Home > Khai Thị Phật Học > Truyen-Bo-Tat-Long-Tho
Truyện Bồ Tát Long Thọ
Thích Hậu Quán | Thích Vạn Lợi, Việt Dịch


Xin chào quí thầy cô, quí Phật tử!

Hôm nay chia sẻ với mọi người một câu chuyện trong kinh Phật, câu chuyện này xuất xứ từ Đại Tạng Kinh cuốn 50 trang 184a và 185b.

Bồ tát Long Thọ xuất thân từ miền nam Ấn Độ dòng Bà la môn, bẩm sinh tính vô cùng thông minh, bất kỳ chuyện gì chỉ cần nói với ông ta một lần là thông suốt, không cần phải nói lại. Lúc nhỏ, khi còn bú sữa mẹ, nghe Bà la môn đọc bốn cuốn kinh Vệ đà, mỗi cuốn có bốn mươi ngàn bài kệ, mỗi bài kệ có ba mươi hai chữ, toàn bộ ông đều thuộc lòng, không những thế mà lại còn hiểu rõ nghĩa lý của kinh. Đến hai mươi tuổi thì nổi tiếng khắp nơi, các nước ở vùng Nam Ấn không có người nào có thể so sánh với Long Thọ, bất luận là thiên văn, địa lý, bói toán, cho đến các loại đạo thuật khác, loại nào là cũng am hiểu tường tận.

Ông có ba người bạn tâm đầu ý hợp đều là thanh niên anh tuấn. Có một hôm, họ cùng nhau thảo luận đến việc: “Những đạo lý có thể làm khai mở tâm trí, hiểu sâu sắc trong thế gian, thì chúng ta đều biết cả rồi, bây giờ có việc gì mới có thể làm cho chúng ta vui được đây? Được hưởng tận cùng của thọ dục lạc của con người mới là chuyện vui nhất của cuộc đời. Nhưng các Bà la môn, người tu hành, không có quyền thế của quốc vương, đại thần, thì làm sao có được những thú vui ấy đây? Duy nhất chỉ có thuật tàng hình mới có thể thực hành được việc khoái lạc ấy.” Bốn người họ đưa mắt nhìn nhau, tình ý tương đồng, không có người phản đối, nên cùng nhau đi tìm người biết pháp thuật, học thuật ẩn thân.

Thầy pháp thuật nghĩ bụng: “Bốn vị Bà la môn này hiện nay là người rất nổi tiếng, coi người khác giống như cỏ rác, bây giờ vì muốn học thuật ẩn mình, nên mới tự hạ mình đến tìm ta. Mấy người này thông minh tuyệt đỉnh, chỉ có loại pháp thuật thô bỉ này là chưa biết mà thôi, nếu như ta truyền cho họ, một khi họ học hết rồi thì sẽ bỏ ta mà đi, không cần phải hạ mình với ta nữa. Cho nên ta cho họ một ít thuốc để sử dụng trước, đợi khi nào thuốc hết hiệu lực, họ nhất định sẻ trở lại tìm ta, như vậy thì có thể làm cho họ vĩnh viễn tôn ta làm thầy rồi.”

Nghi thế, nên thầy pháp thuật cho họ mỗi người một viên thuốc màu xanh, và nói với họ: “Các ngươi hãy tìm một nơi yên tịnh, lấy một ít nước rồi mài viên thuốc thành bột, sau đó bôi lên mặt mũi thì có thể ẩn hình được rồi, không có người nào có thể nhìn thấy các ngươi.”

Khi Long Thọ mài thuốc, vừa ngửi được mùi của thuốc, lập tức liền nhận ra được thành phần và tỉ lệ pha thuốc, cho dù thành phần của thuốc rất ít. Long Thọ liền trở về nói với thầy thuốc, viên thuốc vừa rồi có bảy mươi loại thành phần, tỉ lệ trộn các loại đó là bao nhiêu bao nhiêu v.v.. Việc pha chế thuốc này của thầy hoàn toàn phù hợp.

Thầy thuốc hỏi: “Ngươi làm sao mà biết được?”

Long Thọ đáp: “Vốn dĩ thuốc có mùi vị, làm sao mà không biết được.”

Thầy thuốc vô cùng khen ngợi, khâm phục: “Người thông minh giống như vậy thì nghe biết đến còn khó nữa, chứ nói chi đến việc có thể gặp mặt! Là thầy pháp thuật thô bỉ giống như tôi đây, thì có gì đáng để keo kiệt, tiếc nuối đâu?” Vì thế, nên đem hết thuật tàng hình không chút hối tiếc truyền trao cho họ.

Sau khi họ học được thuật tàng hình, nên không còn ngại ngùng gì, thích gì thì làm, thường lẩn vào trong cung. Những người đẹp trong cung đều bị họ xâm phạm, ức hiếp, sau đó trong cung có người vì thế mà mang thai. Cứ như vậy, trải qua hơn một trăm ngày, mọi người đều rất sợ hãi, lo lắng, chỉ biết trình báo sự thật lên quốc vương, hi vọng đức vua miễn tội cho. Vua nghe rồi vô cùng tức giận: “Có vật gì không tốt đang quấy rối ở đây? Tại sao lại như vậy chứ?”

Nhà vua triệu tập tất cả các đại thần thông minh, nhiều mưu trí lại, thảo luận việc này. Có vị lão thần nói: “Tình hình này, có hai khả năng: một loại là ma quỷ, hai là pháp thuật. Có thể cử người rải hạt cát nhỏ ở tất cả các cửa ra vào, ra lệnh cho lính canh cửa, cấm người ra vào. Nếu như có người sử dụng pháp thuật, thì dấu chân của họ sẽ hiện trên cát, thì có thể sai lính chém chết. Nếu như ma quỷ đi vào thì không có dấu chân, thì có thể dùng pháp thuật trừ diệt.”

Nhà vua liền cử người gác cửa làm theo lời của

vị lão thần, chuẩn bị tất cả mọi thứ xem sao. Không bao lâu, lính gác nhìn thấy dấu chân của bốn người, liền đi bẩm báo lên nhà vua. Nhà vua liền dẫn theo mấy trăm vệ sĩ vào cung điện, đóng hết tất cả các cửa ra vào, lệnh cho lực sĩ dùng kiếm chém túi bụi vào không trung, ba người liền bị chém chết; chỉ còn lại Long Thọ cẩn thận nín thở trốn vào chỗ của nhà vua, nơi cách đầu nhà vua 2~3m, đao chém không đến được.

Lúc bấy giờ, Long Thọ mới nhận thức sâu sắc rằng dục vọng chính là cội nguồn của đau khổ, là nguồn gốc của tất cả tai họa, làm bại hoại đạo đức, nguy hại đến tính mạng, tất cả đều bởi vì tham dục gây ra, nên ông ta lập tức lập lời thề: “Nếu như ta có thể thoát khỏi kiếp nạn này, nhất định đi bái kiến sa môn, cầu pháp xuất gia.” Sau khi trốn thoát thuận lợi, Lọng Thọ liền vào trong núi sâu, đến một ngôi chùa, thỉnh cầu xuất gia thọ giới. Chỉ trong chín mươi ngày, Ông ta đọc hết toàn bộ Tam tạng kinh, luật, luận, lại còn muốn tìm thêm những kinh khác, nhưng khắp nơi đều tìm không thấy.

Vì thế, Long Thọ liền đến núi tuyết. Trong núi có một ngôi chùa, ở đó có một vị tỳ kheo lớn tuổi cho ông ta rất nhiều kinh điển đại thừa. Long Thọ đọc tụng vô cùng thích thú. Tuy biết rằng sự chỉ dạy trong kinh rất có đạo lý, nhưng Ông vẫn không thể nào thấu triệt được. Ông lại chu du khắp các nước hy vọng muốn tìm thêm nhiều kinh điển nữa. Nhưng trong cõi Nam diêm phù đề đều tìm không thấy. Vào trong thời điểm đó, quan điểm của sa môn và luận sư ngoại đạo đều bị Long Thọ thu phục.

Có một vị đệ tử ngoại đạo nói với Long Thọ: “Thầy là người có tất cả trí tuệ, bây giờ vẫn còn làm đệ tử Phật sao. Làm đệ tử của người ta là vì chỗ học còn chưa đủ, người có lẽ vẫn chưa đủ phải không? Nếu có một việc không biết thì không thể gọi là người có tất cả trí tuệ được.”

Long Thọ nhất thời không trả lời được, trong lòng cảm thấy hổ thẹn, nên khởi tâm tà mạn, rồi thầm nghĩ: “Pháp trong thế giới có rất nhiều loại, kinh Phật tuy vi diệu, nhưng lấy lý lại suy diễn thì có chỗ vẫn chưa viên mãn. Nơi không viên mãn có thể dùng suy luận lại lý giải, dùng phương pháp này để hướng dẫn hậu học, không trái với đạo lý, như vậy thì không có lỗi lầm thì có làm sao đâu?”

Sau khi nghĩ như vậy xong thì muốn hành động ngay, lấy bản thân làm tổ sư, lập ra kinh pháp, giới luật, sửa đổi trang phục, có một tí khác với Phật giáo, để cho mọi người không sinh lòng nghi ngờ, để biểu hiện không phải tiếp nhận sự chỉ dạy của Phật giáo truyền thống. Ông đã định mặc tăng phục theo kiểu mới chọn ngày truyền thọ giới luật cho đệ tử. Ngồi tĩnh tọa tư duy một mình trong nhà thủy tinh.

Bồ tát Đại Long thấy tình hình như vậy, vì lòng thương xót trân quý Long Thọ, mà dẫn Long Thọ vào biển lớn. Vào trong cung điện mở bảy ngôi bảo tạng, lấy ra bảy hộp kinh rất đẹp, tức kinh đại thừa Phương Đẳng và rất nhiều kinh đại thừa vi diệu khác, truyền vô lượng diệu pháp cho Long Thọ. Long Thọ đọc tụng thọ trì chín mươi ngày, lý giải dung thông rất nhiều đạo lý, thâm nhập kinh tạng thể hội rất nhiều lợi ích của pháp tạng. Đại Long bồ tát biết được tâm niệm của Long Thọ, nên hỏi: “đọc hết kinh điển rồi sao?”

Long Thọ trả lời: “trong hộp kinh của Ngài có quá nhiều kinh, đếm cũng đếm không hết, tôi ở đây đọc được nhiều hơn gấp mười lần ở Diêm phù đề rồi.”

Bồ tát Đại Long nói: “Kinh điển rất nhiều như trong cung của ta, ở những nơi khác cũng nhiều đếm không xuể.”

Long Thọ có được Kinh điển Đại thừa nhiều như vậy (có thuyết nói được một thùng lớn Kinh điển Đại thừa), thông đạt thật tướng của các pháp (nhất tướng cũng chính là vô tướng), thâm nhập vô sinh, đầy đủ hai loại chúng sinh nhẫn và vô sinh pháp nhẫn; Bồ tát Đại Long tiễn Bồ tát Long Thọ trở về Nam Ấn Độ, hoằng dương Phật pháp, hàng phục ngoại đạo, làm rõ Đại thừa, trước tác luận điển cả 100 ngàn bài kệ. Trước tác 5000 bài kệ “Luận Trang Nghiêm Phật Đạo”, 5000 bài kệ “Luận Đại Từ Phương Tiện”, 500 bài kệ “Trung Luận”, và trước tác 100 ngàn bài kệ “Luận Vô Úy” bao gồm cả “Trung Luận”, làm cho giáo pháp Đại thừa được tuyên dương lưu hành phổ biến tại Ấn Độ,

Đương thời, có một vị Bà La Môn am tường chú thuật, muốn tranh tài cao thấp với Long Thọ, nên thưa với nhà vua: “Tôi có thể hàng phục được thầy này, xin Quốc Vương chứng giám”.

Quốc vương trả lời: “Ông là kẻ đại ngu si! Sự thánh minh của vị Bồ tát này sánh ngang mặt trời mặt trăng;

Trí tuệ cùng tâm của hàng thánh giả chiếu sáng thế gian. Lời ông nói ra sao mà ngạo mạn, thiếu khiêm nhường, lại dám không cung kính Bồ tát!”

Bà La Môn thưa: “Quốc Vương là người trí tuệ, tại sao ngài không dùng sự thật để kiểm chứng, mà lại chê trách tôi?”

Nhà vua cảm thấy Bà La Môn nói có lý, nên thỉnh Long Thọ cùng ngồi trong đại điện nơi xử lý triều chính. Bà La Môn sau đó đến trước cung điện, dùng chú thuật biến hóa một cái hồ trong sạch rộng lớn có một đóa hoa sen ngàn cánh, rồi ông ngồi trên đóa hoa đó, ngạo mạn nói với Long Thọ: “Ông ngồi dưới đất thì có khác gì hàng súc sinh? Vậy mà còn can đảm đối khánh luận nghị với người có đại đức đại trí tuệ ngồi trên đóa sen thanh tịnh này hay sao?”.

Lúc đó, Long Thọ cũng dùng chú thuật biến hóa voi trắng sáu ngà, đi vào hồ nước đến trước tòa sen, dùng vòi cuốn lấy Bà la môn ngồi trên cao quẳng xuống đất. Bà La Môn bị thương ở lưng và lập tức quy thuận, dập đầu lễ lạy Long Thọ: “Tôi không tự biết sức mình, làm ô nhục Đại sư, hy vọng Ngài thương xót tôi, tiếp nhận tôi, vì người ngu muội như tôi mà chỉ bày trí tuệ.”

Đương thời vị vua thống lĩnh các nước Nam Ấn Độ tín phụng tà đạo, không thấy có người nào là đệ tử xuất gia của đức Phật, toàn quốc từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đều bị tà giáo ảnh hưởng.

Long Thọ trong lòng nghĩ: “Nếu như không giáo hóa vị Quốc Vương trước, thì chính pháp không có cách nào thực thi được. Cũng giống như nếu như không chặt tận gốc, thì cành lá làm sao đổ ngã được..”

Nhà vua quản lý quốc gia này bằng cách là bỏ tiền ra thuê cảnh vệ đảm nhiệm việc canh gác cung điện. Vì thế Long Thọ cũng đi xin vào làm việc với chức trách đứng đầu thủ vệ. Long Thọ mang mâu cầm kích đi trước chỉnh đốn, điều động quân lính. Phương pháp của Ngài không cần khuếch trương oai lực, không cần ban bố những mệnh lệnh nhưng nhưng họ vẫn phục tùng Ngài, cho nên pháp lệnh được thực thi một cách hiệu quả;

Nhà vua biết được tình hình này nên rất vui vẻ, liền hỏi: “Người đó là ai?”

Người hầu cận trả lời: “Ông ấy là người trúng tuyển trong lúc chiêu mộ quân lính, lại không nhận lương thực của vua, cũng không nhận quân lương; làm việc thì chăm chỉ có trách nhiệm, còn đối với công việc thì rất nghiêm chỉnh điêu luyện, thần không biết là ông ấy vì đều gì mà đến đây?”

Vì thế, nhà vua triệu kiến Ông, và hỏi: “Khanh là ai?”

Long Thọ trả lời: “Tôi là người nhất thiết trí!”

Nhà vua nghe xong rất làm kinh ngạc hỏi: “người nhất thiết trí rất lâu mới xuất hiện một vị, còn ông nói tự mình là người nhất thiết trí, thế thì làm cách nào để kiểm chứng điều ông nói là thật?”

Long Thọ trả lời: “muốn biết trí tuệ của tôi, thì vua có thể kiểm chứng bằng lời nói của tôi mà biết được. Nhà vua cứ hỏi tôi! Hỏi bất kì vấn đề gì!”

Trong lòng nhà vua nghĩ: “Ta là người quân chủ có trí tuệ nhất, là đại luận nghị sư, nếu như câu hỏi ta thắng được ông ấy, khiến ông ấy khâm phục, thì cũng không có gì đáng để khen ngợi; Còn lỡ như ta không bằng Long Thọ, thì điều này lại là chuyện lớn. Nhưng giả như ta không đưa ra câu hỏi, thì khác gì tự thừa nhận mình thua rồi.” Nhà vua do dự hồi lâu, cuối cùng bất đắc dĩ mới đưa ra câu hỏi: “Hiện tại thiên thần trên trời đang làm gì?”

Long Thọ trả lời: “hiện tại thiên thần và A tu la đang giao chiến.”

Nhà vua nghe xong câu trả lời thì giống như mình mắc nghẹn, nuốt không được nhả cũng không xong. Vua muốn phủ định câu trả lời, nhưng không có bằng chứng, lại cũng muốn khẳng định Long Thọ trả lời đúng, nhưng lại không có gì để chứng minh. Đọc được suy nghĩ của nhà vua, Long Thọ nói tiếp: “Đây là câu trả lời không phải vì để muốn thắng thua, xin nhà vua đừng nóng lòng, không lâu sau sẽ có bằng chứng.” Long Thọ vừa dứt lời, thì các loại binh khí bị gãy vụn từ trên trời rơi xuống đất.

Nhà vua nói: “đúng là đao, kiếm, mâu, kích là những binh khí phục vụ chiến tranh, nhưng Ông lấy gì để khẳng định là thiên thần với A tu la giao chiến với nhau?”

Long Thọ nói: “lời nói của tôi, nhà vua cho rằng không thật, không thể chứng mình được; Vậy thì tôi sẽ dùng sự thật để chứng minh vậy!” Vừa dứt lời, thì tay, chân, móng vuốt, tai, mũi v.v.. từ trên không trung rơi xuống.

Long Thọ lại làm cho bầu trời trong xanh, để nhà vua, đại thần và nhân dân cùng Bà la môn thấy ở trên không trung hai bên đang chiến đấu rất rõ ràng. Lúc này nhà vua đỉnh lễ Long Thọ, cam tâm tình nguyện nhận sự giáo hóa của Ngài. Trong đại điện có ngàn vạn Bà la môn đều cạo bỏ râu tóc xuất gia thọ giới.

Đương thời, có một vị thầy theo Tiểu thừa sinh lòng đố kị với Long Thọ. Khi Long Thọ sắp lìa trần đã hỏi vị ấy: “ông có mong muốn tôi ở lại lâu dài với thế gian không?”

Vị thầy theo Tiểu thừa trả lời: “thật ra tôi không hy vọng điều đó.”

Thế là, Long Thọ về căn phòng yên tĩnh, sau đó nhiều ngày nhưng không thấy Ngài đi ra khỏi phòng. Đệ tử phá cửa vào xem, thì thấy Long Thọ đã nhập diệt từ lâu.

Từ khi Long Thọ nhập diệt đến đây đã hơn 100 năm rồi (Ngài Cưu Ma La Thập nghe từ các vị thầy kể về truyện Bồ tát Long Thọ), các quốc gia ở Nam Ấn lập miếu thờ Long Thọ như phụng thờ đức Phật. Thân mẫu của ngài sinh ngài ở dưới gốc cây, vì thế đặt tên Ngài là A Châu Đà Na, dịch nghĩa là “Thọ”; còn do vì Bồ tát Đại Long đã làm cho Ngài đạt được vô sinh pháp nhẫn, nên Ngài lấy chữ “Long”, kết hợp thành Long Thọ.

“Truyện Bồ tát Long Thọ” là do pháp sư Cưu Ma La Thập kể khi được nghe từ các vị thầy truyền đạt lại, và được đệ tử của ngài ghi chép thành. Ngài Ấn Thuận nói tuy là ở trong nội dung có tính thần thoại, nhưng Cưu Ma La Thập là người cách cuộc đời của Long Thọ ngắn nhất, nên điều được thuật lại có lẽ là chơn thật hơn. Chúng ta có thể biết được Bồ tát Long Thọ rất là thông minh, Sau khi Long Thọ học được phép tàng hình rồi làm nhiễu loạn hậu cung, xuýt một chút mất mạng, cuối cùng ngộ được “tham dục là nguồn khổ, gốc rễ của tai họa, bại hoại đạo đức nguy hiểm tính mạng, đều do đây mà ra”. Vui mừng vì cuối cùng ngài xuất gia, nên bây giờ chúng ta mới có cơ hội tiếp xúc với trước tác “Trung Luận”, “Đại Trí Độ Luận”.

Những điều trên khích lệ với mọi người!

Phúc Nghiêm, lớp giáo dục mở rộng, ngày 20 tháng 12 năm 2014