Home > Khai Thị Phật Học > Cua-Chinh-Yeu
Cửa Chính Yếu
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Cửa là tên gọi của chỗ bước vào một cảnh giới, bất luận đó là cảnh giới vật chất hay tinh thần. Nhà thì có cửa và cổng, cổng vào sân, cửa hậu vào bếp, cửa chính vào nhà. Quốc gia thì có các cửa khẩu vào biên giới hoặc cửa khẩu chính vào thẳng thủ đô, riêng về đạo Phật cũng có nhiều cửa và cổng để vào, cổng vào sân là các thiện pháp phúc báo thế gian, cửa hậu là các pháp xuất thế phương tiện tức tam thừa pháp, cổng chính vào thẳng bảo điện diện kiến chư Phật, cánh cửa này là thật pháp xuất thế còn gọi là nhất thừa pháp.

Các cửa nẻo để vào đạo Phật.

Đạo Phật coi giải thoát là mục đích chính yếu, và để giải thoát cần phải giác ngộ, thế nên người giải thoát phải là bậc giác ngộ, nói khác hơn bậc giác ngộ chính là người giải thoát và đức Phật là bậc giác ngộ. Do cầu giải thoát mới cần đến giác ngộ, giải thoát với giác ngộ chỉ là một, giác ngộ là chỉ cho chính báo và giải thoát chỉ cho y báo, cũng có nghĩa giác ngộ là Phật và giải thoát là niết bàn. Chính báo và y báo là một, niết bàn và Phật không hai, đều là một tâm thanh tịnh gọi là Vô thượng tâm, Đại đạo tâm hay Bồ đề tâm, tâm này là tâm chân thật của mọi hữu tình mang tính vô thượng thanh tịnh, đại đạo bồ đề còn gọi là bản tâm, chân tâm hay Phật tâm. Đức Phật giác ngộ là do nhận ra tâm này đã chân thật lại vô hạn nhiếp hết muôn loài, hết thảy hữu tình đều đồng có tâm này, sở dĩ mỗi chúng sinh mang một tâm khác nhau là do vọng thức ngã chấp mà thành có tâm sai khác nhau, như vô số làn sóng khác biệt chập chùng nhưng nước vẫn chỉ là một, sóng sinh nước chẳng tăng, sóng diệt nước không giảm, nước nhiếp mọi cơn sóng như chân tâm nhiếp mọi hữu tình, trong sóng đều có nước như trong hữu tình đều có chân tâm. Sóng do duyên khởi nên không thật và chịu sinh diệt, nước không chịu sự chi phối của duyên nên bất động vô sinh vô diệt. Sóng do duyên sinh không thật nhưng trong sóng có thứ thật là nước, như trong chúng sinh huyễn hóa có thứ chân thật là chân tâm.

Giác ngộ được lẽ này rõ biết vọng tâm như sóng, chân tâm như nước, vọng tâm là chúng sinh, chân tâm là Phật, muốn được giải thoát tất phải xả bỏ vọng tâm chấp ngã tự tư tự lợi, phát chân tâm vô ngã lợi lạc hữu tình. Phàm phu ôm tâm vọng chấp ngã, nên phát sinh tham dục tự lợi, bác bỏ hành tịnh pháp nhiêu ích hữu tình, vì cho việc độ sinh không những khó làm mà còn không thể, đương nhiên là vậy, thế mới cần phải phát tâm vô thượng để loại bỏ cái ngã sợ sệt và biếng nhác hành thiện, thay vào đó là tâm thanh tịnh vô ngã hoan hỷ tinh cần phụng sự chúng sinh theo tinh thần "thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại".

Phàm phu mê muội quên mất bản tâm đánh mất giác ngộ nên khuyên bảo nhau độ nhất thiết chúng sinh là việc bất khả thi, hơn nữa còn đe mọi người phát tâm mà làm không được sẽ bị đọa, vì vậy chớ nên phát tâm vô thượng độ tận chúng sinh. Ôi! Phát tâm làm không xong còn đọa lạc hà huống không phát tâm và chẳng làm gì cả lại không bị đọa sao, quả là miệng lưỡi của chúng ma, song những kẻ trong tâm có ma thường tin nhận lời dạy của ma.

Vì vậy điều tiên quyết cũng là cửa chính yếu của việc cầu giác ngộ giải thoát chính là phát tâm vô thượng. Dựa vào tâm này phát khởi trí huệ giác ngộ vô ngã, trí huệ này là thật pháp biến khắp không gian, không phân biệt ta và người nên giác ngộ nhất thiết chúng sinh đưa hết mọi hữu tình đến bờ giải thoát, đây là pháp giác ngộ chân chính khiến ta và chúng sinh đều được giải thoát, như lời hồi hướng "ngã đẳng dữ chúng sinh giai cộng thành Phật đạo".

Thế gian Phật pháp.

Hầu hết Phật giáo đồ đều coi đức Phật như một vị thần bảo hộ đa năng có thể ban bố mọi thứ tiền tài, danh vọng, quyền hành, giúp họ có đời sống như ý dục. Do cái gọi là tâm tôi vốn mê muội đã chi phối hướng dẫn mọi tư duy và hành động đều cho tôi, nên tôi chỉ bận tâm đến mọi ý dục của tôi, hễ được như ý thì đó là niềm hạnh phúc, bằng ngược lại thì đó là nỗi khổ đau, cái tôi nào cũng đều tập trung mọi suy tính và thực hiện sao cho tôi được như ý, đến độ lợi dụng luôn cả niềm tin của tôn giáo vào việc cầu xin từ thần đến Phật. Thượng đế và Phật được thờ phụng với tư cách như một vị bảo hộ cho tín đồ, họ tìm đến chùa chiền cầu xin tư lợi và chẳng mấy ai cầu giải thoát, có lẽ nhờ vậy mà tôn giáo được phát triển và trường thọ.

Mặc dù đức Phật khẳng định mục đích ngài hiện diện ở đời không phải để bảo hộ cho loài người được sống như ý trong cõi này, mà là để giải thoát khỏi thế gian luôn bị thiêu đốt bởi lửa vô thường và khói độc phiền não, thế nhưng đa số đồ chúng vẫn cưỡng ép ngài làm thần bảo hộ theo đầu óc u mê tưởng tượng của họ, cứ vậy mà ngày qua ngày quỳ trước tôn tượng lâm râm khấn vái dâng lên một danh sách cầu được như ý, bất chấp những lời giáo pháp chỉ dạy cách giác ngộ giải thoát, họ coi tiền tài, danh vọng, tình yêu, bảo hơn là tam bảo, cũng do họ không cầu thành Phật nên cần gì phải học pháp hay độ sinh, những sinh hoạt thế tục mê muội này của thất chúng được phát triển từ hình thức đến nội dung, lưu truyền qua bao đời và nghiễm nhiên trở thành diện mạo của đạo Phật, một thứ đạo Phật bị thế tục hóa, không có chút giác ngộ giải thoát gì trong ấy, thứ đạo Phật thuần đời ấy gọi là thế gian Phật pháp chỉ có cổng vào sân, mà không có cửa để vào bảo điện cảnh giới giải thoát của đạo Phật, tuy nhiên những người mở cổng vào sân đó vẫn ngỡ rằng đang ở trong bảo điện, rồi có kẻ lại cho rằng cổng là phương tiện để chúng sinh vào đạo. Than ôi! Đến ngay như kẻ mở những cánh cổng gọi là phương tiện ấy cũng mãi chôn chân bên ngoài cửa bảo điện hà huống những kẻ theo sau.

Có người bảo rằng nếu chùa chiền chỉ dạy pháp tu giải thoát thì e rằng chùa nào cũng thành chùa bà Đanh, bởi hầu hết tín đồ cần phúc hơn cần giải thoát, do họ không hiểu rằng giải thoát là phúc tối thắng bất diệt, quả đúng như vậy, tuy nhiên suy cho cùng thì chùa chiền thật sự cần Phật để giác ngộ hơn cần tín đồ để được sống đời vô thường, nhìn xem chỉ mới có một vị giác ngộ mà nuôi dưỡng và xây dựng biết bao tự miếu qua bao đời, huống là nếu mỗi đời đều có một bậc thành tựu giác ngộ, giá như mỗi ngôi tự viện là một cánh cửa chính yếu nhập đạo thì mỗi đời dù không thể sản sinh ra một vị Pháp vương thì chí ít cũng có một Pháp vương tử ra đời. Vô số tín đồ không đủ xoa dịu một nỗi khổ của thế gian, nếu không nói là còn làm tăng thêm khổ cần cầu cứu giúp, nhưng chỉ cần một vị Bồ tát phát đại bi tâm cũng đủ cứu khổ cứu nạn thế gian. Với tâm đại nguyện độ sinh cả cõi địa ngục khổ đau vô gián được Bồ tát gánh vác trên vai cho đến khi địa ngục không còn bóng một chúng sinh, đó là hình ảnh biểu trưng cho tinh thần "thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại". Giá như chùa nào cũng là cửa chính vào đạo thanh tịnh thì các vị tăng ni đều là Pháp vương tử. Nếu vì sợ hãi không có tín đồ nuôi dưỡng bản thân và ngôi chùa mà phải xoay lưng lại với Phật và giáo pháp của ngài để chạy theo thị hiếu tà giáo của đồ chúng thì đó là hàng xuất gia phá đạo, bậc Pháp vương tử không lìa chư Phật và chính pháp nên thà mất mọi lợi dưỡng tà mạng nhưng không bỏ mất chính pháp, đức Bổn sư trong quá khứ khi tu Bồ tát đạo đã hiến thân mạng cho quỷ đói để đổi lấy hai câu kệ, trong một kiếp khác lại khoét thân đổ dầu đốt đèn cũng chỉ đổi vỏn vẹn hai câu kệ, ngài vì pháp không tiếc thân mạng mới thành đạo, ngày nay đệ tử Phật không cần phải hy sinh một cọng tóc, ngồi nhận cúng dường mà được nghe biết bao pháp bảo và kệ mà đức Phật đã có được bằng máu thịt của ngài trong bao kiếp, vậy mà không biết trân trọng giữ gìn, lại đem đổi lấy cơm áo, những kẻ này hành động như gã ngu lấy gấm bọc áo rách trong Chuyện ngu, thực là đau xót. Tăng ni và chùa chiền sống bằng chính pháp để dẫn dắt đồ chúng đến với thanh tịnh đạo, nên không có lý do gì lại bao che cho tà pháp để được đám đồ chúng tà tín nuôi dưỡng. Nho gia Tăng tử gọi Thánh nhân là bậc nhiệm trọng có nghĩa gánh nặng, ông cho rằng thuận với thế tục thì ngược với đạo, thuận với đạo thì trái ý tục nhân, phàm phu vì lợi dưỡng nên thà mất đạo chứ không để mất đám đông, chỉ có Thánh nhân hiểu đạo mới thà nghịch ý đám đông còn hơn mất đạo, và đây là gánh nặng nhất mà chẳng kẻ phàm nhân nào dám gánh, chỉ có Thánh nhân mới hiên ngang gánh vác nên gọi là bậc nhiệm trọng".

Đồ chúng không nên luống qua một kiếp người khi chỉ sống trong nhọc nhằn âu lo, rồi chết trong sợ hãi tiếc nuối, và nếu cầu giải thoát thì đừng bỏ lỡ đại nhân duyên với sự khai mở Phật tri kiến của đức Phật, nhờ Phật tri kiến mà nhận ra tính giác ngộ vốn là bản tâm, nhận ra bản tâm thì giác ngộ, Thiền tông gọi là kiến tính thành Phật. Vô minh gây đại họa lớn nhất cho chúng sinh là không nhận ra tính giác nơi mình, thế nên muôn đời làm kẻ mê chỉ dựa vào tính giác của bậc giác ngộ để cầu xin, nhưng dù tận tụy thờ phụng cầu nguyện đến tận vị lai đi nữa cũng vẫn không sao giác ngộ, chỉ đến bao giờ họ giác ngộ được tự tính bản tâm của họ vốn sẵn giác, và nếu không phát tâm thì không sao giác ngộ được điều này. Vậy mới hay cái ngu nhất trong mọi thứ ngu là không nghe theo sự chỉ dạy của bậc thầy trí huệ bên mình.

Xuất thế gian Phật pháp.

Đức Phật tuyên thuyết "như nước trong biển cả chỉ duy có vị mặn, đạo ta cũng vậy, chỉ duy có vị giải thoát". Như vậy hễ thiếu vắng hương vị giải thoát tất không phải đạo Phật, lại nữa trong các kinh điển của tiểu thừa đức Phật thường để lại ba dấu ấn gồm vô thường, vô ngã và niết bàn, nếu pháp nào không có một trong ba dấu ấn này thì không phải là Phật nói, mà là ma nói. Nếu mọi thứ đã là vô thường tất không cần đoái hoài, mà chỉ cầu giải thoát khỏi vô thường để đạt được thường trụ tức niết bàn. Nếu đã vô ngã không thật tất chỉ cầu giải thoát ra khỏi thứ vô ngã để được ngã tức niết bàn. Song le muốn giải thoát trước hết phải giác ngộ ba pháp ấn vô thường, vô ngã và niết bàn. Lại nữa thường là cảnh giới niết bàn tức y báo, ngã là pháp thân tức chính báo, y chính không hai, pháp thân với niết bàn cũng chỉ là một.

Nói giải thoát có nghĩa thoát ra khỏi ba cõi bất ổn như nhà lửa tức xuất thế gian, điều này minh chứng đức Phật muốn đem chúng sinh ra khỏi thế gian hơn là bảo hộ cho chúng được như ý trong căn nhà lửa. Thế gian là cõi mộng vì vậy giải thoát xuất thế gian đơn giản là tỉnh mộng, và giác ngộ là tỉnh mộng, như vậy giác ngộ và giải thoát bất nhất nhi bất dị (không phải là một nhưng không hề sai khác). Tựu chung nếu không giác ngộ chính pháp bao quát ba pháp ấn, bốn diệu pháp, mười hai nhân duyên và sáu ba la mật đa tất không thể giải thoát. Chính pháp là các pháp dẫn đến giác ngộ giải thoát, nếu chẳng thế thì không được gọi là chính pháp. Tín chúng quen coi các thiện pháp tụng kinh ăn chay, cầu nguyện đều là chính pháp, các pháp đó chỉ là thiện pháp sinh thiên hưởng phúc như mọi giáo pháp của các tôn giáo, mà không đưa đến giác ngộ giải thoát nên không thật sự là chính pháp. Thậm chí dù tu học các pháp được gọi là chính pháp nhưng bằng vọng tâm chỉ cầu kiến thức không cầu giải thoát như học vị tiến sĩ của các học giả giảng sư thì các pháp ấy cũng mất tính chính pháp, vì vậy chẳng có tiến sĩ, giảng sư không phát tâm cầu giải thoát nào giác ngộ cả, thế nên phát tâm cầu giải thoát tức phát tâm vô thượng mới lãnh hội và thâm nhập được chính pháp để thành tựu trí huệ như biển rộng trời cao. Do đó phát tâm đích thực là cửa chính yếu để thâm nhập chính đạo, nhập được chính đạo thì giác ngộ giải thoát là việc tất nhiên.

Lại nữa hiểu biết cao thấp là do tâm cao thấp, nay muốn có sự hiểu biết vô thượng gọi là giác ngộ mà không phát tâm vô thượng thì khác nào kẻ ôm tâm biếng nhác mà muốn có kiến thức quảng bác.

Chính pháp và phát tâm.

Người học Phật đều biết rằng phát tâm tiểu thì được quả vị La hán, tâm trung thì được quả Duyên giác, tâm đại được quả Bồ tát, vậy tất nhiên tâm vô thượng ắt được quả Vô thượng bồ đề. Tựu chung các quả vị tam thừa đều thuộc xuất thế gian tức xuất thế Phật pháp, và đây là ý chỉ chân thật của đạo Phật, các pháp xuất thế này sẽ vô công dụng đối với người không phát tâm xuất thế, cho dù đó là giảng sư hay tiến sĩ, và sẽ là pháp xuất thế gian chân thật khi đi cùng sự phát tâm, bất kể người phát tâm là tăng hay tục, trí hay ngu. Vì vậy chính pháp hay xuất thế pháp không thể dùng chữ nghĩa, kiến thức để phân định, mà phải dùng trí tuệ giác ngộ giải thoát mới nhận được, chính vì lẽ này mới biết phát tâm là cửa chính yếu để nhập đạo tức thâm nhập chính pháp. Trong kinh Pháp hoa đức Phật đã nói rõ mục đích thị hiện nơi đời là để chỉ bày trí giác giúp chúng sinh được giác ngộ và trí giác mà kinh gọi là Phật tri kiến đó chính là vô thượng chính pháp.

Do giải thoát có nhiều từng bực tùy theo sự giác ngộ tức sự nhận biết về xuất thế pháp, trong kinh Pháp Hoa dụ chính pháp như cơn mưa rơi xuống khu rừng, tùy theo loại cây hấp thụ nước nhiều ít dù mưa rơi bình đẳng, cũng vậy đức Phật rải cơn mưa chính pháp bình đẳng, tùy theo tâm đại tiểu mà giác ngộ chứng quả Bồ tát hay Thanh văn, nếu là tâm vô thượng thì quả chứng là Phật vị, và đó là vô thượng chính pháp như thế muốn thành Phật quả cần chứng chính pháp vô thượng, muốn ngộ nhập chính pháp vô thượng cần phải phát tâm vô thượng. Chính pháp phân thành ba thừa được gọi là quyền thừa chính pháp hay phương tiện chính pháp, chỉ có chính pháp thành Phật thông triệt từ thế gian chúng sinh đến xuất thế thánh nhân, không đâu không là Phật quả, biến khắp mười phương ba đời mới là thật chính pháp, cũng là cứu cánh chính pháp hay vô thượng chính pháp.

Cần hiểu rõ Phật có nghĩa là thật pháp, là cứu cánh, là vô thượng hơn là thói quen nghĩ Phật là một người có quyền năng hơn mọi người, vì lẽ này đức Phật dạy "bất dĩ sắc kiến ngã" đừng nhận Phật qua hình tướng, vì vậy "y pháp bất y nhân", y vào pháp đừng y vào tướng và đồng thời ngài nhấn mạnh "Phật vô tứ tướng" tức không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng và thọ giả tướng. Do vậy nơi chúng sinh huyễn hóa có một thứ thật duy nhất đó là Phật, như trong sóng tụ tan hư huyễn có một thật duy nhất là nước. Phật thật sự không phải là một ngã, một chúng sinh hay một tha nhân đối lập với chúng sinh mà Phật chính là gốc chân thật gọi là bản tâm của mọi chúng sinh huyễn hóa, nhờ yếu tố này mà hết thảy chúng sinh đều có thể thành, vì vốn là Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói nếu không rõ điều này tức không hiểu chân tính là Phật thì không thể thấy được Phật, "bất liễu bỉ chân tính thị nhân bất kiến Phật", cũng vậy vô thượng chính pháp chính là thật pháp của mọi pháp bao quát từ thế gian pháp đến các pháp xuất thế phương tiện, mà không hề là pháp độc lập với mọi pháp nọ. Do vậy Kinh Tứ Thập Nhị chương xưng đức Phật là vô vị chân nhân, và như thế vô thượng chính pháp cũng có thể được coi là vô vị chính pháp, vô vị có nghĩa không có vị trí vì nó xuyên suốt hiện diện trong mọi vị trí, cũng có nghĩa là vô trụ.

Phật đã là bản tâm, như vậy bản tâm vốn giác, muốn giác ngộ tất chỉ cần nhận ra bản tâm, và dĩ nhiên phải phát khởi tâm này ra bởi đó là cửa chính yếu để vào đạo giác ngộ, nhận ra bản tâm là nhận được thật Phật, Phật ấy không chỉ riêng là Phật của bản thân mà cũng là "bản Phật" hiện hữu khắp mọi nơi, biến nhất thiết xứ, còn gọi là Pháp thân Phật, vì vậy nếu không phát tâm biết dựa vào đâu để nhận biết bản Phật, do đó đức Phật nói trong kinh Hoa Thủ "A Dật Đa thành Phật vốn không khó, nhưng khó do vì rất khó phát tâm". Điều ngu ngốc nhất của một người tu học Phật pháp là không tuân lời Phật dạy.

Tâm hay khẩu.

Hàng tu học thế gian Phật pháp, đôi khi hè nhau làm lễ phát bồ đề tâm long trọng trước tôn tượng, và cho đó là phát tâm rồi, thực là ngu ngơ, bởi nếu thật phát tâm thì tác dụng của tâm sẽ phát sinh lập tức, tác dụng đầu tiên vì muốn thượng cầu nên thực hành hạ hóa chúng sinh, nhờ vậy phát sinh công đức thông hiểu pháp độ sinh thay vì trước đó chỉ tu học và thông các pháp tự lợi. Có thông hiểu pháp độ sinh, trừ bỏ pháp tự lợi mới thâm nhập kinh tạng nơi bảo tạng dung chứa mọi trí huệ độ sinh bao la như biển cả, tín chúng cần hiểu trí huệ thanh tịnh của chư Phật đều là trí huệ vô ngã độ sinh, khác với trí huệ thế gian bất tịnh chỉ mưu lợi cho bản thân. Nhưng xem ra những người từ khẩu phát tâm bồ đề đều không được như vậy, nên rõ ràng họ chỉ phát khẩu bồ đề còn tâm vẫn dẫy đầy gai góc tham sân, trước và sau khi phát tâm, tâm họ vẫn vô động chuyển. Trí huệ của Phật pháp gắn kết với từ bi nên luôn đem lại công đức, còn thế trí luôn kèm theo vụ lợi cá nhân nên thường gây biết bao tai họa, đó là sự khác biệt giữa trí huệ nói tắt là trí với kiến thức thuộc thức của thế trí.

Cửa chính yếu vào thật đạo giải thoát.

Người chân chính quy y Phật đương nhiên phải phát tâm vô thượng, nương vào tâm vô thượng để học và tu vô thượng pháp, học vô thượng pháp hầu thành tựu trí huệ thanh tịnh quán sát căn tính chúng sinh, tu vô thượng pháp hầu phát triển từ bi tùy căn tính hữu tình mà hiện thân cứu độ. Sự tu học vô thượng này là chân thật đạo, đúng với bản hoài của chư Phật thị hiện nơi đời. Phát tâm là cửa chính yếu để vào cung trạch của Như Lai, cũng chính là bước vào thật đạo của chư Phật, người vào cung trạch sẽ lãnh hội như thật đạo, lên ngôi Pháp vương, trí huệ như biển, độ nhất thiết chúng sinh. Vì đại sự nhân duyên này Như lai mới xuất hiện nơi đời.

Phật giáo đồ đừng bỏ lỡ đại nhân duyên với đức Phật và chính pháp mà bỏ qua sự phát tâm mở cánh cửa chính vào thẳng bảo điện tiếp thọ chính pháp, làm Pháp vương tử, mà để cho tâm si mê hướng dẫn mở cánh cổng vào sân hay đi cửa hậu vào cung trạch chỉ để làm công quả cho Pháp vương. Phát tâm vô thượng bồ đề mới thật sự là tu học chân thật.

Tâm là cửa vào mọi cảnh giới, tùy theo cánh cửa tâm của bản thân mà chúng sinh bước vào một trong mười cõi. Tâm bồ đề hay vô thượng là đại môn, cửa lớn thông hết mười cõi, tự tại vào ra, Bồ tát dùng tâm này thị hiện biến khắp các cõi độ sinh vô ngại, Tỉnh Am đại sư nói "trước là phát tâm vô thượng bồ đề, sau là tu tập độ sinh, thì Phật sẽ thành, chúng sinh sẽ độ được". Hãy phát tâm làm cây đại thọ hấp thu vô thượng chính pháp, che mát muôn loài thay vì phát tâm tự lợi làm loài cỏ dại, chỉ hấp thu được ít ỏi thiện pháp không đủ để tự che mát nói gì đến cho tha nhân. Người có đại nhân duyên với chư Phật tất giác ngộ được cửa chính yếu để vào đạo, nhất là những ai xuất gia cầu giải thoát không thể không phát tâm vô thượng giác ngộ này. Tránh né hay từ chối phát tâm là chối bỏ giải thoát, một hiểu biết u mê chôn vùi giác ngộ đến tận vị lai.

Cổng cầu nguyện.

Cầu nguyện là một nhu cầu thiết yếu của nhân loại, bất kể chủng tộc, văn hóa, truyền thống hay tôn giáo nào đi nữa cũng có chung một tập quán cầu nguyện, và vì thế cầu nguyện là sinh hoạt chủ yếu cho các tín đồ tôn giáo, nó là cửa chính yếu của chùa chiền, thánh đường, đạo quán… tuy nhiên cổng này phân làm đôi ngả, một tiêu cực và một tích cực, nhưng đối với thật đạo của Phật giáo thì cầu nguyện chỉ là cổng vào sân mà thôi.

Khi mong mỏi điều gì được như ý thế nhân thường cầu sự trợ giúp của các bậc họ cho là linh thiêng như trời Phật thánh thần, thực tế thì trong vô vàn lời cầu xin của cá nhân hay tập thể họa hoằn lắm có được vài thành tựu, phải chăng các vị ấy không linh?. Có những lý do để không linh, như lời cầu xin chỉ có lợi cho bản thân mà gây tai họa cho người, hay như những sự xin xỏ cho tội ác được thành tựu hoặc chúng không bị phát giác, nhưng quan trọng hơn cả là người cầu xin không đủ phúc duyên để được như ý.

Người chăm tu phúc huệ thường cầu mong việc lợi ích chúng sinh, nên gặt hái được nhiều công đức, nhờ vào công đức này đủ để thành toàn mọi ước nguyện lợi sinh. Người cầu nguyện cần dựa vào công đức hay phúc duyên của bản thân nhiều hơn là nhờ vào lực của Thánh thần, dụ như nếu họ đủ công đức để được như ý, thì khi họ cầu cho người thân đang bị nạn vì điều đó có thể khiến họ buồn khổ, người thân có thể thoát khổ nạn nhờ vào phúc luôn được như ý của họ. Vì vậy việc cầu nguyện có thành tựu hay không tùy thuộc vào phúc đức của người cầu cũng như kẻ được cầu, nếu người cầu có nghiệp khổ sâu nặng thì mọi sự cầu nguyện thoát khổ của họ vô phương thành tựu, có vậy họ mới là kẻ vô phúc, bởi nếu thành tựu hóa ra họ là người có phúc ư? và nếu phúc của người cầu kém hơn nghiệp khổ của kẻ được cầu thì cũng không thể linh ứng, nếu người cầu phúc lớn hơn kẻ được cầu thì có khả năng linh ứng. Do đó muốn cầu nguyện được thành tựu cần phải có đủ phúc báo, vì lẽ này đức Phật dạy ngài Mục Liên phải thỉnh các vị tăng thanh tịnh có công đức cầu nguyện mới cứu được tội khổ sâu nặng của địa ngục. Ngay người tại gia cũng tin tưởng vào sự cầu nguyện của tăng ni vì cho rằng người xuất gia có công đức, nên hễ có việc cần cầu là phó thác hết cho chùa, như thế lẽ ra thay vì chăm cầu nguyện, đồ chúng phải chăm hành thiện tu phúc, bởi nếu không đủ phúc duyên hay vô phúc thì họ có tự cầu hay thỉnh bậc cao tăng cầu dùm cũng vô tác dụng, cứ xem ngày rằm mỗi năm đồ chúng đều cầu an hết chùa này đến chùa nọ mà quanh năm vẫn ăn chung ngủ cùng với âu lo bất ổn, không chỉ một đời mà tiếp nối đến tận vị lai, chung quy chỉ vì cầu xin mỗi ngày, mà tu phúc thì vài năm một lần, xin thừa phúc thiếu nên chẳng nhận được gì ngoài cuộc sống lao đao vất vả, song vẫn chưa chịu tỏ ngộ, cứ càng khốn khó càng hăng say cầu cúng xin xỏ. Người có phúc chỉ chăm hành thiện ít cầu nguyện, trái lại kẻ bạc phúc lười hành thiện, chăm cầu xin, những điều họ cầu đều không ngoài mong mỏi được phúc như ý, nhưng phúc chỉ là quả tất nhiên của nhân hành thiện, chẳng liên quan gì đến cầu cúng, ai dựa vào cầu cúng để được phúc chỉ là kẻ nằm chờ sung rụng, ôm cây đợi thỏ. Bồ tát thường hằng độ sinh, chưa từng cầu nguyện, phàm phu cầu xin muôn triệu kiếp, chưa hề lợi sinh.

Bồ tát tuy thệ độ nhất thiết chúng sinh nhưng cần phải hữu duyên mới độ được, vì vậy đồ chúng muốn được cứu cần phải kết duyên lành với ngài qua việc y giáo phụng hành, cứu độ sinh linh, như bệnh nhân muốn khỏi bệnh phải tuân thủ trị pháp của lương y. Đạo Phật coi độ sinh là công đức tối thượng, vì chỉ công đức đó mới đưa đến Phật quả, người thiếu nhân duyên với công đức này sẽ không tiếp nhận được sự cứu độ của Bồ tát, bởi được cứu là phúc phần và những kẻ ác nghiệp sâu dày làm thế nào lại nhận được phúc phần này. Vì vậy phúc đức là điều kiện ắt có và đủ để giúp cầu nguyện được linh ứng. Người cầu kẻ nhận đều cần có phúc báo, nếu phúc mỏng nghiệp dày thì cầu nguyện cũng như không mà thôi.

Phật giáo đồ ngày nay đa số lấy việc thờ phụng cầu nguyện làm sinh hoạt chính yếu nên phải hiểu rõ mọi vấn đề liên quan đến cầu nguyện mà không được mê tín nghe theo tà thuyết thiết lễ cúng tế cầu xin bất kể thứ gì với chỉ một điều kiện duy nhất là chi tiền cúng lễ, cầu nhỏ chi nhỏ, cầu lớn chi lớn, chả thế mà dân gian có thành ngữ "có tiền mua tiên cũng được", chỉ có điều không biết các bậc Thánh thần có nơi tiêu tiền hay cần mua sắm thứ gì không?, và họ có dùng đến những thứ lễ vật mà kẻ dung tục cho là trân quý dâng cúng, hay nó chỉ là rơm rác đối với các bậc phúc cao đức trọng có thần thông ban phước diệt họa kia, như vậy tiền và lễ vật hẳn không mua được tiên, bởi tục nhân dùng tiền nuôi thân, còn Thánh nhân dùng đức nuôi thân, do vậy Phật Thần không nhận hối lộ, chỉ nhận tấm lòng thành trong sạch cầu thỉnh việc nhiêu ích hữu tình.

Đồ chúng khi cầu nguyện phải thành tâm tự cầu hay tham gia cầu nguyện cùng chư tăng mà không được chi tiền giao cho chùa bao trọn gói một cách vừa lười vừa không thành tâm, lễ vật là hành thiện cứu giúp muôn loài như phóng sinh, bố thí, cầu nguyện thành tâm và thanh tịnh như vậy mới cảm ứng được Phật thần, tránh nghe theo thầy cúng bói toán lừa phỉnh mà dâng lễ cúng tiền để được linh ứng, nhưng rồi tiền mất tật mang, thầy cúng cũng nghèo kiết xác sống nhờ vào sự mê tín, nếu họ cầu cúng linh nghiệm ắt đã cúng cho bản thân được cao sang quyền quý, có đâu cúng bữa nào ăn bữa nấy, không cúng đến cháo cũng không có mà húp. Người xuất gia phải chỉ dạy đồ chúng cầu nguyện đúng pháp, không được mở cổng cúng bái mê tín này cho ma vào, bởi chúng sẽ dẫn theo vô số đồ chúng của đức Phật vào cổng này để ma hóa họ và biến đạo tràng giác ngộ thành hang ổ của ma.

Riêng về vấn đề cầu siêu chư tăng ni cần phải chỉ dạy đồ chúng am hiểu đúng chính pháp về việc cầu siêu. Ý nghĩa của cầu siêu là gì? Siêu chẳng qua là siêu thoát khỏi các cõi khổ, sinh về cõi an lành, cầu siêu không có nghĩa cúng cơm cho vong ăn, vong không cần ăn bằng cần được sinh về chốn bình yên, và khi thác sinh rồi thì không còn về ăn cơm cúng hay nghe kinh cầu. Chỉ những vong nhân nào trong 49 ngày chưa thể thác sinh thì cần phải cầu siêu bằng cách tạo các thiện pháp hồi hướng công đức, cũng như thiết lễ trai tăng, thỉnh pháp, dùng tài thí và pháp thí hồi hướng cho vong nhân siêu thoát sinh về chốn an lạc, quá 49 ngày vong sẽ thác sinh và khi ấy cầu siêu không còn giá trị, bởi vong nhân không thể vất vưởng vì không thuộc về cõi nào, nếu đã không thuộc về cõi nào, vong sẽ không lai vãng đến được bất kì cõi nào vong không thuộc về, như thế vong không đến được cõi người nơi phúc cao hơn cõi vong để thọ nhận cơm cúng. Nếu mỗi năm mỗi cầu thì sự cầu đi cầu lại này không có hiệu quả và đã vô hiệu thì chẳng cần cầu, còn như có hiệu nghiệm thì sau khi cầu vong đã đi thác sinh rồi, nên hà tất phải cầu cúng hàng năm.

Các cổng giúp Ma thâm nhập bảo điện.

Thiên ma Ba Tuần nói với đức Phật "hiện tôi không làm gì được ngài, nhưng sau khi ngài nhập diệt tôi sẽ cho thuộc hạ trà trộn vào cung trạch của ngài để nhiễu loạn đồ chúng của ngài", và Ma vương đã không dọa suông, càng lúc trong bảo điện của Như Lai xuất hiện càng nhiều tay chân và ma pháp phá hoại chính pháp. Ma thâm nhập vào cung trạch Như Lai nhờ nội gián mở cổng cho chúng thâm nhập bảo điện.

Cổng bói toán mê tín.

Do không phát tâm, không cầu giác ngộ, chỉ mong cầu dục lạc, xây chùa tạo tượng thờ Phật như vị thần bảo hộ, những người này coi ngôi chùa đó và sự tôn thờ đức một vị Phật bảo hộ dục lạc thế gian là chính nghĩa, thay vì tu tập giác ngộ và dùng chùa làm nơi dẫn dắt đồ chúng đồng tu giải thoát, họ biến chùa thành nơi cúng tế, dâng lễ, bói toán, cầu xin tài lộc theo tín ngưỡng dân gian bỏ Phật ngồi chơ vơ giữa đám người vào ra cầu được dục lạc, ngày qua ngày xem ma dân thao túng bảo điện, gieo quẻ xin xăm "Phật bà", coi ngày tốt xấu làm ăn cưới hỏi, thậm chí thờ Phật an vị cũng phải xem ngày coi hướng, thử hỏi chư Phật Bồ tát có dựa vào ngày hay hướng tốt để cứu khổ cứu nạn không? Quý ngài có úy kỵ ngày và hướng xấu nào không?, Phật giáo đồ cần chư Phật hay cần ngày tốt?, ngày tốt bảo hộ mình hay Phật bảo hộ?, đồ chúng thờ phượng ngài vì tin rằng ngài sẽ bảo hộ mình bất cứ lúc nào nơi đâu mình gặp chuyện xấu, nhờ vào công đức hủy diệt mọi nỗi khổ ở thế gian, ngài biểu hiện cho điều an lạc tốt đẹp nhất, vì vậy phàm bất cứ khi nào ở đâu có Bồ tát đều là ngày tốt nơi tốt, nếu chỉ tin vào ngày tốt để làm ác thì nó sẽ là thảm họa, nhưng nếu có Phật trong tâm thì mọi nhân ác đều bị diệt từ trong trứng nước nên luôn an lành, mà chẳng có ngày giờ tốt nào có được, nếu hiểu Phật là ngày giờ và phương hướng tốt linh động biến khắp ngày giờ phương hướng không cố định như những ngày tháng trong lịch, thế thì sao thờ Phật lại phải xem ngày?, nếu thờ Phật phải xem ngày thì tụng kinh cũng phải xem ngày ư, và rồi khi gặp nạn muốn niệm Bồ tát cầu cứu cũng phải xem ngày tốt mới dám mời ngài đến cứu mình sao?. Ngẫm xem vào giờ khắc đen tối nhất hay ở bất cứ phương hướng nào bi thảm tột cùng mà có Bồ tát xuất hiện thì giờ khắc hắc ám kia và phương hướng khổ đau nọ đều sẽ trở thành hạnh phúc và an lạc, như thế Bồ tát mới thật sự là ngày giờ và phương hướng tốt, và dĩ nhiên thờ phượng ngài không cần đến ngày giờ hay phương hướng tốt xấu. Muốn được mọi sự an lành mê nhân chọn ngày giờ và phương hướng, trí giả xem quả chọn nhân. Liễu tri nhân quả là trí huệ của chư Phật, mê muội nhân quả là vô minh của nhất thiết chúng sinh.

Ôi! chẳng thấy thiện nam tín nữ đi chùa lễ Phật nào đếm xỉa đến giải thoát, chỉ chìa tay xem số đoán quẻ, xin ngày cúng lễ, thế nhưng phàm tăng lại cho đây là phương tiện để thiên hạ đến chùa, nhưng sự thật đó chỉ là cổng phương tiện mở ra cho ma hiên ngang vào bảo điện với tư cách là người tài trợ cho nguồn tài chính thu nhập chính yếu và phong phú nhất của chùa, người đi chùa vì tà pháp mà không vì chính pháp giải thoát, thì chùa chẳng qua chỉ là đạo tràng của ma, núp bóng già lam, tội phá đạo phá chùa này những kẻ mở cổng hẳn phải chịu trách nhiệm.

Cổng đốt vàng mã.

Một số tự miếu còn đồng lõa với tệ nạn đốt giấy vàng giả gửi lậu xuống cõi dưới, dối gạt từ cõi dương đến cõi âm, dân gian bị bịp ngỡ là ông bà mình định cư vĩnh viễn ở âm ty, và mấy thứ đồ giả bằng giấy đó là tài sản được dùng hợp pháp ở cõi âm, họ lại qua mặt Diêm chúa tự in tiền cho những kẻ bị giam cầm và quỷ sứ thuộc hạ của Diêm vương tiêu dùng mà không xin phép ngài, quả là sự xúc phạm khó tha thứ, lại có nhiều gã dở hơi còn kể mộng thấy bố về khóc mếu máo bảo con gửi những thứ kê khai sau để bố hối lộ cho quỷ Ngưu bàng chiên bớt lửa lại, cưa nhẹ tay hơn, không rõ Diêm vương có biết việc này không? Hẳn với thần thông của bậc cai trị bọn ngu ác chắc chắn ngài biết rõ gốc gác của những kẻ chuyên làm đồ giả, lừa lọc tha nhân, dối gạt quỷ thần và kẻ tuồn đồ lậu xuống âm ty thông qua chùa miếu, chờ tới khi mạng chung mấy kẻ đó sẽ phải trả lời tội in tiền giả, làm hàng giả, nhập lậu không giấy phép trước vành móng ngựa của địa ngục, nghe đâu trong kinh nói dưới đó không có án tử hình vì dưới đó chỉ có kẻ mãn hạn địa ngục mới may mắn được chết để đầu thai cõi khác, song chớ vội mừng, dưới ấy thường xem xét tùy theo tội nặng nhẹ mà tuyên án hình phạt bao nhiêu lần chết đi sống lại đồng nghĩa với chiên cưa cắt chặt bao nhiêu lần, đại để như cho vào chảo chiên tới chết, vớt ra sống lại, đưa lên thớt cưa làm nhiều khúc đến chết, lại đem qua thứ hình cụ khác thì sống lại, cứ thế chết đi sống lại đến khi nào đủ số án phạt mới ngừng, hóa ra án phạt tưởng nhẹ ở đây cũng bằng án tử hình nhiều kiếp trên dương thế, thực hãi hùng, quả là địa ngục danh bất hư truyền. Có điều vì sao người gửi tiền giả và đồ mã không nghĩ dưới địa ngục ngoài nhà lao, gông cùm trói buộc, chảo dầu cột đồng, bàn cưa ra làm gì có siêu thị, nhà hàng, karaoke đâu mà tiêu tiền, lại ai cũng bị nhốt chung thân đâu có rảnh mà đi lang thang giải trí, ở đó quanh năm chỉ có hai mùa là mùa chiên rán và mùa cưa cắt, thực bi đát.

Những thứ tà vạy mê tín này phải bị chùa chiền cấm cửa, tăng ni không thể mở cổng cho những thứ này du nhập vào chốn già lam làm hoen ố chùa chiền, khiến tín đồ ngộ nhận sự mê tín này là của Phật giáo, hiện giờ đã có vô số đồ chúng đốt vàng giả cho ông bà, đám này trù ẻo ông bà ở địa ngục vĩnh cửu, mặt khác thì dâng sớ cầu siêu dịp Vu lan, nếu dâng sớ linh ứng cha mẹ ông bà đều đã siêu sinh, thì còn đâu để cúng giỗ đốt vàng mã, nếu tiếp tục cúng và đốt có nghĩa tin dâng sớ cầu siêu chẳng có chút hiệu nghiệm, vậy thì đừng nên tiếp tục dâng sớ nữa.

Lại có nhiều chùa còn bán hậu cho đồ chúng, ai mua hậu cho người mất thì đến ngày giỗ chùa sẽ tự động cầu siêu dùm cho họ, chả hiểu cầu siêu thế nào mà vong không siêu nên năm nào cũng đến hẹn lại lên, mỗi năm mỗi cầu, nếu bảo đảm cầu là siêu thì chỉ cầu một lần là xong, cần gì phải mua hậu để được cúng mỗi năm, thế nhưng hàng đồ chúng vừa vô trí vừa lười nên bán cái chuyện cầu cúng cho chùa bằng cách mua hậu.

Cổng sao hạn.

Nhiều chùa mở cổng "cúng sao giải hạn" cho tà pháp xâm nhập già lam. Thay vì dạy đồ chúng coi trọng nhân quả, tránh dữ làm lành, để khỏi đọa lạc, thì vẽ chuyện bịa ra cúng sao giải hạn, để lách luật nhân quả, đút lót sao hạn thông qua môi giới chùa chiền, né tránh quả báo, từ kẻ tin đến người bày đều bị ma ám sai sử phá hoại già lam. Từ kẻ cúng đến người cầu đều u mê chả biết sao hạn là giống gì, ở đâu ra và bất kể đạo Phật không thừa nhận mấy thứ tà tín đó, kẻ chủ lễ vẫn dùng nghi thức Phật giáo vào việc cúng sao giải hạn thứ bị coi là mê tín để thu tiền, thực mỉa mai không biết tàm quý, tai họa nhất là khiến đám ngu nhân mê muội tin theo đám đông và chùa, nên dâng sớ cúng tiền cho sao để giải hạn xấu, ấy vậy mà trong năm vẫn đón hết hạn này đến hạn kia, đời sống vẫn rã rời ê chề, chẳng biết đến thuở nào sao hạn mới chấm dứt làm tiền.

Cổng oan gia trái chủ, và duyên âm.

Có chùa lại bày vẽ chuyện hồn ma theo đòi nợ gọi là oan gia trái chủ, muốn giải trừ phải trả số tiền mà người môi giới của vong linh thường là trụ trì hoặc đệ tử thân tín bịa ra. Nho gia nói "nhất ẩm nhất trác giai do tiền định" có nghĩa ngay một miếng ăn một miếng uống cũng đều là tiền định, tức số mạng đã định trước. Đạo Phật cho tiền định ấy là nhân quả, mọi sự đều vận hành theo quỹ đạo của nhân quả, không một điều gì nằm ngoài được nhân quả, như vậy nhân quả đã định sẵn, chạy trời không khỏi nhân quả, Phật pháp gọi là quả báo, ác giả ác báo, thiện giả thiện báo, đời nay giết người, đời sau bị người giết, giết đi giết lại không ngừng, cho đến khi một người vứt bỏ dao giết xuống, nhất định không giết, khi đó nghiệp sát giữa hai người mới ngưng, đời này ăn cá, đời sau bị ăn lại, ăn qua ăn lại cho đến khi một người nhất định không ăn mà còn thả mới chấm dứt được nghiệp nợ này, sự giết qua giết lại, ăn qua ăn lại chẳng qua là món nợ lẫn nhau gọi là oan gia trái chủ được nghiệp báo xử lý công minh theo nhân quả, mà không có hồn ma của người hay cá nào tự đi đòi nợ. Trải qua luân hồi chúng sinh không nhớ nghiệp cũ nhưng nhân quả vẫn cho ra quả tốt hay xấu theo nhân đời trước, chẳng ai nhớ ai để đòi nợ hay trả ân, nhân quả gánh vác và giải quyết công bằng hết mọi món nợ ân oán, bởi vậy trong cuộc sống có nhiều điều ngoài dự liệu như bỗng dưng có kẻ ghét chỉ muốn ta khổ, lại có người thương sẵn lòng giúp đỡ, đây chẳng qua là quả của oan gia trái chủ, hơn nữa ai cũng vừa là chủ nợ vừa là con nợ, không một ai trong cõi đời này không hề nợ cũng như không có người nợ, được cứu giúp là mang nợ, bị tổn hại là chủ nợ, càng được giúp càng nợ nhiều, càng bị hại càng có nhiều món nợ để đòi, xét cho cùng thì ai cũng nợ ngập đầu và có món nợ đòi mãi không hết, nếu vong hồn nào cũng tự đi đòi nợ và trả nợ thì sáu cõi đại loạn, âm dương hỗn độn bất phân, thử nghĩ xem trái chủ A đòi nợ B, trái chủ C đòi nợ A, rồi có thể trái chủ B đòi nợ C, trong trường hợp này chẳng hiểu có cấn nợ được không, nhưng may nhờ nhân quả chí công vô tư giải quyết công bằng êm thắm, mọi món nợ sẽ được trả trong tương lai bất luận nợ tốt hay xấu, nợ tốt thì tự dưng được con nợ tận tình giúp đỡ, nợ xấu thì bị con nợ đày đọa hành hạ cho đến khi hết nợ, thậm chí là sát hại vô cớ như những vụ án mạng xảy ra mọi nơi, chỉ mới giáp mặt đã lấy mạng nhau, nếu đã có máu sát nhân sao không giết những người hắn đã từng gặp mà nhè ngay người mới thấy là ra tay, nếu đó không phải là oan gia trái chủ thì chả có nhà tâm lý nào giải thích được, đến ngay chính hung thủ cũng không biết rõ vì sao, chỉ có nhân quả thấu tỏ nguồn cơn. Oan gia trái chủ là thế mà không nhảm như những gì xảy ra ở đền chùa. Tuy nhiên không bao giờ nợ cạn kiệt trong vòng quay vay trả trả vay, nếu nợ tốt tức phúc báo hẳn không vấn đề, nợ xấu tức nghiệp khổ thì chỉ bao giờ trái chủ chịu xóa nợ, như không làm các việc giết hại chúng sinh, bấy giờ nợ xấu mới kết thúc được, thế nên làm gì có việc oan hồn có khả năng tự tại theo đòi nợ, thực nhảm nhí, oan hồn nào cũng vất vưởng vừa không đủ phúc thác sinh, vừa không đủ trí để tìm cách thác sinh, lại còn gánh nhiều món nợ trên thân, thì làm gì có trí huệ nhận biết con nợ giờ là ai và ở đâu, để tự tại tìm đến, đơn phương đòi nợ mà không cần nhờ đến nhân quả. nếu vong hồn biết được và còn tung tăng theo gót con nợ, thì còn gì là hồn ma nữa mà là bậc thần thông tự tại đó đây thấy biết quá khứ và tương lai của tha nhân, đã vậy tất phải nhận ra mọi thứ đều chỉ là nhân quả của kiếp vô minh huyễn hóa, có gì thật để đòi?, Ôi! chẳng qua ngày xưa có gã bị tâm thần bất ổn, mất ngủ thức khuya bịa chuyện dọa trẻ con và đám dở hơi vô não, gã nào ngờ chuyện bịa trong đêm tưởng chừng giải trí cho vui dè đâu lại được một số tăng ni học hỏi lãnh thọ và mở cổng cung nghinh pháp bịa đó vào chùa, quý vị này diễn giải pháp oan gia ấy rất thông thái làm đồ chúng tin phục sợ hãi và sẵn sàng cúng lễ đóng tiền trả nợ oan gia theo thầy môi giới đề ra, vong hồn oan gia nọ lãnh tiền và phẩm vật rồi mang đi về đâu tiêu chẳng ai hay ngoại trừ kẻ môi giới.

Thầy bói, thầy pháp đồng bóng cũng bịa chuyện duyên âm để làm tiền và lợi dụng thân xác đám ngu nhân mê tín. Những thầy mo cũng như bà đồng bà bóng bói toán, xem tướng bịa chuyện khách bói bị người âm thầm yêu trộm nhớ đeo theo khiến bị bệnh âm và làm ăn khó khăn, cần phải dâng lễ cúng kiếng để cắt duyên không cho người âm theo nữa. Tùy theo thầy dạy mà cắt duyên có nhiều cách thức như đến chùa thỉnh tăng cầu Phật giải trừ, hoặc dâng lễ nhờ thầy pháp gọi hồn giải duyên, hoặc dùng phong thủy hay bùa ngải yểm…

Đạo Phật đã không chấp nhận các thứ mê tín như cúng sao giải hạn, oan gia trái chủ thì dĩ nhiên duyên âm cũng không ngoại lệ. Đã không có vong nhân nào vất vưởng chẳng thuộc cõi nào đi đòi nợ hẳn nhiên cũng không có kẻ âm nào đi đòi yêu người dương được, cả sáu cõi luân hồi do nghiệp nhân quả sai khác nên từ mọi sinh hoạt cảm thọ đến tư duy đều riêng biệt và không cảm nhận được cảnh giới của nhau, nên âm dương đôi ngả không thể tương tác với nhau, do vậy mà thầy bùa, thầy pháp, cô đồng bóng mới tha hồ bịa chuyện mê tín. Tình ái là một thứ khí giới lợi hại nhất của Ma vương, đã được sử dụng trong cuộc chiến với đức Phật dưới cội cây bồ đề, không ai vượt qua cửa ái nổi ngoài bậc giác ngộ, tục nhân khổ vì ái, ác vì ái, liều chết vì ái, bỏ đạo theo ái, thậm chí ái bất thành thì giết người hoặc tự giết mình hay cùng giết nhau. Kẻ âm nọ đã biết yêu và theo người dương tất có thần thông tương tác với cõi khác, liệu các thầy mo sống nhờ mê tín hèn kém kia có đủ phúc lực ngăn cản được không, hay sẽ bị người âm vặn cổ vì dám phá đám cuộc tình âm dương, thực tế thì vấn đề của người âm là lo đi thác sinh giải thoát khỏi cõi không có gì ngoài u ám lạnh lẽo, còn lòng dạ nào lo yêu với đương lại còn yêu kẻ cõi khác thực khôi hài, chỉ có kẻ nghiện hài mới tin chuyện ma tếu này. Phật giáo đồ bất luận xuất gia hay tại gia cũng không được phép mở cổng "cắt duyên âm" vác tà pháp vào chùa cầu cúng, đệ tử Phật cần phải có trí huệ nhận chân được chính với tà để đóng lại mọi cánh cổng được Ma dùng làm chỗ xâm nhập vào cung trạch của Như Lai, hòng nhiễu loạn chính pháp.

Kết luận

Những ai đi chùa để thọ bát, huân tu, học hỏi giáo lý, nghe pháp và đọc tụng kinh điển đều là những người vào cửa chính của chùa xứng đáng là hàng cận sự của Tam bảo. Những ai đến chùa cầu giải thoát bằng phát tâm bồ đề tu tập trí huệ và từ bi độ sinh đều đã vào cung trạch của Như lai qua cửa chính yếu, đó là đệ tử thanh tịnh và là quyến thuộc của ba đời chư Phật. Còn những kẻ đến chùa để xem ngày giờ phương hướng, xin xăm bói quẻ, cầu cúng đồng bóng, giải trừ oan gia trái chủ, dâng sao giải hạn đều là những nạn nhân của tà sư, tà giáo được dẫn vào chùa bằng các cánh cổng của ma.

Nói chung những cánh cổng đó được hàng tăng ni thiếu tu vô huệ, danh văn lợi dưỡng mở cổng cho tà ma, vô minh, dị đoan ào vào gây ô nhiễm làm hỗn loạn chốn thanh tịnh địa, phá hoại chính pháp để trục lợi, đó quả là hành vi của đám sư tử trùng.

Trên con đường tu tập giải thoát khó khăn cam go nhất là phát tâm vô thượng và gìn giữ tâm này, rất nhiều người xuất gia ban sơ tỏ ra dõng mãnh phát tâm nỗ lực mở cửa giải thoát, nhưng sau một thời gian bị ma cám dỗ cảm thấy phát tâm vừa mệt mỏi vừa bị đa số đồ chúng bỏ rơi, nên thối tâm quay sang thương thảo chia chác lợi lộc với ma, trở thành kẻ nội gián mở các cánh cổng phương tiện cho ma, từ người cầu giải thoát trở thành tay mắt của ma để được hưởng thụ lợi dưỡng. Thực đáng tiếc vô cùng, những kẻ này chọn lợi dưỡng mà bỏ chân lý, khác nào kẻ ngu đốt trầm làm than, song họ vẫn đinh ninh đó là cách duy trì ngôi chùa. Ôi! Họ chỉ biết giữ chùa mà không biết giữ đạo, trọng chùa hơn chân lý, khác nào gã ngốc "giữ gìn cửa nẻo" trong kinh Bách Dụ, chạnh nhớ trước kia một thầy bắt lỗi tôi "thầy thuyết pháp có đôi khi gây hại cho chùa", tôi đáp "nếu tôi nói sai chính pháp làm tổn hại chùa, tôi sẽ sám hối trước chùa, còn như tôi nói không sai chính pháp mà chùa bị tổn hại, chùa có chấp nhận sám hối và sửa đổi không?", thầy ấy im lặng. Ôi! Chùa chỉ là công cụ của tăng, nếu gặp bậc cao tăng chùa là cửa nhập đạo giải thoát cho chúng sinh, nếu chẳng may gặp phàm tăng lợi dưỡng, chùa chỉ là cổng vào hang ổ của Ma. Ma vương có năng lực ma hóa mọi sự, nên văn hào Shakespeare mới nói "Lucifer sẵn sàng sử dụng Thánh kinh khi có lợi cho hắn".

Khi được hỏi về hiện tượng xin xăm bói toán trong nhiều chùa, Ấn Thuận đại sư đáp "Đức Phật cấm triệt để những thứ này, nhưng tùy chùa tự ý cho phép, tuy nhiên người xuất gia cần hiểu bất cứ lợi dưỡng nào cũng không hơn được lời dạy của đức Phật". Những kẻ lợi dưỡng ấy sợ giữ chân lý sẽ chịu cô độc và bần hàn, những tâm lý yếu hèn này cần hiểu rằng chân lý không bao giờ đưa đến quả chết đói hay khổ, ngẫm xem đức Phật một mình tìm kiếm chân lý và sau đó chân lý này đã xây dựng cùng nuôi dưỡng biết bao chùa chiền và tu sĩ ròng rã suốt 27 thế kỷ và còn tiếp nối nếu đệ tử Phật biết uống nước nhớ nguồn, quyết báo đền hồng ân chư Phật, phát tâm lập nguyện độ nhất thiết chúng sinh. Nếu như cảm thấy sự đáp đền ân Phật là nan hành không thực hiện nổi thì ít nhất cũng đừng đem chân lý đổi lấy cơm ăn áo mặc.

VTA 20.12.2022

Từ Ngữ Phật Học Trong: Cửa Chính Yếu