“Từng nghe, người đời trọng nhất là sanh mạng, thiên hạ thảm thương nhất là giết chóc”.
Thuyết minh: Nặng nhất có hai: 1. Người đời đối với tiền của, vợ con, chức tước, cho đến thân mình đều coi trọng, nhưng không thể giữ được cả hai, thì trong cái trọng lấy cái trọng hơn. Đó là cứu lấy mình, không tiếc tiền bạc; vì cứu thân mình, không tiếc chức tước; vì cứu thân mình, không đoái vợ con; nên nói quý trọng nhất. 2. Tất cả chúng sanh, đều có khả năng thành Phật, thì sanh mạng chính là hạt giống Phật, nên nói trọng nhất. Thảm thương nhất: đánh, trói tuy đau đớn, nhưng chưa đến nỗi chết, chỉ có giết là thảm thương nhất.
Cho nên thấy nguy hiểm là bỏ chạy, ruồi muỗi, kiến dế còn biết tránh chết. Trời sắp mưa là kiến kéo nhau tránh nạn.
Thuyết minh: Do mạng quý nhất, nên bảo toàn mạng; do giết thảm nhất, nên cố tránh giết. Do đó trùng kiến, đều biết tham sống sợ chết. Những loài nhỏ còn thế, loài lớn không nói cũng hay.
Sao lại giăng lưới, thả câu, tìm đủ mọi cách săn bắt.
Thuyết minh: Tất cả chúng sanh, đều tham sống sợ chết, sao lại còn vô lương tâm, làm các việc ác? Giăng lưới, thả câu, cho đến đặt bẫy, trăm phương ngàn kế, không thể nói hết. Quả là đau xót!
Khiến chúng sanh phải hồn phiêu phách lạc, mẹ con ly tán?
Thuyết minh: Giăng lưới, thả câu, đặt bẫy như trên, thấy là sợ hãi, nên hồn phiêu phách lạc. Mắc bẫy, mắc lưới, mắc câu là phải bỏ mạng, nên mẹ con ly tán; như con người gặp thời loạn lạc, bên binh lửa mẹ con lìa nhau, có khác gì đâu? Có loài thì bị giam nhốt, có loài thì bị lên mâm.
Thuyết minh: Giam nhốt, có khác chi lao ngục; thọc huyết, đau đớn đồng như tùng xẻo. Đặt mình vào trường hợp đó, mình sẽ nghĩ sao?
Nai mẹ thương con, liếm vết thương mà bị đứt từng khúc ruột. Con vượn sợ chết thấy cái cung mà hai mắt lệ rơi.
Thuyết minh: Nai mẹ thương con: Hứa Chân Quân lúc nhỏ thích săn bắn, một hôm bắn trúng một con nai con, con nai mẹ liếm vết thương cho con, thấy con chết, cũng chết theo. Chân Quân mổ ruột nai mẹ, thấy đứt từng đoạn, do thương con quá độ. Chân Quân rất hối hận, bẻ cung, vào núi tu hành, sau thành tiên, bay lên trời. Con vượn sợ chết: Vua Sở và Dưỡng Do Cơ đi săn, thấy con vượn, Dưỡng Do Cơ giương cung bắn, vượn thấy Do Cơ, liền khóc. Con vượn này có bàn tay mau lẹ, có thể bắt được tên, nhưng Do Cơ là thần xạ, biết chết chắc nên khóc.
Dựa vào sức mạnh của mình để bức hại kẻ yếu, lý e không nên. Ăn thịt kẻ khác để bổ thân mình, lòng sao nỡ!
Thuyết minh: Xét hai chuyện trên, thì biết sát sanh rất ư không nên. Nhưng người đời cho là, vật dưỡng nhơn, đâu biết như vậy là mạnh hiếp yếu. Vậy thì, hổ ăn thịt người, cũng sẽ bảo: nhơn dưỡng vật. Người đời cho rằng rau củ thiếu chất, ăn thịt mới đủ chất. Vì mập thân mình, đâu nghĩ đến cái khổ của kẻ khác, vậy thì lòng người ở đâu?
Do đó trời cao thương xót, cổ thánh hành nhân.
Thuyết minh: Đời do mê mờ, mà sát khí động trời. Trời vốn hiếu sanh, thường chỉ cho dân, mà dân không biết. Do sát sanh quá nặng, khiến mưa nắng thất thường, tai nạn binh đao. Tu thiện sự nhiều, thì mưa hoà gió thuận, thóc lúa được mùa, thế giới yên vui. Người đời sát sanh, là nghịch lại với trời. Thánh nhân xưa, do đó trên thuận lòng trời, dưới thương vạn vật, hành nhân cứu tế.
Vua Thành Thang mở lưới, Tử Sản nuôi cá.
Thuyết minh: Mở lưới: Vua Thành Thang đời nhà Thương thấy thợ săn giăng lưới tứ phía, cầu rằng: Các loài trên trời xuống, dưới đất lên, bốn phía lại, đều vào lưới của tôi. Vua Thang mở ba phía, chỉ để lại một phía, sửa lời cầu rằng: Con nào muốn chạy sang bên trái thì qua trái, muốn chạy sang phải thì qua phải, muốn lên thì lên, muốn xuống thì xuống, con nào muốn chết thì mới vào lưới của tôi. Nuôi cá: Tử Sản làm đại phu nước Trịnh, có người biếu cho cá sống, Tử Sản không ăn thịt, cho người mang nuôi trong hồ. Nhìn hai việc này, thì biết phóng sanh, không phải chỉ có Phật giáo, quân tử nhà nho cũng nhiều người thực hành.
Con trai Lưu Thuỷ chở nước cứu tôm cá, đức Thích ca cứu nguy vong cho chim ưng mà cắt thịt.
Thuyết minh: Chở nước: Kinh Kim Quang Minh, con trai trưởng giả Lưu Thuỷ, dạo chơi thấy hồ cá bị cạn nước, sắp chết, dùng voi chở nước đổ vào, cá được sống sót. Rồi nói pháp cho cá nghe, sau chúng chết, đều được sanh lên cõi trời. Cắt thịt: Đức Phật Thích ca Mâu ni, lúc còn hành đạo Bồtát, thấy con chim Ưng đuổi theo chim Bồ câu. Bồ câu chui vào lòng Bồ tát. Chim Ưng nói: Ngài cứu Bồ câu, để tôi đói chết sao? Bồ tát hỏi: Ngươi cần ăn gì? Ăn thịt. Bồ tát cắt thịt nơi cánh tay đổi lấy Bồ câu cho chim Ưng. Chim Ưng yêu cầu phải bằng trọng lượng thịt của chim bồ câu. Bồ tát tiếp tục cắt thịt trên thân mình, nhưng càng cắt lại càng nhẹ, cho đến sắp hết thịt trên thân, mà vẫn không đủ trọng lượng của chim bồ câu.
Chim ưng bèn hỏi Bồ tát: “bây giờ ông hối hận rồi phải không?” Bồ tát trả lời: “tôi không hề hối hận.” Để cho chim ưng tin, Bồ tát nói tiếp: “nếu lời nói của tôi là thật, xin cho thịt trên thân thể tôi phục nguyên như cũ.” Vừa nói xong, thì thịt trên thân bỗng nhiên hồi phục như cũ. Chim ưng cảm động bội phục, lập tức hiện thân Đế Thích, cung kính lễ bái Bồ tát.
Thiên Thai Trí giả đào ao phóng sanh, Tiên nhân đại thụ bảo hộ chim.
Thuyết minh: Đào ao: Thiên Thai Trí giả đại sư, huý Trí Khải, Tuỳ Dạng Đế ban hiệu Trí Giả, từng đào ao khuyên người phóng sanh. Không chỉ Trí giả, xưa nay nhiều người từng làm việc này, Tây Hồ ở Hàng Châu ngày nay, chính là ao phóng sanh được thiết lập vào thời nhà Tống. Bây giờ trở thành thắng địa nổi tiếng. Đáng tiếc thời gian trôi qua, những người đề xướng đều khứ thế, thời cục thay đổi, thiện pháp cũng bại hoại, như đèn bắt cá ngày nay, như sao trên trời. Ban đêm cá thấy đèn, liền bơi lên mặt nước. Bình thời lại có những hoạt động thi câu cá, quả thật khiến đau lòng! Bảo hộ chim: Xưa có một tiên nhân, thường toạ thiền dưới gốc cây, có một con chim con do mưa gió rơi trên tổ xuống, sợ chim sợ hãi, ngồi yên bất động, đợi chim bay đi mới xuất định.
Chuộc cá mà đắc độ, sự để lại nhân ái cho hậu thế của Thọ thiền sư vẫn còn. Cứu rồng mà được truyền phương thuốc, phong cách nhân từ của Tôn chân nhân còn đó.
Thuyết minh: Chuộc cá: Đại sư Vĩnh Minh, nhà Tống, tên Diên Thọ, tổ thứ sáu Tịnh độ tông. Bình sanh sư thích mua vật phóng sanh, lúc Ngô Việt Vương Tiền Văn Mục trấn thủ Hàng Châu, là lúc sư làm thủ khố huyện Hàng. Sư đã sử dụng tiền trong kho mua tôm cá phóng sanh. Vì thế đã mang tội danh “ăn trộm quốc khố.” Theo pháp xử tử. Ngô Việt Vương tín phụng Phật giáo, biết rõ sư lấy tiền kho là để phóng sanh. Do đó ra lệnh cho quan chấp hành hình phạt, khi sắp chém, chú ý quan sát sắc mặt, lời nói của sư thế nào, về bẩm báo trước. Khi đại sư đi ra pháp trường, trên mặt không biểu hiện một chút sợ hãi nào, mọi người ai cũng rất kinh ngạc, đại sư nói: “đối với quốc khố, tôi không có dùng cho riêng mình, tất cả tôi đều mua vật phóng sanh. Nếu nay chết, sanh thẳng lên Tây phương cực lạc, chẳng phải là một niềm vui lớn sao?” Ngô Việt vương nghe tâu lại thế, liền phóng thích cho sư.
Đại sư từ đó xuất gia tu hành, siêng năng tu tập thiền định, lễ Phật sám hối, đắc vô ngại biện tài. Sau khi đại sư thị tịch, Phủ Châu có một thầy mắc bệnh, thần thức xuống âm phủ, thấy bên trái đại điện vua Diêm vương, thờ tượng một tăng nhân, Diêm vương thường vào ra cung kính lễ bái. Thầy ấy thấy lạ hỏi, quỷ sứ trả lời: “tôn tượng đó chính là Vĩnh Minh Thọ thiền sư. Thiền sư khi tại thế tu hành tinh tiến, nay đã vãng sanh Tây phương cực lạc lên ngôi cửu phẩm, vua Diêm Vương đặc biệt tôn kính đức hoá của đại sư, nên đã tôn thờ hàng ngày lễ bái.” Cứu rồng: Tôn Chân Nhân khi chưa đắc đạo tiên, một lần đi ra ngoài gặp một bé trai bắt một con rắn, đùa nghịch chơi, rắn chảy máu rất nhiều sắp chết. Tôn Chân nhân thương cho con rắn không may bị nạn, nên đã mua rắn về, dùng thuốc chữa trị, rồi phóng sanh.
Hơn một tháng sau, Tôn Chân nhân khi đang tĩnh toạ, thấy một thiếu niên áo xanh đến mời. Chân nhân đi theo, đến một cung thuỷ tinh, thấy Long vương đầu đội mũ kháp, mình mặc áo đỏ ra nghinh tiếp, mời lên toà ngồi và nói: “con trai tôi hôm qua đi ra ngoài chơi, bị bọn trẻ làm bị thương, may có đạo nhân cứu, tôi cảm kích vô cùng.” Liền bảo bé trai áo xanh ra, lạy tạ ba lạy, đồng thời ân cần thiết tiệc khoản đãi, giữ lại ba ngày, khi về còn tặng rất nhiều báu vật để cảm ơn. Chân nhân kiên quyết không nhận, nói: “từ lâu nghe nói Long cung có rất nhiều phương thuốc bí truyền, xin hãy truyền cho tôi để tôi cứu đời, còn hơn kim ngọc.” Long vương vì cảm kích tình cứu con trai mình, nên đã tặng 36 phương thuốc ngọc cấp. Bảo người hầu mang đến tận nhà. Qua nhiều lần thử nghiệm đều có công hiệu, thế là viết vào trong Thiên Kim phương truyền thế, từ đó y thuật càng thêm tinh thông, cứu người không kể xiết. Sau chứng được tiên phẩm, sống đến 120 tuổi
Cứu đàn kiến, đoản mạng của Sa di được kéo dài. Thư sinh đổi sự hạ tiện gọi là thượng đệ. Mao Bảo phóng rùa mà được thoát nạn. Khổng Du lấy chức nhỏ mà được phong hầu.
Thuyết minh: Hai việc cứu kiến, 1. Đoản mạng được trường niên là: Lúc Phật còn tại thế, có một Tỳ khưu chứng quả, có lục thông, biết chú đệ tử Sa di thị giả của mình sau bảy ngày sẽ yểu mạng. Do đó cho chú về quê thăm nhà, và dặn dò rằng: “sau tám ngày hãy trở lại.” Mục đích là để chú mất tại nhà.
Chú Sa di ở nhà đến tám ngày, liền trở về lại với thầy. Thầy Tỳ khưu thấy lạ, liền nhập định coi ngọn nguồn. Thì ra trên đường về nhà, chú Sa di thấy đàn kiến bị nước cuốn trôi, hàng vạn chú kiến đang chới với trên mặt nước, chú lập tức cởi áo ném xuống cho kiến bò bám vào áo, chú kéo áo lên bờ. Nhờ công đức đó, chú không bị yểu mạng, ngược lại rất thọ sau này. Chú sống đến 80 tuổi, và chứng quả A la hán. 2. Đổi sự hạ tiện gọi là thượng đệ là: Hai anh em Tống Giao, Tống Kỳ thời nhà Tống cùng học ở trường Thái học. Một lần nọ, hai anh em gặp một cao tăng, biết đoán tướng mạo, biết trước việc cát hung hoạ phước. Cao tăng nói với hai anh em rằng: “Tống Kỳ khoa này sẽ trúng trạng nguyên, Tống Giao tuy đăng khoa Giáp, nhưng danh vị không cao.”
Sau sự việc đó, một lần nọ, Tống Giao vào rừng, gặp một hang kiến, đang bị nước ngập lụt, hàng triệu con kiến sắp bị nước cuốn. Tống Giao thương tình, bắt cầu cho kiến leo, cứu được vô số.
Khi đến khoa thi, hai anh em cùng ứng thí. Sau khi khảo thí, còn chưa công bố kết quả, lại gặp cao tăng ngày nọ. Vừa thấy Tống Giao, cao tăng kinh ngạc nói: “tiên sinh tướng mạo đã đổi, tất có âm đức lớn, hình như đã từng cứu hàng vạn sanh mạng.” Tống Giao trả lời: “bần nho nào có năng lực ấy?” Cao tăng nói: “không nhất thiết phải sanh mạng lớn, động vật nhỏ cũng là sanh mạng.” Tống Giao bèn kể lại sự thật đã cứu kiến. Cao tăng nói: “đúng rồi, em trai tiên sinh trúng trạng nguyên, nhưng công danh của tiên sinh không thấp hơn em trai.” Khi điểm danh trúng tuyển, Tống Kỳ quả nhiên được đứng nhất. Lúc bấy giờ thái hậu Chương Hiến cho rằng em trai không thể đứng trên anh nên đã đổi Tống Kỳ đứng thứ 10, cho Tống Giao đứng nhất. Lúc ấy hai người mới tin lời cao tăng quả nhiên ứng nghiệm. Hai việc thả rùa: 1. Lâm nguy thoát nạn là: Mao Bảo khi chưa thành danh, một lần nọ trên đường đi thấy một ông lão đánh cá bán một con rùa trắng lớn. Mao Bảo thương tình, mua về đem thả xuống sông.
Sau Mao Bảo làm đại tướng quân, trấn thủ Chu thành. Tướng địch Thạch Quý Long mang hàng vạn quân, vây Chu thành. Mao Bảo lãnh binh đối chiến đại bại, sáu ngàn sĩ tốt chạy tán loạn, những người nhảy xuống sông đều chết chìm. Chỉ có Mao Bảo mặc giáp, khi nhảy xuống sông, cảm giác như rơi trên tảng đá lớn, trong nước có một vật đưa Mao Bảo đi, nhờ đó được thoát chết. Đến khi đến bên bờ, nhìn kỹ, thì ra là con rùa trắng lớn trước đây được ông ta phóng sanh. Rùa trắng báo ơn, điều này chính là quả báo hiện tiền. 2. Lấy chức nhỏ mà được phong hầu là: Khổng Du người Sơn Âm, triều nhà Tấn, là một quan nhỏ. Một lần nọ, đi qua Dư Can Đình, thấy một con rùa bị nhốt, thương tình, Khổng Du mua về phóng sanh. Con rùa sau khi được thả, mấy lần ngoái đầu lại nhìn Khổng Du, biểu thị lòng biết ơn, sau đó mới bơi đi. Sau Khổng Du nhờ có công thảo phạt Hoa Dật, được phong làm hầu Dư Can Đình. Khi đúc ấn quan hầu tước, thì phần đầu của con rùa trên ấn ngoái đầu nhìn lại. Quan đúc ấn nấu lại, đúc lại từ đầu, nhưng đúc mấy lần, phần đầu con rùa trên ấn vẫn như cũ ngoái đầu nhìn lại. Quan đúc ấn thấy lạ quá, báo cho Khổng Du hay. Khổng Du chợt nhớ lại lúc thả con rùa, con rùa mấy lần ngoái đầu nhìn lại. Lúc đó ông mới hiểu, nay được phong hầu, là nhờ công đức thả rùa, liền giữ ấn hầu “ngoái đầu” sử dụng.
Khuất sư phóng sanh cá ở Thôn Nguyên mà được tăng 12 tuổi. Tuỳ Hầu cứu rắn ở rừng Tề mà được báo đáp ngàn vàng.
Thuyết minh: Phóng sanh cá là: Khuất sư là người Nguyên Thôn, một hôm thấy ngư ông tay xách một con cá chép hồng, con cá ngước nhìn Khuất Sư, giãy giụa như muốn cầu cứu. Khuất sư thương tình, liền mua phóng sanh.
Sau Khuất sư mộng thấy Long vương mời xuống Long cung, Long vương nói: “tiên sinh vốn thọ mạng đã hết, nhưng nhờ cứu con ta, tăng thọ được 12 tuổi.” Cứu rắn là: Hán Cơ Tánh chư hầu Tuỳ Hầu, một lần nọ đi xứ nước Tề, trên đường gặp một con rắn, đang quằn quại trong sa mạc nóng, đầu chảy máu. Tuỳ Hầu thương xót, vội hái thuốc chữa trị, sau đó đưa đến bờ nước để rắn khôi phục thể lực, rồi mới đi tiếp.
Sau Tuỳ Hầu từ nước Tề trở về, lúc đi ngang qua đường đó, thấy con rắn ấy miệng ngậm hạt châu, đợi để tặng Tuỳ Hầu, để báo ân cứu mạng. Tuỳ Hầu biết, nhưng không dám lấy.
Đêm hôm đó, Tuỳ Hầu mộng thấy chân giẫm con rắn, thất kinh tỉnh dậy nhìn, thì phát hiện trên đầu giường hai viên ngọc sáng loáng, đường kính một phân, trắng bạch, phát sáng trong đêm, chiếu sáng cả nhà, người đời gọi là ngọc Tuỳ Hầu.
Cứu ruồi thợ nấu rượu miễn tội oan, cứu ba ba cô đầu bếp hết bệnh.
Thuyết minh: Cứu ruồi là: Có một thợ rượu, mỗi khi thấy ruồi sa vào hũ rượu liền lập tức vớt ra, bỏ nơi khô ráo cho ruồi bay đi. Như vậy năm này qua tháng khác, ông đã cứu ruồi nhiều vô số.
Một lần nọ, thợ rượu bị bọn đạo tặc vu khống, không cách gì minh oan, tội danh sắp được thành lập, khi quan chủ thẩm quyết định đặt bút ký, thì vô số ruồi từ đâu bay đến đầy ngọn bút. Đuổi đi chúng lại bay đến, khiến ông không thể nào ký được. Thẩm phán quan hoài nghi trong đó chắc có oan tình, liền thẩm tra lại kỹ càng, mới biết là bị vu cáo.
Khi bọn đạo tặc bị bắt, thẩm vấn nghiêm khắc, chúng mới thừa nhận là đã vu khống, thế là oan tình được rõ, thợ rượu được thả. Những việc báo ân như ruồi, xưa nay ít nghe, Phật nói: “những loài bò bay cựa động, đều có linh tánh.” Nhân quả tương báo, cũng không có gì là lạ. Thả ba ba là: Hai vợ chồng Trình thị thường ngày thích ăn thịt ba ba. Một lần nọ tình cờ mua về một con ba ba lớn, dặn dò đầu bếp giết nấu, lúc đó hai vợ chồng có việc phải đi ra ngoài. Cô đầu bếp nghĩ: “Chính tay ta đã giết không biết bao nhiêu con ba ba rồi, hôm nay ta nhất định phải thả con ba ba lớn này, chấp nhận bị đánh chửi, không nỡ giết thêm nữa.” Thế là cô len lén mang ba ba thả trong hồ.
Đến bữa ăn, hai vợ chồng hỏi thịt ba ba đâu, cô đầu bếp trả lời: “vừa rồi con không chú ý, nó chạy mất rồi.” Bà vợ tức giận, đánh tới tấp vào cô đầu bếp, đánh mãi cho đến hả hê mới thôi. Tội cho cô đầu bếp, thương tích đầy mình, nhưng chịu đau không nói một lời.
Sau có một lần nọ, cô đầu bếp bị nhiễm ôn dịch, sốt cao, hơi thở thoi thóp, chủ nhà sợ cô ta chết trong nhà, mới mang cô ta bỏ trong một cái thất bên bờ hồ, để chết ở đó.
Tối hôm ấy, bỗng có một con vật bò từ dưới bờ hồ lên, mình đầy bùn, cọ sát vào thân cô đầu bếp, khiến cô cảm thấy rất mát mẻ, khoẻ khoắn, sốt cao nhân đó liền hạ, thế là hết bệnh.
Chủ nhân kỳ quái bệnh cô ta nặng thế, không thuốc men gì, sao chuyển nhanh thế? Cô đầu bếp liền kể lại hết sự tình. Chủ nhân không tin, tối đến, lén ra xem, quả nhiên con ba ba lớn được thả kia bò đến cứu cô đầu bếp. Cả nhà cảm thán, từ đó vĩnh viễn không ăn thịt ba ba nữa!
Đổi mạng chết ở lò mổ, Trương Đề Hình hồn siêu thiên giới; thả thuỷ tộc ở thuyền câu, Lý Cảnh Văn được giải đơn sa.
Thuyết minh: Đổi mạng ở lò mổ là: Trương Đề Hình, thường đến nhà đồ tể, thấy các con vật bị trói, bị giết, hoảng sợ đau đớn, kêu gào. Trương Đề Hình trong lòng không nỡ, không tiếc tiền tài, mua về hết, thả vào trong rừng. Hàng ngày chỉ cần có tiền, là ông đi đến chỗ giết mổ, nhiều ngày như thế, ông đã cứu không biết bao nhiêu con vật.
Sau Trương Đề Hình mạng chung, biết trước giờ chết, nói với mọi người rằng: “tôi một đời từ tâm cứu mạng chúng sanh, tích công luỹ đức sâu dày, nay người của cung trời đến đón, tôi sắp lên thiên giới đây.” Nói xong, không bệnh mà đi. Thả thuỷ tộc ở thuyền câu là: Lý Cảnh Văn từ tâm ái hộ động vật, mỗi khi quan sơn ngoạn thuỷ, thấy người đánh cá đánh bắt thuỷ tộc, là không tiếc tiền tài, mua hết, rồi lại thả xuống sông, cho chúng tự do bơi lội.
Cảnh Văn hàng ngày thích uống dưỡng sinh bổ phẩm, thường uống đơn sa được luyện bằng lửa, lâu ngày nhiệt khí lên cao, biến thành bệnh, trên lưng nổi nhiều mụn độc, mời danh y chữa trị, dùng đủ thứ thuốc, nhưng vẫn không công hiệu, bệnh tình mỗi ngày một nặng.
Một hôm nọ, trong khi hôn mê, giống như có một bầy cá dùng tân dịch xoa lên mụn độc của ông, khiến ông cảm thấy mát mẻ, sảng khoái vô cùng. Hôm sau, mụn độc dần dần tiêu mủ, bệnh nhờ đó được lành. Việc này giống với sự báo ân của con ba ba.
Tôn Lương Tự giải phóng cho chim, đến khi chết chim về chôn cất; huyện lệnh Phan cấm đánh bắt cá, khi vào kinh thuỷ tộc kêu gào.
Thuyết minh: giải phóng cho chim là: Tôn Lương Tự là một hương dân nhân từ, tuy gia cảnh nghèo, nhưng mỗi khi thấy con chim nào bị bắt, nhốt trong lồng, là tìm cách kiếm tiền mua phóng sanh. Mỗi khi mở cửa lồng, thấy chim sung sướng bay ra, được tự do, là lòng ông cảm thấy vô cùng sung sướng.
Sau Tôn Lương Tự mạng chung, tử thi được mang ra ngoài đồng, do nhà nghèo không có táng phí, nên thi thể không được chôn cất đàng hoàng. Bỗng nhiên có hàng vạn con chim bay tới, miệng ngậm đất, nhả lên thi thể Tôn Lương Tự. Chưa đến một ngày, đã thành ngôi mộ khá cao. Người trong thôn thấy vậy, đều cảm thán không thôi! Mọi người đều thấy rằng đây là nhờ lòng từ phóng sanh chim của Tôn Lương Tự, mà được chim báo đáp. Cấm đánh bắt cá là: Thời nhà Tống, Phan Hoa, huyện lệnh Chư Ký là một Phật giáo đồ kiền thành, tu tập Phổ Hiền sám pháp, có đức hiếu sinh, vạn vật hoà lạc. Ông nghiêm cấm dân địa phương, không được đánh bắt cá. Ai vi phạm, đều chịu hình phạt. Do đó trong thời gian nhiệm kỳ của huyện lệnh Phan, loài thuỷ tộc không một mối lo, tự do tung tăng trong nước.
Sau huyện lệnh Phan phụng chỉ, sắp vào làm quan trong triều, đêm mộng thấy hàng vạn loài cá khóc lóc, nói: “trưởng giả sắp rời nơi đây, chúng tôi không tránh khỏi bị đánh bắt.” Nói xong chúng lại khóc rống lên. Huyện lệnh Phan tỉnh dậy thâm cảm kỳ lạ, liền viết “Mộng Ngư Ký”, dặn dò huyện lệnh nhiệm kỳ tới, cũng nên bảo hộ thuỷ tộc.
Lúc huyện lệnh Phan sắp đi, trong các sông hồ, bỗng nhiên phát ra âm thanh rất là bi thương, giống như đã mất đi sự bảo hộ, thống thiết như mất cha mẹ vậy, người dân phụ cận tất cả đều nghe thấy, mọi người không ai là không kinh ngạc cảm thán!
Đại sư Tín bỏ vật hy sinh, trời mưa cam lộ; Lục tổ giữ lưới của thợ săn, đạo rãi khắp Thần Châu.
Thuyết minh: bỏ vật hy sinh là: Một lần nọ, trời hạn nặng, ngũ cốc bị thiêu rụi hết, người dân đối mặt với đói kém, lo sợ không yên, mọi người bàn nhau phải giết vật hy sinh để cúng cầu mưa.
Đại sư Tín thấy cách làm ngu si như vậy của mọi người, mới sanh thương cảm, nói với mọi người rằng: “sát hại chúng sanh, để cầu trời mưa, là hành vi ngu muội trái với lý trời, trời có đức hiếu sanh, mọi người làm như vậy, không những không cầu được mưa, mà ngược lại còn tạo tội, sẽ gặt tai ương. Nếu mọi người thả hết những vật hy sinh ấy đi, tôi sẽ đích thân cầu mưa cho.” Mọi người nghe theo, thấy có lý, nguyện làm theo lời đại sư, thả hết những con vật cúng.
Thế là đại sư liền bày hương án, tinh thành cầu đảo, trời lập tức mưa xuống, nhân dân vui mừng khôn xiết, nhân dân xa gần đều được cảm hoá. Giữ lưới là: Lục Tổ đã được tâm ấn của Hoàng ma. Sau khi nhận y bát, do có những người ác tâm đuổi theo, nên vẫn mặc đồ thế tục, ẩn cư sống với đám thợ săn. Do Lục Tổ không biết săn bắn, nên bọn thợ săn đã cho Lục Tổ trông coi lưới. Lục Tổ mỗi khi thấy không có ai, liền thả hết những con thú mắc lưới ra, cho chúng chạy hết. Như thế trải qua 16 năm, loài thú được cứu vô số.
Sau thời tiết nhân duyên thành thục, Lục Tổ liền đến đông nam huyện Khúc Giang tỉnh Quảng Đông, kiến lập đạo tràng Tào Khê, đại hưng Phật pháp, như đèn truyền chiếu, quảng độ quần sanh.Pháp mạch được chia làm năm phái, những người nhập thánh siêu phàm nhiều vô số.
Cứu Hoàng Tước được báo ân, thả cáo thoát nạn rơi giếng.
Thuyết minh: Hoàng Tước báo ân là: Dương bảo lúc lên 9 tuổi, một lần nọ đến phía bắc núi Hoa Âm, thấy một con Hoàng Tước bị con cú vọ đuổi bắt làm cho bị thương, rơi dưới gốc cây. Lại bị rất nhiều kiến cắn. Hoàng Tước đau đớn giãy giụa, Dương Bảo thương tình, phủi kiến mang về chữa trị, chăm sóc cẩn thận, khi vết thương lành, đủ lông cánh, rồi thả cho bay đi.
Đêm ấy Dương Bảo mộng thấy một bé trai áo vàng, lạy Dương Bảo ba lạy nói: “tôi là sứ giả Tây Vương mẫu, trên đường bay đến núi Bồng Lai, thì bị hại, nhờ ân đức chăm sóc cứu chữa, bây giờ tôi phải về biển nam rồi.” Nói xong, liền tặng Dương Bảo bốn viên bạch ngọc. Sứ giả nói tiếp: “Chúc con cháu cậu sau này thanh bạch, quan làm đến tam công, giống như viên ngọc này vậy.”
Sau con cháu Dương Bảo bốn đời Dương Chấn, Dương Bỉnh, Dương Tứ, Dương Bưu, quả nhiên đều làm quan đến tam công, thanh bạch liêm khiết, quý hiển không ai bằng. Thoát nạn rơi giếng là: Xưa có một thầy tu nọ, không chịu tu hành đàng hoàng, lại có tài đầu cơ. Nghe nói Hoàng Tinh thuốc bắc có thể trường sanh bất lão. Để thử nghiệm có đúng hay không, thầy mới mang Hoàng tinh để dưới một cái giếng khô, rồi dụ một người xuống giếng, lấy Ma Bàn tấn miệng giếng lại. Người bị hại trong lúc đang hoảng sợ, thì bỗng nhiên có một con cáo tiên, ghé miệng nói với người trong giếng rằng: “Xin ông đừng sợ, tôi sẽ bày ông cách thoát ra. Tôi là cáo tiên thông hiểu thiên đạo, đào hang sống trong ngôi mộ, nằm trong hang, mắt nhìn trong hang, lâu ngày, thì có thể bay ra được. Đó chính là lý ‘thần năng phi hình’ mà trong kinh đạo nói. Ông hãy chú tâm nhìn vào cái lỗ của Ma Bàn, lâu ngày thì bay ra được. Trước đây tôi bị thợ săn bắt, nhờ ông từ bi chuộc mạng tôi, do đó hôm nay đặc biệt đến để đền ơn, xin ông nghe theo.” Người bị hại liền theo cách của cáo tiên, qua hơn mười ngày, quả nhiên bay ra được khỏi miệng giếng, thoát nạn. Thầy tu vui mừng, cho rằng đó là công hiệu của Hoàng tinh.
Thế là từ biệt mọi người, mang Hoàng tinh xuống giếng, dặn dò mọi người đậy Ma bàn lên, không ngờ qua nửa tháng, mở miệng giếng ra, thầy đã chết dưới giếng tự lúc nào. Thật là đáng thương! Thì ra thầy ấy không biết người bị ông hại trước thoát khỏi miệng giếng là nhờ cáo tiên đến cứu báo ân cũ. Thương ôi!.
Cho đến tàn thân được mạng, bạch bích nghe kinh; chốn khó cầu sanh, hiện hoàng y mà báo mộng. Thuyết minh: Bạch bích nghe kinh là: Đại sư Liên Trì hành cước tá túc ở một ngôi chùa nọ, thấy mọi người bắt rất nhiều rết, dùng lạt tre buộc đầu buộc đuôi. Đại sư thương tình mua về phóng sanh, nhưng phần lớn đều chết nửa mình, chỉ còn một con còn sống, liền vội vàng bò đi.
Một đêm nọ, đại sư đang ngồi nói chuyện với một người bạn, thì trên tường bỗng nhiên xuất hiện một con rết. Đại sư lấy gậy gõ gõ đuổi đi, muốn đuổi nó đi, nhưng nó không đi. Đại sư nói: “chẳng nhẽ con rết mà ta phóng sanh chính là ngươi sao?” Ngươi vì muốn tạ ơn mà đến đây sao? Nếu đúng vậy, ta sẽ nói pháp cho ngươi, mong ngươi chú ý lắng nghe: “tất cả chúng sanh, đều do tâm tạo. Tâm địa hung dữ, thì làm lang sói; tâm địa ác độc, thì làm rắn rết. Ngươi nếu trừ bỏ tâm thâm độc, thì liền thoát được hình thể này.”
Nói xong bảo nó đi, không cần đuổi, nó từ từ leo qua cửa sổ. Người bạn ngồi cạnh, thấy vậy không ngớt tán thán! Hoàng y báo mộng là: Năm thứ 9 niên hiệu Vạn Lịch thời Minh Thần tông, hàng xóm họ Vu cư dân Hồ Dã huyện Hàng Châu gặp cướp. Họ Vu có người con gái đã đi lấy chồng, nghe tin, liền về nhà an ủi mẹ, nhân tiện mang biếu mẹ mười con lươn. Họ Thị mang bỏ lươn trong chum, nhưng quên khuấy mất.
Một đêm nọ, họ Vu nằm mộng thấy mười người mặc áo vàng đội mũ nhọn quỳ trước mặt bà khóc lóc xin cứu mạng. Tỉnh dậy trong lòng hoài nghi lẫn lộn, không tiêu trừ được, liền đi coi bói lành dữ thế nào. Thầy bói nói với bà: “trong nhà có sanh linh đang xin bà phóng sanh.” Họ Vu về nhà tìm khắp trong nhà, liền thấy trong chum có lươn, đếm đúng là mười con, kinh ngạc, nghĩ: “lươn vì cầu sống, lại có thể hiện làm người áo vàng báo mộng cho ta, đúng là lươn cũng có tánh linh.” Thế là lập tức mang hết ra sông phóng sanh.
Mọi cho đi đều có báo đáp, sự việc có chứng cứ hẳn hoi.
Thuyết minh: Phóng sanh, hoặc được tăng phước, hoặc được sống lâu, hoặc khỏi nạn, hoặc khỏi bệnh, hoặc sanh thiên, hoặc chứng quả, tuỳ cho vật gì được quả báo ấy, chứng cứ đành rành. Song làm lành được phước, người tu, đâu có mong quả báo? Không mong quả báo mà quả báo tự đến, đó là lý nhân quả, người phóng sanh nên biết.
Được ghi lại đầy trong các sách, rõ ràng trước mắt. Thuyết minh: Những điều ghi chép trên, xa thì là trong các sách, gần thì là ở trước mắt. Khảo nghiệm cổ kim, chắc chắn không dối.
Phổ nguyện thấy vật nơi đâu, đều phát từ tâm, bỏ tiền tài giả tạm, cứu vật phóng sanh, làm các phương tiện.
Thuyết minh: Dưới đây khuyên khắp mọi người, phát tâm từ bi, bỏ tài vật phương tiện cứu giúp. Tiền tài giả tạm, có nghĩa tiền tài là vật không bền chắc, có 5 đường để ra đi: 1. Nước trôi, 2. Lửa cháy, 3. Nhà nước tịch thu, 4. Trộm cướp, 5. Con cái phá tán. Tổn tài làm phước, gọi là lấy tiền tài giả tạm đổi lấy tiền tài bền chắc. Nếu người không có tiền tài, thì chỉ phát tâm từ bi, cũng được phước lớn. Hoặc khuyên người phóng sanh, hoặc thấy người khác phóng sanh lòng vui theo, tăng trưởng thiện tâm, cũng là phước lớn.
Hoặc phóng sanh nhiều, tích nhiều âm đức. Không thì chỉ giúp một con, cũng là làm việc thiện.
Thuyết minh: Người có tiền thì phóng sanh nhiều, tất nhiên là công đức lớn; người không tiền, thả một con vật, cũng là thiện sự. Chớ cho rằng việc thiện nhỏ là vô ích mà không làm. Người đời không rõ lý này, chọn loài vật nhỏ nhiều con, mới chịu mua thả. Trên đường gặp chúng sanh thân lớn, bỏ qua; đây là tham phước cho mình, chẳng phải thương cái khổ của chúng sanh. Phước ấy rất nhỏ, cẩn thận! cẩn thận!
Ngày qua tháng lại, phước thiện tăng nhiều.
Thuyết minh: Việc thiện không có lớn nhỏ, chỉ quý ở chỗ lâu bền; ngày qua tháng lại, phước đức tự nhiều.
Lòng từ đầy khắp nhân gian, tiếng thơm thông thiên địa phủ.
Thuyết minh: Lòng từ tích chứa lâu, khắp đầy cả cõi người, lòng người đã tin, lòng trời ắt nhớ. Có người cho rằng trời cao vòi vọi, làm sao thông nhau? Đâu biết vào ngày lục trai, Thiên vương tuần du thiên hạ, ai làm ác ai làm thiện đều ghi vào sổ sách. Lại người hành thập thiên thì trời thắng, người tạo thập ác thì Tu la thắng, nên Thiên đế lúc nào cũng muốn người làm thiện. Một người làm thiện, Thần vương lên trời báo cáo, kinh nói rõ ràng, không phải tự nói.
Lòng đầy từ bi, nhiều hạnh phúc ở đời này, còn bồi thiện căn, hạnh phúc cho đời khác.
Thuyết minh: Phóng sanh mà không giết, không gây oán cừu với chúng sanh. Chẳng phải chỉ an lạc đời nay, do thiện căn này, đời đời tương lai, trường thọ hạnh phúc lâu dài, cho đến thành Phật, vạn vật hữu tình đều hướng tâm về, hạnh phúc có dư.
Nếu niệm thêm danh hiệu Phật, tụng kinh sám.
Thuyết minh: Phóng sanh, tuy là việc thiện, nhưng chỉ cứu được sắc thân, chưa cho huệ mạng. Phải nên niệm thêm vạn đức hồng danh A di đà Phật, tụng các kinh điển đại thừa. Tuy nhiên, mua là phải thả liền, tụng kinh không tiện, chỉ niệm Phật cũng được. Còn nếu mua để cách đêm, hoặc sáng mua tối thả, đợi tụng kinh xong, thì thời gian quá lâu, sẽ bị chết nhiều. Phóng sanh như vậy, không ích chi.
Vì chúng hồi hướng Tây phương, khiến chúng vĩnh lìa ác đạo.
Thuyết minh: Công đức niệm Phật, nguyện những chúng sanh này sau khi mạng chung, được sanh về thế giới Cực Lạc, sanh trong hoa Sen, vào ngôi bất thoái, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, dứt khổ luân hồi.
Thì tâm càng lớn, trồng đức càng sâu.
Thuyết minh: Thấy khổ phóng sanh, là tâm thiện, nay gọi đại Bồ đề tâm, nên nói “càng lớn”. Phóng sanh được phước, trồng đức thế gian, nay gọi đức xuất thế, nên nói “càng sâu”.
Đạo nghiệp nhờ đó nhanh thành, đài sen thượng sanh cửu phẩm!
Thuyết minh: Tâm lớn đức sâu, việc ấy sao biết? Bởi lợi tha là hạnh của Bồ tát, dùng hạnh môn này trợ tu đạo nghiệp, thí như thuyền gặp gió, chắc sẽ nhanh đến bờ kia. Ba phước của tịnh nghiệp, từ tâm bất sát đứng đầu. Nay đã không giết, lại thêm phóng sanh; đã phóng sanh, lại niệm Phật khiến sinh Tịnh độ, làm được như thế, khi thân hoại mạng chung, chắc chắn lên ngôi cửu phẩm không nghi. Khuyên khắp mọi người, đừng vì cho rằng mình đức bạc mà không tin lời ấy.
Chú nguyện phóng sanh
Phóng sanh xong, đối trước Phật tiền, chí tâm lễ bái, bạch rằng: “Đệ tử tên… nhất tâm quy mạng Tây Phương Cực Lạc A di đà Phật. Con theo lời Phật dạy, nay phóng sanh, được bao nhiêu phước, với công đức này, mong cho con tội chướng tiêu trừ, oan khiên dứt sạch; thiện căn ngày một tăng trưởng, thân hoại mạng chung, thân tâm an ổn, chánh niệm rõ ràng, được Phật tiếp dẫn, sanh về nước an lạc, hoá sanh hoa sen, trong ao thất bảo. hoa nở thấy Phật, được pháp vô sanh, đầy đủ Phật huệ; nhờ đại thần lực, tất cả những sanh mạng mà con phóng sanh, cho đến tất cả hữu tình khắp mười phương, đều được giải thoát, thành vô thượng đạo. Mong Phật từ bi, ai lân nhiếp thọ”. Phát nguyện xong, niệm Phật bao nhiêu biến tùy ý.
Nghi thức phóng sanh
Thuyết minh: Căn cứ cựu văn của pháp sư Lễ, có chút thêm bớt, để cho đơn giản dễ hành, sau thêm cầu nguyện vãng sanh, lại thêm phẩm Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm kết thúc. Ý muốn trước vãng sanh thế giới Cực Lạc của Phật A di đà sau nhập Tỳ Lô Giá Na Hoa Tạng Huyền Môn. Lại ngày hè, phóng sanh lần đầu, chiếu theo nghi thức này niệm tụng, rồi liền thả; sau mang tới nữa, phóng tiếp, không niệm tụng nữa. Chỉ niệm “chú Đại Bi” một biến, “chú Vãng Sanh” ba biến, niệm Phật A diđà rồi phóng. Không cần phải như thả lần đầu, sợ kéo dài, tổn hoại sanh mạng. Sau nếu mang tới nữa, cũng lại như thế.
Nơi chỗ phóng sanh, thiết trí hương án, dương chi tịnh thuỷ. Đại chúng lấy mắt từ nhìn chúng sanh, thương chúng trầm luân khổ ải. Lại nghĩ đến Tam bảo có đại oai lực, có thể cứu giúp chúng. Quán như thế rồi, tay cầm chén nước, niệm thầm rằng: Nhất tâm phụng thỉnh thập phương từ phụ quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát, giáng lâm đạo tràng, gia trì nước này, đủ đại công huân, rưới lên chúng sanh, khiến chúng thân tâm thanh tịnh, có khả năng nghe diệu pháp. Xong tụng “chú Đại Bi” một biến, rảy ba lần, sau đó bạch rằng: (ngưỡng bạch)
“Thập phương Tam bảo, bổn sư Thích ca, từ phụ Di đà, Bảo Thắng Như Lai, Bồ tát Quán Âm, trưởng giả Lưu Thuỷ, đại sư Vĩnh Minh các đại sĩ… duy nguyện từ bi, chứng minh hộ niệm”.
Nay có các chúng sanh cầm thú trên không dưới nước, bị người ta đánh bắt, sắp vào chỗ chết, (chúng con Tỳ kheo…, cư sĩ…) thế là tu Bồ tát hạnh, phát tâm từ bi, tạo nhân trường thọ, hành nghiệp phóng sanh, mua các thân mạng ấy, thả để chúng tự do. Nhưng thuận theo kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, thì trao Tam Quy, niệm mười danh hiệu, lại nói cho chúng nghe 12 nhân duyên.
Oai đức Tam bảo âm thầm gia hộ, ai lân nhiếp thọ, bạch rằng:
Súc sanh quy y Phật, súc sanh quy y Pháp, súc sanh quy y Tăng; súc sanh quy y Phật lưỡng túc tôn, súc sanh quy y Pháp ly dục tôn, súc sanh quy y Tăng chúng trung tôn; súc sanh quy y Phật cánh, súc sanh quy y Pháp cánh, súc sanh quy y Tăng cánh. (đọc ba lần)
Này các Phật tử, quý vị đã quy y Tam bảo xong, nay ta vì quý vị xưng dương.
Bảo Thắng Như Lai thập hiệu công đức, khiến các ngươi được nghe, được sanh thiên như vô lượng cá kia không khác.
Nam Mô Bảo Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Tượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn (ba lần).
Này các Phật tử, nay ta lại nói 12 nhân duyên, tướng hoàn diệt của nhân duyên cho quý vị, khiến quý vị biết pháp sanh diệt, ngộ bất sanh diệt, cùng với chư Phật, chứng đại Niết bàn. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên súc, súc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Đó là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt.
Này các Phật tử, ta đã theo kinh đại thừa trao tam quy, thập hiệu, 12 nhân duyên cho quý vị rồi, nay sẽ vì quý vị đối trước Tam bảo, phát lộ sám hối, mong cho tội lỗi của quý vị, sớm được tiêu trừ, sanh vào chỗ lành, gần gũi Phật pháp. Quý vị phải chí tâm, sám hối theo tôi:
“Xưa con đã tạo bao ác nghiệp, đều do vô thỉ tham sân si, từ thân miệng ý phát sanh ra, tất cả con nay đều sám hối”.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát (ba lần)
Mong cho sau khi được thả, vĩnh viễn không gặp ác ma, không bị đánh bắt ăn nuốt, thong dong tự tại, sống hết tuổi trời; sau khi mạng chung, nương Tam bảo lực, sức từ bi bổn nguyện của Bảo Thắng Như Lai, sanh ra nơi cõi trời, cõi người, trì giới tu hành, không còn tạo ác, tín tâm niệm Phật, tuỳ nguyện vãng sanh. Lại mong cho chúng con… từ nay về sau, Bồ đề hạnh nguyện, niệm niệm tăng trưởng, cứu khổ chúng sanh, giống như ý mình; nhờ nhân duyên đó, được sanh An dưỡng, thấy Phật Di đà, và các thánh chúng, chứng vô sanh nhẫn, phân thân khắp cõi, quảng độ chúng sanh, đều thành chánh giác. Hiện tiền đại chúng, đồng thanh tụng niệm thần chú vãng sanh Tịnh độ, chương Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm.
Phẩm Thập Hồi Hướng, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, tuỳ thuận kiên cố nhất thiết thiện căn hồi hướng. Phật tử, Bồ tát ma ha tát làm đại quốc vương, tự tại đối với pháp, ra chỉ thị, cấm nghiệp sát. Cấm hẳn sát sanh toàn cõi Diêm phùđề. Ban sự vô uý đến tất cả các loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, rộng tu tất cả Bồtát hạnh, thương yêu tất cả loài vật, làm cho chúng sanh an ổn, nơi chỗ các Phật, thường tự an trụ ba loại tịnh giới, cũng làm cho chúng sanh an trụ như thế, Bồ tát Ma ha tát. Làm cho chúng sanh trụ trong ngũ giới, vĩnh viễn đoạn trừ nghiệp sát, dùng thiện căn này, hồi hướng như thế. Đó là nguyện tất cả chúng sanh phát Bồ đề tâm, đầy đủ trí tuệ, vĩnh viễn giữ được thân mạng, không có ngày mất; nguyện tất cả chúng sanh sống vô lượng kiếp, cúng dường tất cả Phật, cung kính siêng năng tu hành, tăng thêm thọ mạng; nguyện tất cả chúng sanh đầy đủ pháp hành lìa già bệnh chết, tất cả tai hoạ không hại được thân thọ; nguyện tất cả chúng sanh được thân không bệnh khổ, thọ mạng tự tại, sống bao lâu cũng được; nguyện tất cả chúng sanh thọ mạng vô lượng, tận cùng đời vị lai, giáo hoá điều phục tất cả chúng sanh; nguyện tất cả chúng sanh thiện căn đầy đủ, thành tựu đại nguyện; nguyện tất cả chúng sanh đều gặp chư Phật, cúng dường thừa sự, sống vô lượng tuổi, tu tập thiện căn; nguyện tất cả chúng sanh ở nơi chỗ Phật, khéo tu tập, được thánh pháp hỷ, sống vô lượng tuổi; nguyện tất cả chúng sanh không bị già bệnh chết, dũng mãnh tinh tấn vào trí tuệ Phật. Đó là Tam Tụ Tịnh giới của Bồ tát Ma ha tát, vĩnh viễn đoạn trừ sát nghiệp, thiện căn hồi hướng, vì làm cho chúng sanh được thập lực viên mãn trí của Phật.
Kế đến tụng chú vãng sanh ba lần, tụng xong bạch rằng:
Công đức phóng sanh trên đây, báo khắp bốn ân, ba cõi được nhờ, pháp giới chúng sanh, đồng viên chủng trí. Thập phương tam thế tất cả Phật, tất cả Bồ tát Ma ha tát, ma ha bát nhã ba la mật.
Kệ “Giới Tửu Nhục Từ Huệ Pháp Môn” của từ Vân sám chủ Tuân Thức đời nhà Tống
Bài kệ này trích từ các kinh đại tiểu thừa “Kinh Lăng Già”, “kinh Ương Quật”, “Kinh Niết bàn”, “Kinh Tát Giá Ni Càn”, “Kinh A Hàm”, “Kinh Chánh Pháp Niệm”, do khi đọc tụng, chép ra thành 100 bài kệ, đặt tên “Giới Tửu Nhục Từ Huệ Pháp Môn”. Mong muốn hàng tín sĩ, do dự đọc kỹ, thâm tư hiện nghiệp, sợ hãi quả báo tương lai, hòn sắt nóng nước đồng sôi, đâu dễ nhẫn chịu.
Nam mô Phật Pháp Tăng, biển đại từ Tam bảo; nay con theo lời dạy, khuyên khắp các chúng sanh; chớ giết chớ ăn thịt, cùng chứa hạnh nhân từ; không bệnh mạng sống lâu, vị lai thành Phật đạo. Chư Phật đại Bồ tát, thường vì cứu chúng sanh; bỏ đầu mắt tuỷ não, trải trăm ngàn vạn kiếp. Cắt thịt cho chim ưng, cứu kiến bỏ mạng rồng; Lưu Thuỷ cứu cá cạn, Tát đoả thân hiến cọp; trải nhiều kiếp hành từ, sức từ thiện thành tựu. Phật không tất cả tâm, duy chỉ một tâm từ; nếu có ai hành từ, không giết không ăn thịt; nguyện cho sức oai thần, đời đời thường gia hộ.
Sát sanh mà Phật nói, chính là giết cha mẹ, cũng là giết vợ con, anh em cùng thân quyến. Hết thảy nam cùng nữ, đều từng là cha mẹ; đời đời khi sanh ra, đều từ tinh huyết ấy; nhận một thân súc sanh, mỗi mỗi thân một loài, đời đời không tính kể; luân hồi trong sáu đường, qua lại làm quyến thuộc; nên ăn thịt chúng sanh, gọi ăn thịt cha mẹ.
Lại quán tất cả thân, đều là bản thể ta; thịt ta và thịt người, thật chỉ là một thịt; Như ở trước sau nhà, cũng gọi nhà của ta; nên biết ăn thịt người, chính là ăn thịt mình; Phật quán Như Lai tạng, cõi Phật cõi chúng sanh, một cõi không hai cõi, tất cả thịt chỉ một; người diễn đóng nhiều vai, thật chỉ là một người.
Nếu muốn giết chúng sanh, nên khởi tâm của Phật; thợ săn cùng đồ tể, người đánh bắt cá chim; chúng sanh thấy từ xa, đều sanh lòng sợ hãi; có nghĩa kẻ ác này, tham lợi và vị thịt, tay cầm tên đao bén, nghĩ muốn giết thân ta, chim bay và thú chạy, sợ hãi mà tránh xa.
Thường cùng các chúng sanh, khởi ý đại oán đối, tất cả đều tiếc mạng, người súc sanh không khác. Nếu muốn ăn chúng sanh, trước thử cắt thịt mình, chết là cái khổ lớn, ai mà không sợ nó. Chỉ cần tự quán thân, vì sao ăn thịt chúng, vì lợi giết chúng sanh, vì tiền giăng lưới bẫy, cả hai đều nghiệp sát, chết đoạ ngục Kêu La.
Bạn biết người sát sanh, chết rơi vào địa ngục, thành sắt cao tám vạn, bốn ngàn du thiện na, dài rộng cũng như thế. Trong thành đầy lửa dữ, nội ngoại đều đỏ rực; chó dữ canh bốn cửa, ngục tốt tiếng như sấm; hai mắt như ánh đèn, rượt đuổi người có tội. Vào trong mà chịu khổ, lực sĩ cầm giáo sắt, cán giáo dài một trượng, lưỡi giáo rộng tám tấc; đâm vào bụng tội nhân, xuyên thấu ra đằng sau; đau đớn khó kham nhẫn, trong trăm ngàn vạn kiếp, chịu thống khổ lớn này.
Bạn biết người ăn thịt, chết đoạ ngục A tỳ, nhà sắt cũng cao rộng, tám vạn du thiện na. Bốn cửa lửa cháy rực, nam bắc đều thông nhau; tường sắt cùng lưới sắt, gông cùm đều bằng sắt, mỗi mỗi bị lửa thiêu, tất cả đều đỏ rực; ăn thịt chịu khổ này, trải trăm ngàn vạn kiếp.
Bạn biết người nấu thịt, chết đoạ ngục nước sôi, sâu rộng cả một vạn, hai ngàn du thiện na. Ngày đêm lửa dữ đốt, sùng sục nước trào ra; ở trong đó chịu khổ, một vạn hai ngàn năm.
Bạn biết người nướng thịt, đọa ngục giường sắt nóng, ngục ấy dài và rộng, tám ngàn du thiện na. Dưới giường châm lửa đốt, tội nhân nằm ở trên, thân thể cháy đen thui, mười hai ngàn năm thế.
Bạn biết người cắt thịt, chết đoạ ngục chém chặt; năm trăm đại lực sĩ, dùng dao chém tội nhân; băm vằm nhuyễn như bụi, nghiệp phong thổi lại sống; như vậy chết lại sống, trải vạn hai ngàn năm.
Bạn biết nuôi heo gà, gà vì tham thịt béo; mỗi ngày một con gà, ăn năm trăm trùng sống; chủ nhân chịu nửa tội, chết đoạ ngục như gà; ngục ấy đầy phân nóng, tám vạn du thiện na; người gà đều vào trong, tròn năm trăm vạn năm.
Bạn biết người săn bắt, giăng bẫy và thả lưới; chết đoạ ngục trục sắt, khắp trục cắm vạn đinh; bắt lên lăn một vòng, khắp thân đầy đinh sắt; đau khổ thật khó nhẫn, trải trăm ngàn vạn kiếp.
Kẻ sát sanh ăn thịt, từ trong địa ngục ra, thọ làm thân quỷ đói; sư tử báo hổ lang, mèo chồn kim xí điểu, chỉ ăn máu thịt tươi; lửa đói thường thiêu tâm, thường luôn nghĩ đến thịt; do đó huân tập ác, hạt giống từ mất biệt. Nếu được sanh làm người, tàn tật mạng ngắn ngủi; ngu si báng nhân quả, chết lại vào địa ngục. Khi Phật nói lời này, vô lượng các quỷ đói, gào than thề dứt thịt, và hộ người dứt thịt. Nay bạn nghe kinh này, sao không chịu đổi thay, vô ích sanh làm người, không bằng hàng quỷ đói. Chớ có đốt núi rừng, chớ có phá bờ đê, chớ chặt cây có ổ (chim), chớ đốt củi có trùng; nếu thấy vật bị giết, phương tiện thường cứu hộ.
Nam mô Thập Phương Phật, đại trí đức Thế tôn; con muốn khuyên chúng sanh, bỏ rượu cầu minh tuệ. Như lời Phật đã nói, uống rượu nhiều lỗi lầm, tám vạn môn trần lao, với ba mươi sáu lỗi, đều do rượu làm gốc, các ngươi nên quán kỹ, say rượu tâm tán loạn, sáu thức thảy hôn mê; vua tôi trái lễ tiết, cha con bỏ tôn ti, mẹ con gái bất hoà, phẩm hạnh không được giữ. Như ở nước Xá vệ, có Ương quật ma la, uống rượu dâm với mẹ, rồi nhân đó giết cha, rồi mẹ đi ngoại tình, lại mang gươm giết mẹ. Lại như Sa già đà, La hán có thần thông, hôm đến nước Chi đề, vào thôn tên Bạt đà; ở đó có rồng độc, tên Am bà la đề, rồng ấy rất ác độc, thường xâm hại thôn dân; La hán dùng thần thông, hàng phục rồng độc rồi, thôn dân muốn báo ân, bày dọn nhiều cháo sữa; có một người con gái, yêu say mê La hán, mới dùng rượu như nước, dâng lên cho La hán; La hán tưởng là nước, uống vào rượu tác dụng, mê loạn chùa quay cuồng, y bát đều vứt bỏ; lúc tỉnh dùng thần lực, hàng phục được rồng dữ; say rồi như người chết, không hàng được cóc ếch; Thế tôn bảo la hán, cùng các Tỳ kheo tăng, đến chỗ La hán kia, nhân đây chế cấm rượu, kinh Chánh Pháp Niệm nói.
Diêm La quở tội nhân, sắp xua vào địa ngục, trước nói kệ như thế, rượu làm loạn lòng người, khiến người như chó dê, không biết làm không làm, như vậy nên bỏ rượu, vì với người say rượu, như người chết không khác. Nếu muốn thường bất tử, người ta nên bỏ rượu, rượu là nơi tội lỗi, thường luôn không ích lợi. Nguyên nhân của ác đạo, nguyên nhân của tối tăm, uống rượu đến địa ngục, cũng đi đến quỷ đói, là đường đến súc sanh, nguyên nhân bởi tại rượu. Rượu là độc trong độc, địa ngục trong địa ngục, là đại bệnh trong bệnh, chính là điều Phật nói.
Ai đã uống rượu rồi, không duyên cớ mà cười, không duyên cớ mà giận, không duyên cớ làm ác. Không tin Phật ra đời, chuyện hoại thế xuất thế, thiêu giải thoát như lửa.
Gọi là pháp rượu này, nếu mà ai bỏ được, đúng như pháp giữ giới, người ấy đến Niết bàn, không còn chỗ sanh tử. Chớ uống rượu vô minh, là nhân của các khổ, Thanh văn trụ minh thoát, vậy say thuộc về người.
Nếu khi mắc bệnh khổ, nên quán gốc của bệnh; từ si mà sanh ái, tập nghiệp chiêu quả bệnh; Kỳ bà thầy thuốc giỏi, còn không thể chữa trị, huống hồ rượu thuốc này, có khả năng trừ bệnh?
Rượu là gốc phóng dật, không uống đóng ác đạo; thà bỏ thân trăm ngàn, không huỷ phạm giới rượu; thà để thân khô gầy, trọn không uống rượu này. Cho dù huỷ phạm giới, thọ mạng cả trăm năm, không bằng sống một ngày, mà giữ được cấm giới. Chắc chắn chữa lành bệnh, mà ta còn không uống, huống hồ chưa biết chắc, có lành bệnh hay không. Tâm quyết định như thế, liền sanh đại hoan hỷ, lập tức được kiến đế, bệnh tật liền tiêu trừ.
Bạn biết người nấu rượu, chết đoạ ngục phẩn hèm, cũng đoạ ngục nước sôi, một vạn tám ngàn năm.
Bạn biết người bán rượu, chết đoạ ngục hồ rượu, rượu như nước đồng sôi, rơi vào trong chịu khổ.
Bạn biết người uống rượu, chết đoạ ngục Quán Khẩu, tay tự đổ đồng sôi, vào trong miệng chịu khổ.
Bạn biết người mang rượu, ép người trì giới uống, chết đoạ ngục hồ băng, tám vạn năm chịu khổ; da thịt đều rách nát, ngày đêm trăm tử sanh; sau đó năm trăm đời, sanh ra không có tay.
Bạn biết hoặc dùng lực, hoặc vì đùa vui chơi, mang rượu cho tăng ni, cưỡng ép người ta uống, chết đoạ ngục cưa chân. Trong sáu trăm vạn năm, năm trăm đại lực sĩ, luôn cắt chân người ấy. Cho đến đưa bình rượu, năm trăm đời không tay, thường mang thân dòi bọ, ruồi nhặng và muỗi mòng, loài côn trùng nhỏ nhít, mỗi mỗi năm trăm đời.
Bạn biết Cát đà bà, mua rượu đổ xuống giếng, Lahán uống nước giếng, tám vạn thánh đều say. Do đó hại thánh nhân, chết đoạ ngục cưa xẻ, liền trong tám vạn kiếp, thường bị khổ cưa xẻ. Sau được sanh làm người, lùn xấu như dị nhân, tai mũi đều bít lỗ, môi sứt răng hô hở, tay chân đều thiếu ngón.
huống hồ tâm phá giới, mang rượu ép người uống. Thường thấy kẻ ngu si, ép người khác uống rượu; tự mình không trong sạch, đã không tâm hổ thẹn, lại mang thứ bất tịnh, ép người khác phá giới. Chẳng thà đoạn thân mạng, không phá thiện tâm người; bỏ mạng một đời này, chưa hẳn vào ba cõi; phá giới dứt trời người, và mất pháp giải thoát.
Bạn biết dứt rượu thịt, được phước đức không cùng; ví người mang thất bảo, quốc thành cùng vợ con, đem bố thí hết thảy, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt; cho đến cả đại thiên, thất bảo mang bố thí, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt. Giả sử vì cầu phước, dùng trăm ngàn lượng vàng, mang ra bố thí khắp, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt. Giả sử có Phật tử, tạo phan hoa bảo cái, đầy khắp cả đại thiên, mang dùng cúng dường Phật, không bằng một phần ngàn, của người dứt rượu thịt.
Phạm rượu mắc tội nặng, giữ rượu phước cũng sâu; thiện ác hai cái đối, khổ lạc cũng theo chiều; hãy nhanh sớm quay lại, hối cải thiện tâm sanh; chớ đợi vô thường đến, như bình đầy tự chìm; khuyên ai nên cố gắng, cùng sánh bước tiến lên.
Kệ này đều trích từ các kinh, khi đọc nên bảo hộ; nếu khinh mạn, tức là khinh mạn các kinh đại thừa, mắc tội không nhỏ.