K1. Tu học nguyện tâm, không xả bỏ tâm đã phát.
Như vậy, hành giả đã cung thỉnh chư Phật Bồ tát và chư vị thiện tri thức chứng minh; đối trước các vị ấy đã phát thệ nguyện các chúng sinh chưa được độ thoát, khiến cho độ thoát. Nếu quan sát thấy số lượng hữu tình nhiều vô lượng vô biên. lại còn tạo ác, cần phải nỗ lực trong một thời gian vô cùng lâu xa, huống chi lại còn hai tư lương phước tuệ, lại cần phải tu học vô lượng những công hạnh khó làm, do những nhân duyên này, sinh tâm khiếp nhược, bỏ phế gánh nặng của sự phát tâm, thì hành giả này phạm tội còn nặng hơn tội ba la di trong giới biệt giải thoát. Đây là lời dạy trong Nhiếp Quyết Trạch Phần. Nếu như xả bỏ thệ nguyện Bồ tát, hành giả sẽ trôi lăn lâu dài trong các ác đạo. Đây là lời dạy trong Nhập Bồ Tát Hành Luận. Lại nói:
Giống như một kẻ mù
Trong rác được ngọc quý
Con thật là diễm phúc
Phát tâm Bồ đề này. (Phẩm Ba, kệ 27)
Nên quán sát rằng chúng ta hiện nay thọ được tâm này, quả thật là điều vô cùng hiếm có, trong tất cả mọi nơi mọi thời, không nên xả bỏ. Nếu thường quán niệm thì dù trong một sát na cũng không buông bỏ các thệ nguyện. Hành giả cần phải thường thường tu tập.
K2. Tu học tăng trưởng tâm đã phát.
Nếu chỉ tu tập “nguyện không xả bỏ tâm đã phát”, e vẫn chưa đủ, mà còn phải mỗi ngày sáu thời (ngày ba thời đêm ba thời), dùng tâm tinh tiến mạnh mẽ khiến cho Bồ đề tâm tăng trưởng. Nghi quỹ tu tập cũng giống như phần trên. Nếu có thể quảng tu thì y theo đó mà hành trì; nếu chưa thể thì nên quán tưởng các phước điền cho rõ ràng, sau khi cúng dường, tu tập tâm từ bi, v.v... Mỗi ngày hành trì sáu lần như vậy. Nghi quỹ ngắn gọn này tức là:
Cho đến thành Phật, con quy y
Chư Phật, Chánh Pháp, Bồ Tát Tăng
Xin đem công đức đã tu tập
Vì lợi hữu tình, nguyện thành Phật.
Mỗi thời đọc ba lần như vậy.
J3. Tu học tâm không xả bỏ hữu tình.
Phải nên biết rõ hành tướng của “tâm xả bỏ hữu tình”, chẳng hạn như y vào những nhân duyên phi lý rồi khởi lên niệm như sau: “Từ đây về sau, tôi sẽ không làm lợi ích cho chúng sinh .”
J4. Tu học tích tập phước đức tư lương.
Sau khi tuân theo nghi quỹ thọ nguyện tâm rồi, mỗi ngày phải nỗ lực tăng trưởng nhân duyên của Bồ đề tâm, cúng dường Tam bảo, v.v.., tích tập tư lương phước báo.
I2. Tu học đời sau không xa lìa Bồ đề tâm.
J1. Tu học xa lìa bốn pháp ác có thể phá hoại Bồ đề tâm.
Bốn pháp ác là:
(1) Khinh khi lừa dối hòa thượng, a xà lê, các bậc tôn trưởng, cùng các phước điền. Đối tượng bị khi dối: hòa thượng, a xà lê thì dễ nhận biết; tôn trưởng là những người muốn làm lợi ích cho mình; phước điền là các bậc đầy đủ đức hạnh. Đối với những đối tượng vừa nêu trên đã làm những gì mà trở thành pháp ác? Đáp: Biết rõ đối tượng là những bậc phước điền mà vẫn cố tâm khinh khi dối trá, thì những tác nghiệp đó liền trở thành pháp ác, nhưng sự dối trá đây không phải là những sự dối trá thông thường, mà là dùng sự dối trá để khinh khi đối tượng. Tập Bồ Tát Học Luận nói: “Đoạn trừ các pháp ác tức là pháp thiện.” Sự đối trị này là pháp thiện thứ nhất.
(2) Vô cớ khiến cho người khác sinh tâm hối hận. Các hữu tình khác đang tu tập pháp thiện, đối với những công hạnh của họ đang làm, vô cớ khiến cho họ sinh tâm hối hận. Trong hai trường hợp này, có thể khi dối hay không thể khi dối, người khác hối hận hay không hối hận, đều phạm như nhau.
(3) Phỉ báng các hành giả Đại thừa. Nghĩa là đối với những hành giả đã phát Bồ đề tâm, hiện đang thọ trì Bồ tát luật nghi, tu tập những công hạnh lành, khởi tâm sân hận, dùng những lời lẽ thô ác mà phỉ báng họ, và họ hiểu rõ lời mình đang nói. Sự phỉ báng này rất dễ vi phạm, mà tội chướng lại cực kỳ sâu nặng. Phần trên đã nói sơ lược. Lại nữa, nếu Bồ tát khởi tâm hủy báng, thì sẽ bị đọa vào địa ngục kiếp số lâu dài. Tối Cực Tịch Tĩnh Thần Biến Kinh nói: “Ngoại trừ những tội phỉ báng Bồ tát, các nghiệp khác không thể khiến Bồ tát đọa vào địa ngục.” Nhiếp Quyết Trạch Phần cũng nói: “Nếu một Bồ tát chưa được thọ ký, khởi tâm tranh cạnh hủy báng một vị Bồ tát đã được thọ ký, tùy sự khởi tâm sân hận bao lâu, sẽ bị luân chuyển trong các nẻo bấy lâu.” Cho nên trong tất cả mọi thời, đều phải nỗ lực diệt trừ sân hận. Nếu như lỡ khởi, phải nên liên tục sám hối, nỗ lực phòng hộ.
(4) Tùy tiện dối trá, không có tâm chất trực. Đối tượng là tất cả hữu tình khác. Việc làm như thế nào mà gọi là dối trá? Nghĩa là lừa dối trong việc cân, đo, v.v..., hoặc như muốn sai người đi đến Nhạ Mã, nhưng lại chỉ sai họ đi Thôi Long, [biết rằng sau khi đến Thôi Long] họ sẽ tự nguyện đi Nhạ Mã. Tập Bồ Tát Học Luận nói: “Lừa dối (Hán: cuống) nghĩa là giả hiện công đức mà mình không thực có, còn siễm trá (Hán: siễm) nghĩa là che dấu những lỗi lầm của mình.”
J2. Tu học bốn pháp lành không phá hoại Bồ đề tâm.
(1) Không nói lời hư vọng: Đối tượng (cảnh) là tất cả hữu tình khác. Việc làm (sự) là dù trong trường hợp nguy hiểm đến thân mạng, hoặc ngay trong những lúc giỡn hớt, đều đoạn trừ sự biết rõ mà cố ý vọng ngữ. Như vậy, đối với các vị thầy của mình và các vị giới sư, không dùng những lời hư vọng mà khi dối họ.
(2) Tâm ý chất trực: Đối tượng là tất cả hữu tình khác. Việc làm là an trụ trong ý chí cương quyết (ý nhạo tăng thượng) không hề gian dối, chánh tâm chất trực. Điều này có thể đối trị pháp ác thứ tư.
(3) Cung kính tán thán chư Bồ tát: Đối tượng là tất cả Bồ tát (nghĩa là tất cả hữu tình đã phát Bồ đề tâm). Việc làm là đối với họ xem như các bậc thầy (Hán: đại sư), và ở khắp mọi nơi, tuyên dương công đức chân thực của họ. Ngài Hạ Nhạ Ngõa nói: “Chúng ta chỉ làm được chút ít điều thiện, nhưng lại không biết làm cho chúng tăng trưởng, ngược lại, thường hủy diệt những nhân lành đã tạo, nghĩa là do tâm sân hận hủy báng miệt thị các vị Bồ tát và bạn đồng tu, khiến cho phước báo hoàn toàn tiêu tán.” Cho nên phải cố gắng đoạn trừ điều này cùng việc phá hoại các Bồ tát, như trong Tập Bồ Tát Học Luận nói: “Đối với tất cả hữu tình không nên sinh khởi tâm tổn hại, bởi vì chúng ta không thể biết rõ ai là Bồ tát.” Phải nên y theo lời dạy của Ca Diếp Thỉnh Vấn Kinh: “Đối với tất cả hữu tình, phải nên cung kính như bậc thầy của mình.” Tu tập tịnh tướng, tán dương công đức, có nghĩa là hễ gặp ai đến thì tán thán công đức [của các vị Bồ tát], giả như không thể đi khắp nơi để làm việc này, cũng không có lỗi gì. Điều này có thể đối trị pháp ác thứ ba.
(4) Dùng pháp Đại thừa hóa độ hữu tình: Đối tượng là những hữu tình mà mình đang xây dựng. Việc làm là muốn cho họ nhàm chán Tiểu thừa, yêu thích con đường tu hành thành Phật. Mục đích của chúng ta là muốn những người đang dưới sự hướng dẫn của mình an trụ trong pháp Đại thừa, nhưng nếu căn duyên của họ chưa đầy đủ, không thể sinh khởi lòng yêu thích tu hành thành Phật, thì đây không phải là lỗi của chúng ta, vì chúng ta không đủ khả năng thành tựu điều mình mong muốn. Điều này có thể đối trị pháp ác thứ hai. Giả như chúng ta hết lòng giúp họ an trụ trong pháp an lạc cứu cánh, nhưng nếu việc này khiến họ ưu tư hối tiếc (vì đã tu tập Đại thừa), dù rất nhỏ, thì chúng ta cũng không nên làm (nghĩa là cứ để mặc họ theo con đường mà họ thích Người dịch). Sư Tử Thỉnh Vấn Kinh nói:
Làm sao trong mọi đời,
Không mất Bồ đề tâm,
Trong mộng cũng không xả,
Lúc thức phải thế nào?
Đáp: Bất cứ nơi nào,
Tùy hoàn cảnh an trụ,
Nếu tâm không xả bỏ,
Sẽ tiến nhập Bồ đề.
Văn Thù Trang Nghiêm Sát Độ Kinh nói: “Đoạn trừ (1) ngã mạn, (2) ghen ghét, (3) bỏn sẻn, và (4) thấy người khác giàu có, sinh tâm hoan hỷ. Nếu đầy đủ bốn pháp này, ắt sẽ không xả Bồ đề tâm.” Lại nữa, Bảo Tích Kinh nói: “Nếu trong mọi oai nghi đều tu tập Bồ đề tâm, và trước khi làm bất cứ việc thiện nào đều tu tập Bồ đề tâm, ắt ở đời sau cũng không xa lìa tâm Bồ đề trân quý này. Cho nên trong tất cả mọi thời đều phải nên quán sát.” Đây là những lời dạy hết sức rõ ràng.