Khi đang bệnh, cha tôi gửi cho tôi một tấm thiệp. Trên thiệp chỉ viết mấy câu. Đó là lời dạy bảo vô cùng quan trọng đối với tôi, đồng thời khiến tôi nhớ ơn sâu sắc. Ông hỏi tôi: “Sâu róm biến thành bươm bướm?”Ai giúp nó trang điểm?
Ai dạy nó bay lượn?
Vì sao từ một con sâu xấu xí, bò chậm chạp lại biến thành một con bướm vừa đẹp vừa biết bay?
Con sân róm đã có thể biến thành con bươm bướm, thì thứ kém cỏi cũng có thể biến thành hoa sen quý, phàm phu cũng có thể biến thành Phật!
Lần nọ, có người gửi cho tôi một chậu thạch liên thuộc loại màu lục đậm, lá rộng. Một hôm tôi phát hiện trong cây có một con sâu, cắn hết mấy ngọn lá. Một đóa hoa thạch liên trở nên khiếm khuyết. Tuy có mất mấy ngọn lá nhưng vài ngày sau tại mỗi chỗ lá bị mất lại mọc ra một đóa thạch liên nho nhỏ mà lại hoàn chỉnh, biến thành hoa trong hoa, so với hoa vốn có lại càng xảo diệu, càng đẹp đẽ càng dễ thương hơn! Tôi trông thấy thế thì rất cảm động, cảm động đến nỗi ôm lấy cây thạch liên mà cảm tạ sự thuyết pháp của nó, vì nó đã dạy cho tôi một sự việc rất quan trọng, đó chính là bỏ đi một ngọn lá thì có thể lớn thành một đóa, chỗ bị hư hại có thể biến thành một đóa sen đẹp đẽ hơn, hoàn chỉnh hơn.
Cuộc sống của chúng ta cũng đâu khác gì, quá trình tu hành của chúng ta cũng như thế. “Tu hành” chính là tu sửa hành vi, đem sự sai lầm khiếm khuyết mà tu chỉnh đổi mới, biến thành một đóa “sen quý” hoàn chỉnh. Ta bỗng nhiên hiểu được, bài kệ đầu của chú Lăng Nghiêm vẫn được niệm hằng ngày trong khóa buổi sáng. “ Trong ánh sáng sen quý ngàn lá mọc ra Có hóa thân Phật ngồi trong hoa quý”...
Có thể sen quý ngàn lá của đức Phật là do tu như thế! “mất đi một lá, mọc ra một đóa”, cứ mất đi một lá thì mọc ra một lá mới; bỏ đi lá nhỏ, có thể mọc ra đóa lớn, cứ như thế mà liên tục “sửa đổi lỗi lầm, sinh ra trí tuệ”, thành tựu được sen quý ngàn lá sáng ngời. Như Lai ngồi trong hoa quý ấy. Cũng là bùn dơ mà dùng được thì nở ra hoa sen, không dùng được thì bị ô nhiễm. Cũng là lỗi lầm, có khiếm khuyết mà sẵn lòng tu sửa thì thành ra sen quý ngàn lá; không chịu sẵn lòng tu sửa thì thành thạch liên khô héo.
Trong đời chúng ta thường có nhiều khiếm khuyết gây đau khổ. Có người bị trắc trở hôn nhân, có người mất người thân, có người gặp thiên tai, bệnh tật, xe đụng, có người gặp điều oán ghét, khổ đau không nói được, có người thất bại sự nghiệp, cảnh ngộ éo le...đủ mọi thứ không như ý, đều cũng như thạch liên bị hư hại, mất lá. Tuy nhiên, chỉ cần chúng ta theo tinh thần thạch liên, mỗi khiếm khuyết đều có thể sửa đổi để trở thành hoa sen quý đẹp đẽ, trang nghiêm hơn.
Dưới đây là những ví dụ cụ thể...
XUI LỚN BIẾN THÀNH PHƯỚC LỚN. CÂU CHUYỆN CỦA MỘT BÀ CỤ
Xã hội ngày nay, sự đổ vỡ của hôn nhân rất phổ biến, rất nhiều người vì chồng hay vợ mình thương yêu người khác, thậm chí lìa bỏ gia đình nên cảm thấy rất thống khổ, lòng không chịu nổi.
Tôi có quen một vị Lão Bồ Tát, mọi người đều rất tôn kính bà, gọi bà là lão nương (bà cụ). Bà là người duy nhất mà tôi từng thấy, bị đổ vỡ về hôn nhân: chồng phản bội, đi lấy người khác mà bà vẫn không có lời oán trách. Sự độ lượng và lòng từ bi của bà, rốt cuộc đã cảm hóa chồng, khiến chồng bà phải sám hối. Còn bà thì vẫn một mực hàng ngày thanh tịnh, vui vẻ niệm Phật. Tôi vẫn thường kể chuyện bà cụ này cho các bà vợ rất oán hận vì bị chồng phản bội, để mong mọi người học tập theo bà cụ mà lòng mở rộng hơn, mắt nhìn xa hơn, để thấy rõ ý nghĩa thực sự của đời người, khiến cuộc sống mình an vui, tự tại.
Bà cụ là người rất hiếu thuận. Từ lúc mới hai tuổi, bà đã biết lấy dép cho cha thay. Vài năm sau khi bà kết hôn, chồng bà lại yêu một người khác, và thường cùng người này đi chơi các nơi, thậm chí không về nhà. Bà cụ không hề vì việc này mà gây gổ với chồng. Bà không hề oán than mà vẫn cố gắng chịu đựng. Bà rất có trí tuệ, biết rằng gây gổ cũng chẳng có ích gì. Vì có trí tuệ mà bà có thể buông bỏ âu sầu và được tự tại. Bà rất bình tĩnh, an phận, giữ mình, làm các việc cần làm, chăm sóc con cái, trồng trọt, thậm chí còn tiết kiệm tiền bạc để duy trì cuộc sống. Chồng bà cùng người bạn gái mới kia(dưới đây gọi là vợ bé), lại sinh ra một đứa con trai. Chẵng những thế, ông lại còn mang đứa bé về nhà, rồi cùng người vợ bé lại đi rong chơi! Phần lớn người ta gặp phải chuyện này đều rất nóng giận không cách nào chịu đựng được. Nhưng bà cụ thấy đứa bé không người chăm sóc thì thương hại. Bà rất từ bi, cho nó uống sữa, cõng nó ra vào mà làm việc, thậm chí khi đi trồng trọt bà cũng dẫn nó theo, khi không cõng được thì bà lấy dù che cho nó, để nó tại nơi dễ săn sóc. Người trong làng thấy hành vi của bà thì chê cười mà bảo “bà là người ngu xuẩn nhất trên thế giới”, cứ hết lòng săn sóc đứa con của kẻ thù! Nhưng bà cụ thì không hề nghĩ như thế. Tâm bà rất thanh tịnh từ bi. Bà chỉ biết rằng, đứa bé mà không người săn sóc thì không được, nên chính bà phát tâm săn sóc nó, không kể nó là con của ai. Bà cụ không phải là ngu xuẩn, mà là đại trí đại bi.
Đứa bé ấy khôn lớn thành người, nhận bà cụ chính là mẹ đẻ của nó. Thậm chí nó không dám tin rằng, bà vợ nhỏ kia là mẹ đẻ của nó. Về sau, chồng bà cụ đem người vợ bé về nhà ở, bà cụ cũng một mực đối xử tốt với họ, thậm chí còn giúp bà vợ bé đủ mọi bề, trước sau chẳng có một lời buồn trách hoặc giận hờn. Về sau, bà vợ bé ấy bị bệnh phải giải phẫu não và rồi trở thành người thực vật, phải nằm liệt giường, mê man suốt mất năm. Bà cụ vẫn đến thăm nắm tay bà ta. tuy mê man chập chờn, bà vợ bé vẫn chảy nước mắt. Bà cụ còn rất từ bi niệm Phật cho bà ta, trong lòng không hề có chút oán hận.
Người con của người vợ bé là người rất ưu tú, có thiện căn lại rất hiếu thuận. Anh ta không những hết lòng chăm sóc người mẹ đang sống như thực vật, mà còn rất hiếu thuận giúp đỡ bà cụ đã nuôi nấng cho anh trưởng thành. Có lần chính mắt tôi trông thấy một cảnh tượng khiến tôi vô cùng cảm động. Người con ấy đã trở thành một giáo viên, được các đồng sự bầu chọn, lãnh được “Huy chương thập đại hiếu hạnh” của tỉnh Đài Loan. Sau khi đã lãnh huy chương, anh ta trở về quì bên cạnh bà cụ, dâng huy chương cho bà cụ mà nói: “Tất cả mọi thứ đều do mẹ cho con, hôm nay con lãnh phần thưởng này, còn có cả tiền thưởng, nên quyết mang về cho mẹ”. Huy chương này làm bằng đồng, khắc một con dê nhỏ quì bên thân dê mẹ mà bú sữa. Tôi đứng bên cạnh nhìn đứa con quì tại đó, quay về phía bà cụ mà cảm ân. Bà cụ cầm tràng hạt niệm Phật, mỉm cười rất từ ái, vẻ mặt bà giống như vẻ mặt của của vị Bồ Tát sống. Tôi thấy thế mà chảy nước mắt, nghĩ rằng, lòng từ bi và Phật tâm chân thật vô tư là xứng đáng nhất. Thật không có người niệm Phật nào mà niệm ra được tấm lòng thanh tịnh, vô tư như thế. Thực ra không có oán hận, nội tâm thanh tịnh, an lạc cũng qua hết một đời; rất nóng giận, oán hờn cho đến chết cũng qua hết một đời. Cần lựa chọn lối sống nào để có được trí tuệ và phước báo của chúng ta.
Chồng bà cụ già dần và mang bệnh. Khi đang bệnh nặng, ông quay về với bà, nhận sự chăm sóc của bà và người con gái. Bà quả là từ bi, bà luôn lấy tâm bình thường, không oán không giận mà chăm sóc người “lãng tử” đã phản bội bà nhiều năm, không mong cầu bù đắp về tình cảm, cũng không đố kỵ mà vui sướng khi chồng bị khổ nạn, cũng không muốn phục hận. Bà nói: “Tôi với phiền não không tương hợp”, bà cười hiền hòa, thể hiện trí tuệ thanh tịnh của người niệm Phật. Kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Bồ Tát bố thí xem kẻ oán người thân như nhau, không nhớ việc ác cũ, không oán người”. Bà cụ không từng đi học, không từng đọc kinh này, thế mà thực hiện theo kinh một cách tự nhiên.
Trước khi mất, vào lúc hơn bảy mươi mấy tuổi, chồng bà cụ tự phản tỉnh đời mình, đến sám hối với bà. Ông nói: “Tôi đã sai lầm suốt đời. Tôi thành thật xin lỗi bà.” Ông sám hối: “mọi người có xúm lại đánh cũng chưa đáng tội của tôi!” bà nghe xong chỉ bình tĩnh mỉm cười mà nói: “Ồ! Nói như thế để làm gì chứ?”. Tấm lòng của bà thật là rộng lượng, hoàn toàn không có gì bất bình, không có gì khó chịu, không có lời oán trách . bà rất bình tĩnh chấp nhận sự sám hối của chồng. Đây quả là một người niệm Phật hiếm có, có thể niệm ra được lòng từ bi, không có lòng oán trách! Chồng bà lại còn đến trước Đức Phật A Di Đà để thú tội, nói ra sự sai quấy của mình, thỉnh cầu Đức Phật A Di Đà từ bi tha thứ, tiếp dẫn ông đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Sau khi ông chân thành thú tội, niệm Phật chưa đến mấy phút, rõ ràng đã vãng sanh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Những người đến trợ niệm cho ông bảo: “Chúng tôi tự mắt nhìn thấy ông tự đổi giường nằm thành một giường đẹp đẽ, chưa đầy mười lăm phút đã rõ ràng niệm Phật mà vãng sanh”.
ĐưÙc Phật A Di Đà đại từ bi nhìn thấy rất rõ những kẻ phàm phu chúng ta trăm thứ lỗi lầm, thường thường là “những kẻ không đáng quay về trần thế”: suốt đời lỗi lầm. Đức Phật cho chúng ta cơ hội tối hậu, lúc lâm chung chân thành hồi tâm sám hối lúc lâm chung nếu có thể sám hối, niệm mười tiếng A Di Đà Phật, chân chính phát tâm muốn đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, thì Đức Phật A Di Đà cũng không bỏ chúng ta, nhất định sẽ tiếp dẫn chúng ta, chỉ sự rằng chúng ta qua phóng túng cảm tình và cá tính của mình, mà cứ cho rằng mình đúng, không biết hồi đầu sám hối niệm Phật.
Đức Phật A Di Đà coi chừng mọi thứ cho chúng ta, nắm giữ không buông bỏ chúng ta.
Có lần bà cụ bệnh nặng, đi đứng khó khăn, tôi đến thăm bà. Bà cười rất dễ thương, lại đầy đủ lòng tin mà nói với tôi: “ĐưÙc Phật A Di Đà đang ở trên miệng tôi, ĐưÙc Phật A Di Đà đang ở trong tâm tôi”. Bà dùng tiếng Đài Loan mà nói: “Đức Phật A Di Đà giúp tôi cố điều điều”. “Cố đieuà điều” nguyên nghĩa “là chăm lo rất cẩn thận”. Tôi theo âm mà hiểu nghĩa, riêng hiểu “cố điều điều” có nghĩa điều gì cũng chăm lo tới, không kể việc lớn hay việc nhỏ, không có thứ gì mà không chăm lo tới. Đó là sự chăm lo của Đức phật A Di Đà đối với chúng ta. Chỉ riêng người nào chân thực tha thiết niệm Phật thì mới có thể hiểu được Đức Phật “ chăm lo điều điều đối với chúng ta”. Bà cụ biết rõ nghĩa kinh của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật: Mỗi mỗi ánh sáng Phật chiếu khắp các chúng sanh niệm Phật, “nắm giữ không buông bỏ”.
Bà cụ ngày ngày vào buổi sáng sớm đều muốn dùng hoa mình trồng để cúng dường Phật. Bà bảo dùng hoa mình trồng mà cúng dường Phật thì ngẩng đầu lên nhìn, thấy Phật cười.
Người con gái của bà cụ là ủy viên của hội Từ Tế Công Đức. Có lần cô đi dự hội Hoa Liên, để bà cụ và một người bạn gái Cơ Đốc giáo ở nhà. Bỗng nhiên bà nhận được một cuộc điện thoại do người con gái gọi từ Hoa Liên về, yêu cầu bà mau lên Phật đường ở trên lầu xem thử có gì xãy ra không. Bà rất đỗi ngạc nhiên, không biết là chuyện gì, nhưng cứ lên lầu xem thử. Vừa trông thấy, bà bỗng giật mình . Chân bàn Phật và một phần của mặt bàn đang bị cháy, xem ra ngọn lửa cũng khá lớn, vì nếu không thì chất gỗ ấy không dễ gì cháy được. Nhìn kỹ lại, thì ra lửa cháy từ trong sọt giấy dưới bàn Phật. Thế mà, thật không thể nghĩ bàn được, ngọn lửa cháy đến chỗ tượng Phật thì tự dưng tắt hẳn. Trước cảnh tượng ấy, không những bà cụ rất xúc động mà phải khóc, đảnh lễ tạ ơn đức Phật, mà cả người bạn gái Cơ Đốc giáo cũng rất kinh dị, bất giác quỳ xuống lạy Phật, nước mắt tuôn trào. Bà cụ kể lại chuyện này cho tôi nghe và cảm thán: “Đức Phật A Di Đà quả là chiếu cố điều điều cho tôi!”
Nếu không thì gặp phải hỏa tai ở nhà như thế, không biết là phải làm sao. Bà nói: “Niệm Phật thật là tốt! Đức Phật A Di Đà tốt quá!”
Người con gái của bà cũng không biết vì sao đang lạy Phật tại pháp hội Hoa Liên lại bỗng nhiên khẩn cấp gọi điện thoại về nhà. cô chỉ có thể nói “cảm ứng do Phật đạo thì khó nghĩ bàn!”
Trong tâm chúng ta quả thật đã đặt ở việc hóa độ chúng sanh, ở việc niệm Phật, thì các sự việc của mình quả thực không cần phải quan tâm lo lắng, đức Phật A Di Đà sẽ chăm lo mọi thứ (cố điều điều) cho chúng ta!
Bà cụ đã tám mươi hai tuổi, hằng ngày bà vẫn có thể nấu nướng những thức ăn rất ngon, cúng dường những người có duyên đến nhà bà. Bà rất nhiệt tâm chu toàn mọi công việc. Bà đã tám mươi hai tuổi mà vẫn không tiếc khổ nhọc, tự mình lo liệu, và bảo mọi người làm các phần việc lặt vặt. Con gái bà nói với bà: “Mẹ cứu núi cứu biển, bảo hộ trái đất, công đức thật là to lớn”. Bà cụ tươi cười nói: “Các người cứ một mực khen ta khiến ta cứ phải làm việc mãi không biết mệt”.
Một số người vẻ bề ngoài rất bình thường, mà trong lòng thì có sự tu dưỡng và công phu khác thường. Một số người buông bỏ không được, nên cần phải so đo tính toán. Bà cụ thì buông bỏ được, nên có thể nhường người khác. Một số người cảm thấy khổ sở, bà cụ thì rất bình tĩnh tự tại. Một số người ưa tranh giành, hy vọng tranh giành được phần thắng lợi. Thật ra, xét kỹ lại, người tranh lợi chẳng hề được cái gì ngoài việc gặp nhân quả không tốt và sự khổ đau trong tương lai. Quả là không được gì cả! Xem ra, người khù khờ nhường nhịn kẻ khác, thua thiệt kẻ khác, thì quả thật không mất mát gì; ngược lại, người ấy với cái tâm tự tại, rộng rãi, cùng an vui với từ bi của Phật tính.
Tôi thường nhận thấy rằng, dùng thủ đoạn không tốt để tranh thủ thắng lợi nhất thời thì thường phải chịu thua thiệt lớn trên Phật đạo. Con người có thể chịu thua thiệt lớn thì thường chiếm được sự thuận tiện lớn trên Phật đạo. Vì người ấy đã thấy rõ được cái trí tuệ buông bỏ, mở rộng tâm lượng của mình. Phước báo của người ấy là vô hạn.
Thực ra, hàng phàm phu có tâm hay biến đổi thì không dễ gì bỏ được phẫn hận, không bằng lấy tinh thần ấy mà niệm Phật, niệm đức Phật vĩnh viễn có tâm không biến đổi. Nếu đem cái sức tương tranh cùng phàm phu mà, cúng dường đức Phật vĩnh viễn có tâm không biến đổi thì so với kết quả cả một đời, cách xa như một trời một vực. Không chỉ là một trời một vực mà khác biệt giữa địa ngục và thế giới Cực Lạc. thế thì phải chọn cái gì? Thử xem trí tuệ của chúng ta!
Có lần, một bà nọ nhân vì chồng có bạn gái mới, bà cảm thấy mất chồng rất bi ai, thương tâm. Mỗi ngày bà đều khóc than, kể lể, hy vọng chồng có thể trở về với mình. Bà cảm thấy chồng bà đóng một vai trò “không có thì không được”, mất chồng, bà cảm thấy sống không nổi, lại cảm thấy bị mất mặt. Bà khóc hàng cả mấy năm vẫn còn khóc. Thực ra phải chăng bị chồng bỏ thì phải khóc thống khổ suốt đời? Một hôm tôi nói với bà: “các vị sư phụ xuất gia của chúnh ta đều không có chồng mà cũng đều có thể sống rất tốt đẹp! Cũng như bà cụ đã nhường chồng cho kẻ khác, tự mình thanh tịnh niệm Phật, cũng đã có thể sống rất an lạc, rất tự tại. Trên thế giới không hề có ai qui định rằng hễ gặp trắc trở hôn nhân thì phải thống khổ mới được!”
Cùng gặp cảnh ngộ như nhau, nhưng bà cụ thì rất vui vẻ niệm Phật, lòng không oán hận, lại có thể hoàn tất các thứ công đức. Vì sao cũng cùng một cảnh ngộ, chúng ta lại oán hận, lại trách mắng, lại khóc than cả đời chứ? Bà cụ dùng tâm bình tĩnh an vui ngay đó mà trồng nhân an vui, về sau tất nhiên sẽ được quả yên vui. Còn người oán hận, khóc than, trách mắng thì ngay đó phải thống khổ, lại trồng nhân thống khổ, về sau sẽ gặp quả khổ. Bạn muốn chọn loại nào?
Tranh một tiếng thì đọa địa ngục Không bằng niệm Phật thưởng hoa.
Nghe nói, bà vợ bé kia trở thành người sống như thực vật phải chịu khốn khổ mười mấy năm trên giường bệnh; nhưng nhờ người con hiếu, bà cụ và người dâu khi ngủ, bà đang bệnh cũng có vẻ như biết được cần sám hối niệm Phật. Khi bà mới ngã bệnh, người con trai của bà cụ kiên quyết đảm nhận khoản chi phí lớn lao về thuốc men, cũng không vì bà là vợ bé của cha mà đối đãi không tốt với bà. Về sau có một vị cao tăng sau khi nhìn thấy bà, bảo bà sám hối, tu hành, niệm Phật trong lúc bệnh thì sau sẽ được thành tựu. Ngày tháng trôi qua trong suốt hơn mười năm trên giường bệnh, cuối cùng bà cũng vãng sanh. Con hiếu, dâu hiếu trợ niệm cho bà, niệm A Di Đà Phật. Nguyện lực đại bi của đức Phật A Di Đà thật không thể nghĩ bàn. Ơû cuối đường đời bà cũng nở nụ cười bình an, sắc mặt, nước da như hồi còn trẻ cách đó hai mươi năm khiến người ta nhận bà không ra, không dám tin! Biết rằng bà vãng sanh, bà cụ vẫn từ bi như xưa, bảo con gái mình đến niệm Phật cho bà và an ủi con trai bà. Đặc biệt nhất là phía gia đình bà cụ lại đại diện cho gia đình bà vợ bé trong tang lễ, bước ra cảm tạ bà con bạn bè. Thật là quý báu hiếm có, không hiềm, không hận, tất cả đều hòa hợp an lành! Sự từ bi bao dung này chẳng hề thiệt thòi gì, chẳng mất mát gì! Trái lại, trong lòng mọi người tuôn trào những lời khen ngợi nồng nhiệt. Chư Phật Bồ Tát tất nhiên cũng tươi cười xưng tán họ: “Bồ Tát bố thí, nghĩ đến kẻ oán người thân như nhau, không nghĩ tới điều ác cũ, không oán ghét người.”
Riêng bà cụ, bà dùng tâm từ bi viết một bài thơ rất hay: “Tất cả kẻ oán người thân cũng sinh Cực Lạc”; cũng thể hội lòng bi hoài vô tư, triệt để của đức Phật A Di Đà. Trên cõi đời xấu ác, ngũ trọc đầy ngập đấu tranh, bà đã thực hiện trọn vẹn đại nguyện của Đức Từ phụ.
Bà để lại một bài thơ thanh tịnh Cực Lạc để cảnh tỉnh lòng người mê muội...
Cho dù bạn mặt xanh nanh trắng bao nhiêu.
Cuối cùng cũng không tránh khỏi
Nét từ bi, nụ cười của Đức Phật A Di Đà...
Cho dù bạn có ác độc ngập tràn bao nhiêu.
Cuối cùng cũng không tránh khỏi
Tấm lòng đại bi cứu độ của Đức Phật A Di Đà...
Một vị Tổ sư Thiền tông nói: “An vui không sầu, đó gọi là Phật”, nhưng chúng ta thường không an vui, cho nên không thể thành Phật được, thế thì phải làm sao?
Chúng ta thử nghĩ xem, vì sao chúng ta không được an vui? Có thể là vì chúng ta bị mất một vật đáng ưa, đáng quý; cũng có thể mất một người yêu quý. Ví như ông chồng gặp và yêu một người khác mà không về nhà, hoặc là bạn bè tốt hiểu lầm bạn, bạn bị mất một người bạn tốt, cũng có thể là nghe một câu nói không thuận tai, hoặc bị phê bình; cũng có thể thành quả công tác hay thành tích thi cử không được như mong muốn; cũng có thể do vì mất đi một cơ hội tốt, hoặc không đạt được điều mong muốn, thậm chí gặp phải sự đối xử bất công. Chúng ta có nghĩ đến những sự phát sinh như vậy để rồi chúng ta không vui chăng?
Nếu hôm nay bị mất một vật mà chúng ta không ưa thích lắm, thì có thể chúng ta cảm thấy rất bình thường, lòng không bị phiền bực, vì vật ấy bạn cảm thấy không có giá trị gì.Nếu hôm nay người khác mất chồng, bạn cũng không cảm thấy không vui, có thể nói điều ấy vốn không ảnh hưởng gì tới bạn. Vì chồng của người khác đối với bạn không có gì quan trọng, bạn không nhận thấy ông ta quan trọng đối với bạn, dù có cho bạn, bạn cũng không cần, cho nên ông ta mất đi bạn cũng cảm thấy không quan trọng gì!
Có những câu mà chúng ta nghe xong rất không hợp ý, ví như hiềm khích mà bảo rằng chúng ta không tốt, nếu người ta bảo: “Vì sao anh khờ dại thế? Làm việc mà như thế à? Thi cử mà thành tích như vậy ư?”, chúng ta nghe xong thì rất phiền lòng. Một mặt, vì người ấy hiềm ghét là “ta”, chúng ta đều chấp trước cái tự ngã của mình. Nếu người mà người ấy hiềm ghét là người khác thì chúng ta sẽ không bực bội như thế. Mặt khác, vì chúng ta cảm thấy “khờ dại” là không tốt, “lanh lợi” mới là tốt. Vì chúng ta có quan niệm như thế, cho rằng “dại khờ” thì không có giá trị, “lanh lợi” mới có giá trị, cho nên khi nghe nói như thế mới buồn phiền.
Thật ra, phải chăng “lanh lợi” mới có giá trị, “dại khờ” thì không có giá trị? Phải chăng người có thành tích tốt thì có giá trị, thành tích không tốt thì không có giá trị? Điều này không nhất định như thế.
Hồi còn nhỏ tôi cũng theo quan niệm của người khác mà có lối suy nghĩ như thế, nhưng hiện nay tôi hoàn toàn bỏ đi cái quan niệm này. Có một bậc cha mẹ nói với tôi rằng ông vốn cảm thấy có được mấy đứa con rất lanh lợi thật là tốt. Kết quả là mấy đứa con này đi học xa, không có đứa nào gần gũi để chăm sóc ông. Khi ông đã già, gân cốt đau nhức, đi đứng khó khăn, rốt lại, đứa dại khờ nhất không đi học xa lại ở bên cạnh mà săn sóc ông. Bạn bảo loại nào có giá trị?
“Giá trị” thì không có tiêu chuẩn, tùy theo sự chấp trước của lòng người mà được nêu ra. Ví dụ: Đối với một đứa học trò nhỏ có thể một đồ chơi điện thì có giá trị, nhưng đối với tôi quả thật không cần. Cho nên đối với đứa trẻ rất thích đồ chơi điện, mà nếu đồ chơi điện của nó bị mất thì nhất định nó rất buồn phiền. Nhưng đối với tôi, tôi vốn không cần, nếu nó bị mất đi thì khỏi bị chật nhà, trái lại càng tốt hơn. Cho nên có thểû nói, thật ra không phải mất một thứ gì thì khiến người ta đau khổ, mà chính là sự “chấp trước” những thứ bạn yêu thích mới khiến cho bạn đau khổ. Ví như bạn có một chiếc áo khoác bằng da điêu vô cùng giá trị, có thể bạn rất đắc ý, mặc vào thì rất thích thú. Có điều, nếu như mất đi thì bạn cũng rất hoảng hốt, cũng phải mất mấy ngày không ăn không ngủ. Nhưng đối với tôi, loại y phục ấy đầy máu và nước mắt của sự tàn nhẫn. Cả đời tôi không bao giờ nghĩ muốn loại áo ấy. Cho nên giá tri không có tiêu chuẩn và do quan niệm cá nhân của từng người không giống nhau, cũng tùy thời mà thay đổi.
Chúng ta thường nói: “Thấy rõ được, buông bỏ được”. Nếu bạn nhận thấy một đồ vật nào đó, hoặc một sự việc nào đó còn có giá trị, thì bạn không thể nhận rõ nó được, lại không buông bỏ nó được. Cho nên chúng ta phải cố hiểu rõ cho đến khi cho rằng một sự việc hoàn toàn không có giá trị đặc biệt nào thì mới có thể nhận ra chính xác mà buông bỏ nó đi.
Có người hỏi tôi: “Phải tu “nhẫn nhục” như thế nào?”. Vì anh ta bảo anh gặp phải khá nhiều hoàn cảnh khó khăn, chịu đựng cho được cũng rất khổ, trong lòng như có một khối đá đè nặng. tôi đáp: “Tốt nhất là anh đừng hỏi tôi câu hỏi ấy, vì chính tôi cũng không biết, làm sao nói cho anh biết được?”. Quả thực tôi không biết nhẫn nhục, miễn cưỡng chịu đựng và kiên trì chịu đựng quả là rất đau khổ. Tôi chỉ dần dần hiểu ra mà thôi. Tôi tự hỏi mình: “Vì sao ta biết được đó là sự nhục nhã và áp lực, khiến cho ta phải nhẫn nại?”. Nhất định tôi cho rằng một tình hình nào đó có giá trị, nên tôi mới cảm thấy mặt trái của nó là nhục nhã, là một hoàn cảnh khó chịu đựng, cho nên tôi mới cảm thấy cần phải dùng thứ công phu to lớn là “nhẫn nhục”! nếu không thì mọi sự rất bình thường, đâu cần phải dùng đến cái đại “nhẫn nhục”?
Chúng ta hãy nêu lên một ví dụ: Lúc Lão Hòa thượng Quảng Khâm còn tại thế, một lần có một ký giả vì thấy mọi người cúng dường Lão Hòa thượng rất nhiều tiền, anh ta bèn động tâm xấu, lên núi tống tiền uy hiếp Lão Hòa thượng. Gặp Lão Hòa thượng, anh ta chìa tay ra mà nói: “Đưa tiền đây, nếu không thì ngòi bút của tôi lợi hại lắm đó. Nếu ngài không đưa tiền ra thì tôi sẽ viết một bài báo về ngài, ngày mai báo đăng, bảo đảm toàn núi của ngài không có ai đến, không có cả nửa con ruồi, con muỗi!”. Lão Hòa thượng nghe xong, chỉ an nhiên tự tại mà nói với anh ta: “Kính nhờ anh! Anh viết càng xấu càng tốt! Anh muốn viết thế nào cũng được, tôi không cần mọi người cung kính tôi. Nếu người ta cung kính tôi, xin tôi gia trì thì ngày nào tôi cũng phải trì chú Đại Bi, gia trì nước chú Đại Bi; nếu người ta không cung kính tôi thì tôi có thể an tâm mà niệm A Di Đà Phật!”. Người ký giả ấy nghe xong thì rất ngạc nhiên, anh ta bảo, anh ta đã đi cùng khắp Nam, Bắc, chưa từng gặp ai như Lão Hòa thượng! Quả là “Sự đáo vô tâm giai khả lạc, nhân đáo vô cầu phẩm tự cao” (Vô tâm đối với các sự việc xảy đến thì được vui, người đạt đến chỗ không mong cầu thì phẩm chất tự cao). Sự việc này đối với Lão Hòa thượng hẳn có thể nói là rất bình thường! Có thể nói ngài vốn không phải dùng cái công phu to lớn là “nhẫn nhục”. Vì chúng ta là những người bình thường, nhất định chúng ta cho rằng việc báo khen ngợi là “cao tăng đại đức”, “người tốt việc tốt” là có giá trị, cho nên chúng ta mới sợ cái tình huống ngược lại xuất hiện. Nhưng đối với Lão Hòa thượng, ngài cho rằng báo đăng bạn là cao tăng đại đức, thần thông quảng đại chẳng có giá trị gì, cho nên báo có viết thật xấu cũng chẳng quan trọng gì!
Thật ra mình tốt hay không tốt hoàn toàn không phải chờ người khác phê bình mà thành ra như thế. Nếu quả thực mình không tốt thì dù trên báo đăng bạn rất tốt cũng không ích gì! Nếu chính mình không làm việc xấu, thì trên báo viết bạn không tốt thế nào chăng nữa cũng không phải viết về bạn, có liên quan gì tới bạn đâu? Người bình thường chúng ta cho rằng sự phê bình và khẳng định của người khác là có giá trị, cho nên nếu người ta bảo chúng ta là người xấu thì chúng ta rất phiền lòng; người ta bảo chúng ta là người tốt thì chúng ta được ấm lòng. Có thể nói, suốt ngày dính mắc đến lời phê bình của người khác, lòng vui đó buồn đó. Nhất là khi người ta bảo bạn không tốt và lại oan uổng, thậm chí còn vặn vẹo sự thật, chúng ta liền cảm thấy bị thương tổn. Nếu lại muốn giữ gìn tư cách, không cãi cọ với người ta, thì cảm thấy rất khổ sở. Như thế mới cần phải “nhẫn nhục”. Loại nhẫn nhục này mà không dùng một chút trí tuệ để thông hiểu, để hóa giải, cứ kiên trì chịu đựng thì có khi phải sanh bệnh, không cho chút gì “Ba la mật”. Nếu công phu chúng ta không đủ, không thể quán không, thì có thể dùng cái góc độ giá trị để thông hiểu. Rốt lại, sự việc ấy khiến cho chúng ta buồn khổ mà không buông bỏ được, thì thế gian này có giá trị gì đâu? Có giá trị thì chúng ta mới cần ôm giữ, không có giá trị thì giữ trong lòng làm chi?
Tôi có quen một vị pháp sư tên là Hoàng Tông. Một hôm, ngài ngồi tại một nơi, có người từ bên kia đi tới chào ngài nhưng ngài không để ý. Sau đó người này rất giận, mắng ngài: “Hòa thượng già, con lừa trọc gia, ông là đồ “chứa phân!”ø. lão Hòa thượng nghe vậy liền khen người ấy: “Ối chà! Hôm nay ông mở đại trí tuệ đấy! Ông biết tôi là người hai chân mang một thùng phân, ngày nào cũng đi đi lại lại”. Nếu người bình thường chúng ta gặp phải tình trạng này, bị người xấu miệng trách mắng, thì nhất định chúng ta sẽ cãi cọ với người ta một phen. Nhưng quan niệm về giá trị của Lão Hòa thượng không giống như chúng ta. ngài cho rằng có giá trị đâu mà lý luận bàn cãi! Cho nên ngài khen người kia là mở đại trí tuệ. Quả thực, chúng ta đều hai chân mang một thùng phân, hằng ngày đi đi lại lại! Nếu miệng thốt ra lời xấu ác, thì môi sẽ biến thành nắp thùng phân. Chúng ta có thể biết rằng, các vị Pháp sư tu hành đã lâu, thì quan niệm về giá trị của họ không như những người bình thường, cho nên đối với những sự việc khiến người bình thường chúng ta phải đau khổ, chư vị lại rất an vui và rất tự tại.
Thật ra, “giá trị” không hề cố định, và chúng ta có thể tùy thời điều chỉnh, cải biến. Lại nêu một ví dụ nữa. Lúc tôi mới sanh ra, đầu hầu như không có tóc, chỉ có mấy sợi nho nhỏ, thưa thưa thớt thớt. Khi tôi lớn lên thì vừa đen vừa xấu. Dì Hai tôi là người rất thật thà, mới trông thấy tôi, bà liền nói với mẹ tôi: “Thật ra tôi rất muốn khen con bé, nhưng nhìn đi nhìn lại, tìm không ra cái gì có thể khen được”. Đây là lời phê bình thành thật nhất mà tôi nghe được trong đời tôi. Có lẽ có người cho rằng đây không phải là lời nói hay nhất, nhưng do câu nói khởi đầu như thế, tôi chỉ có thể tiến bộ chứ không thể xấu đi. Đến khi tôi hai ba tuổi cũng chưa mọc được tóc. Dù cha tôi cho tôi mặc quần áo đỏ đậm, người ta hễ gặp ông thì nói: “Này ông Quách! Xin chúc mừng ông lại sanh con trai nữa”. Cũng khó khăn lắm, cho tới khi hơn ba tuổi tôi mới có được một ít tóc. Nhưng đến khi tóc dài, động tác đầu tiên của tôi là lấy kéo cắt tóc đi. Tôi còn nhớ bấy giờ cha tôi rất hoảng hốt, đâu dễ gì đầu tóc quý báu mới dài được, sao lại cắt như thế! Ông bèn vội vàng lấy một cây lược chải đi chải lại đầu tóc cho tôi. Kết quả là tóc không che đủ đầu. Trong lòng đứa trẻ lên ba, tôi cho rằng đầu tóc không có giá trị gì, cho nên khi tóc dài thì cắt đi!
Nhưng khi tôi lớn hơn một chút, vì chịu ảnh hưởng của các bạn đồng học, dần dần đầu tóc không có giá trị này do quan niệm đã biến thành có giá trị. Hồi còn học tiểu học, tôi để tóc dài, hằng ngày mẹ tôi đều chải đầu giúp tôi, lại thắt bím và kết nơ bướm cho tôi. Bạn bè nói với tôi rằng có người đi xem phim, bị người phía sau cắt mất bím tóc. Từ khi nghe như thế, tôi rất lo sợ, lo bím tóc của mình bị người ta cắt mất. Cho nên khi xem phim, tôi lấy hai tay nắm hai bím tóc. Lúc ấy, hai bím tóc thật có vẻ rất có giá trị, không giống như quan niệm lúc còn nhỏ.
Đến khi học trung học, các bạn đồng học đều rất chú trọng đầu tóc. Nhà trường quy định tóc phải cắt ngang tai, mỗi khi kiểm tra mà tóc dài quá một chút, thầy liền bảo: “Không được, phải cắt ngắn lại một chút!”. Cho nên mọi người thường so đo tóc dài hơn một phân, ngắn hơn một phân. Tôi thường quên những hôm nhà trường kiểm tra đầu tóc, trước khi đi học tôi mới bỗng nhớ ra, liền nhờ mẹ tôi vội vàng cắt tóc giúp tôi. Mẹ tôi hốt hoảng liền vội vàng cắt tóc cho tôi. Mẹ tôi cắt không được ngay ngắn, tôi đến trường bị các bạn đồng học cười mà nói: “Đầu tóc của bạn thật giống như bị chó gặm!”. Bấy giờ nghe nói thế, tôi thật giận. Khi trở về nhà, tôi cự nự với mẹ: “Mẹ cắt tóc cho con xấu quá, khiến con bị các bạn cười!”. Bấy giờ, vì không hiểu rằng đầu tóc không có giá trị gì, cho nên tôi thường vì một hai phân tóc mà sinh phiền não, vì một hai phân tóc mà có ảnh hưởng khá lớn đến tâm tình.
Bấy giờ tôi có đọc một tạp chíù, thấy vấn đề đầu tóc được bàn cãi rất sôi nổi. Trên báo thường thảo luận rằng, người ta cứ chú ý đến thứ “ở trên da đầu”, mà không chú ý đến thứ “ở dưới da đầu”.
Sau này tôi nghiên cứu Phật pháp, đọc được một số chuyện của các bậc tu hành, cao tăng đại đức, tôi phát hiện rằng, “mười vị” đáng tôn kính nhất đều là những vị tu hành, xuất gia, họ đều không có tóc. Cho nên tôi dần dần phát hiện, khẳng định “đầu tóc thì không quan trọng”.
Từ khi quan niệm này về giá trị biến đổi, tôi không còn chấp trước vấn đề “đầu tóc” nữa.
Khi còn làm bác sĩ, một hôm sau khi xong việc, tôi đến cắt tóc tại một mỹ dung viện. Tôi chỉ bảo cô làm tóc: “Tóc ở phái trước phải được cắt ngang lông mày”. Vì tối hôm đó tôi đã phải làm việc liên tục mấy ngày rất mệt, cho nên nói xong, tôi nhắm mắt dưỡng thần. Bỗng nhiên tôi nghe một tiếng la “ối”. Thì ra, cô ấy đã cắt tóc tôi quá ngắn. Khi cắt một nhát đã tới giữa trán, cô ta sợ đến suýt khóc, không biết nhát thứ hai phải làm sao? Một vị khách ngồi cạnh tôi thấy thế liền nhíu mày mà nói: “Aùi chà! Sao cô cắt tóc người ta thành ra như thế!”. Bà chủ thấy thế cũng trách mắng cô ta. tôi thấy cô ta quả rất đáng thương, bèn bảo cô ta: “Khi tôi sanh ra, dì Hai tôi đã nói, dì muốn khen tôi nhưng tìm không thấy chỗ nào đẹp mà khen, cho nên tôi sanh ra vốn rất xấu, hoàn toàn không phải vì cô cắt tóc tôi như thế này tôi mới trở thành xấu. Cô cứ yên tâm, vì tôi định xuất gia, nay đầu tóc bị cắt ngắn một chút cũng không sao!”. Người bên cạnh nghe tôi nói thế, ai cũng cười. Cô ấy không biết nên làm thế nào cho phải, cô cũng không dám lấy tiền của tôi. Tôi nói với cô: “Cô làm việc rất khổ nhọc, nhất định phải lấy tiền chứ! Cô đừng lo, cứ niệm A Di Đà Phật là tốt”. Nói xong tôi về nhà. khi tôi về đến túc xá, người bạn cùng phòng ra mở cửa, vừa thấy đầu tóc của tôi, cô liền ôm bụng mà cười, ngồi bệch cả xuống đất mà cười.
Cô bảo: “Chị đi cắt tóc ở đâu mà đầu tóc xấu thế? Để tôi cắt lại dùm chị cho đẹp!”. Cô lại nói: “Nếu tôi là chị thì ngày mai tôi hết dám đi làm!”
Tôi nói: “Không phải đâu! Tôi đi làm là để khám bệnh nhân, đâu có liên hệ gì tới đầu tóc, tôi sẽ vui vẻ đi làm”.
Sáng hôm sau tôi đến y viện, cô y tá mới thấy tôi đã kêu lên: “Aùi!”, rồi cả y viện bàn ầm lên.
Các cô ấy bảo: “Này bác sĩ Quách! Sao cô lại cắt đầu tóc như thế này, xấu muốn chết!”.
Tôi bảo họ: “Xấu thì xấu, có chết đâu nào. Từ hôm qua cắt tóc như thế này cho đến nay tôi vẫn sống rất khỏe mạnh!”.
Cũng có người bảo tôi: “Sao chị cắt đầu tóc như thế này, xem tệ quá!”.
Tôi đáp lại: “Té ra cái xấu của tôi đều chỉ tập trung vào hai ba phân tóc. Cắt đi hai ba phân thì hết xấu hay sao?!”.
Các bác sĩ đồng sự hỏi tôi: “Chị có điều gì không khai mở được mà phải ra như thế này?”
Tôi đáp: “Anh thấy trán tôi đây, bộ không khai mở lắm sao?!”.
Có một bệnh nhân là một phụ nữ trên năm mươi tuổi. Mỗi lần thấy tôi bà đều kêu khổ rất thảm não; vì cái hạch độc đã ăn sâu tới xương, nên toàn thân bà đều đau nhức. Lâu nay bà vẫn bảo tôi bà đau chỗ nào, nay bỗng bà ngẩng nhìn đầu tóc của tôi mà phát cười! Bà nói: “Sao cô lại cắt đầu tóc như thế này chứ?”. Trông thấy bà cười, tôi rất vui vẻ nói với bà: “Từ khi được biết bà đến nay, tôi chưa từng thấy bà cười, nếu sớm biết đầu tóc của tôi như thế này khiến bà hỉ hả cười được, thì tôi đã cắt nó từ lâu rồi!”.
Tối hôm ấy tôi được mời đến diễn giảng tại Đại học Phùng Giáp. Khi tôi xong việc, chuẩn bị ra đi, người bạn cùng phòng nói với tôi: “Đầu tóc của chị như thế mà định đi diễn giảng ư? Nếu tôi là chị thì tôi không dám đi giảng đâu?”. Tôi bèn cười mà nói với cô ta: “Tôi sẽ đi giảng Phật pháp, chứ không giảng về tóc đẹp, sắc đẹp. Thế có ăn nhằm gì đâu? Tôi vẫn cứ đi giảng!”.
Khi tôi đứng ở trên bục giảng, các sinh viên ở dưới bục thấy tôi liền cười. Khi tôi diễn giảng xong, có một nữ sinh viên rất dễ thương đến nói với tôi: “Thưa giáo sư, đầu tóc của giáo sư trông hay quá!”. Tôi nghe xong rất buồn cười, bèn nói: “Từ khi tôi cắt đầu tóc như thế này đến nay mọi người đều cười hỉ hả, đây quả thật là một kiểu tóc mới “rời khổ được vui!”.
Nếu hồi tôi còn học Trung học, cô làm tóc ở mỹ dung viện cắt tóc tôi ra như thế, thì nhất định tôi sẽ nổi nóng với cô, và có thể quay về nhà ngay; nếu đồng học cười chê tôi như thế, tôi sẽ chịu không nổi và không dám đi học. Nhưng từ khi quan niệm về giá trị của tôi đã biến đổi, tôi cho rằng đầu tóc cũng không phải là cái gì quan trọng! “Tâm tình” mới quan trọng hơn đầu tóc nhiều! Nếu một người có đầu tóc đẹp, nhưng gương mặt luôn luôn cau có hoặc lạnh lùng thì đâu có ích gì!
Trên đây chúng ta đã dùng “đầu tóc” làm ví dụ để thuyết minh “quan niệm về giá trị”, từ giá trị của đầu tóc, có thể suy ra mà hiểu các sự việc khác, để có thể nhận ra rằng giá trị không phải là nhất định. Nếu chúng ta cho rằng Đức Phật A Di Đà là quan trọng nhất, thì những sự việc khác phải trở thành không có giá trị gì, so ra lại không ảnh hưởng đến sự an vui, tự tại của chúng ta. dù chúng ta có bị oan ức và nhục nhã, thì cũng không cần phải miễn cưỡng mà “nhẫn nhục”. Trước hết chúng ta có thể hiểu:
“Rốt lại, cái gì khiến chúng ta đau khổ?”.
“Rốt lại, cái ấy có giá trị gì mà khiến chúng ta phải cầu tìm và phải vì nó mà đau khổ?”
“Rốt lại cái ấy và việc vãng sanh Tây Phương có quan hệ gì?”
Nếu chúng ta tự mình nghĩ xem thấy rằng cái ấy không có giá trị gì không có liên quan gì lắm với việc vãng sanh Tịnh độ, thì tự nhiên chúng ta sẽ thấy ra và buông bỏ nó đi. Tâm ta vốn là Phật
Tại sao khởi tham trước? Tâm ta vốn đại bi Tại sao giận việc nhỏ? Tâm ta vốn vô ngại
Tại sao không tự tại?
TÌNH YÊU BIẾN THÀNH TÌNH ĐẠO NGƯỜI NIỆM PHẬT BÌNH THƯỜNG VÀ KHÔNG BÌNH THƯỜNG.
Khi ta gặp nghịch cảnh và sinh buồn phiền, có một số mẩu chuyện về những người niệm Phật thường có tác dụng an định, khích lệ. Những người niệm Phật này thường ở chung quanh chúng ta. họ là những người niệm Phật rất bình thường, nhưng lại là những người nông nổi không bình thường, rất nhiều hành vi của họ là nhằm vào chức trọng danh quý, danh nhân học giả cũng không bì kịp họ. Trong số người ấy có một người là bà chủ nhà của tôi, mọi người gọi bà là “Lâm sư thư”, (3) tôi cũng gọi bà như vậy.
Năm ấy, tôi từ Cao Hùng dọn đến Đài Trung thuê nhà ở, chủ yếu là muốn được nghe Lão cư sĩ Lý Bính Nam giảng kinh. Bấy giờ, thầy Lý đã chín mươi mấy tuổi rồi. Vì tôi công tác tại y viện, cảm xúc sâu đậm về đời người biến đổi quá vô cùng, Phật pháp lại khó được nghe, quả là nên dùng thời giờ để nghe các thiện tri thức trên đời dạy dỗ, dùng tuổi trẻ để nỗ lực học tập. Vì muốn nghe kinh cho nên tôi quyết định dù thế nào đi nữa cũng dọn đến ở tại Đài Trung, nhân đó mà nhờ một vị đồng học ở Đài Trung là bác sĩ Trần thuê nhà dùm tôi. Bác sĩ Trần bèn kiếm giúp tôi ngôi nhà của một vị Phật tử là Lâm sư thư. Trước khi dọn đến, tôichưa hề xem nhà, Lâm sư thư cũng chưa hỏi han trước về người khách thuê nhà là tôi, mọi sự đều dựa vào việc hai bên niệm A Di Đà Phật, đều là Phật tử ăn chay, học Phật. Tin cậy Đức Phật A Di Đà là xong.
Bác sĩ Trần chỉ nói sơ với tôi, chồng của Lâm sư thư là một trưởng ban giáo dục, nhưng đã chết sớm do tai nạn xe, Lâm sư thư nương nhờ vào việc bán bánh chay mà sống, trên thì phải săn sóc bà cụ bảy tám mươi tuổi, dưới thì săn sóc bốn đứa con. Khi chồng sư thư mất, đứa bé nhất còn đang ẵm bồng. Bác sĩ Trần bảo rằng Lâm sư thư rất nhiệt tâm giúp người.
Tôi nghe thế, trong lòng nghĩ sư thư là người kiên cường hiếm thấy.
Tôi đến công tác tại khoa Ung bướu ở Đài Trung. Vì bác sĩ ít, bệnh nhân nhiều, cho nên tôi thường phải bận trực liên tục mấy ngày liền, việc ăn ở không bình thường được. Lâm sư thư và các Phật tử hàng xóm như Trang sư thư (xem phụ chú ở cuối trang trước), Lý sư thư biết được hoàn cảnh sinh hoạt của tôi, đều thường làm vị Quán Thế Âm Bồ Tát của tôi, họ tự động âm thầm chăm sóc tôi. Ví như tôi liên tục trực ban, đói cũng mấy bữa, tan việc đã mệt lữ hết chịu nổi, quán cơm chay bên ngoài đã đóng cửa. Buồn ngủ, mệt mỏi, tôi rất lười nấu ăn cho mình. Nhưng khi vừa lên lầu, tôi thấy một mâm, có rau cải xào xanh tươi đang bốc hơi nóng đặt ở cửa phòng, lại còn có một tô canh đậu . Thật không biết đây là tác phẩm của vị sư thư nào từ bi, chăm chút vô cùng! Họ đã tính đúng ngày, giờ tôi trở về mà mang đến . Tôi hết sức cảm kích, thậm chí rớm nước mắt mà ăn . Khi xong bữa, tôi không biết vị Bồ Tát ( 4 ) nào đã mang mâm đến để trả lại, tôi chỉ việc rửa cho sạch và để lại chỗ cũ . Người mang đến ắt tự động lấy về . Hôm khác họ lại nấu đồ ăn mới và mang đến cho tôi . Vì tôi không có tài sản đồ vật gì, trong phòng chỉ có thờ tượng Phật và đặt chút ít sách, tôi lại thường mang chìa khóa theo, cho nên cửa phòng không khóa . Sau khi tôi bảo với họ cửa phòng tôi không khóa, các vị có thể tự do ra vào, thì kết quả là khi tôi hết việc trở về nhà đã xảy ra một sự việc . Chúng tôi thường nghe nói có người khi ra ngoài, đồ đạc trong nhà bị trộm mang đi, còn tôi thì ngược lại! Cái tủ lạnh nhỏ thường trống rỗng của tôi, trong lúc tôi vắng nhà lại được chất đầy rau xanh và thức ăn!Tôi chỉ chắp tay niệm Phật, không biết nói lời cảm ơn với ai, đây quả là sự từ bi và đầm ấm của thế giới Cực Lạc! Tôi hiểu rằng họ muốn cho tôi có đủ sức lực để chăm sóc bệnh nhân. Lòng từ bi của các vị sư thư ấy, không những nhằm chăm lo cho tôi mà còn nhằm tới các sinh viên của học viện y học Trung Quốc gần đó .
[ Phụ chú: Trong phần trên, có nhắc đến Trang sư thư, nay đã vãng sanh . Nguyện lấy lời cảm ân nay hồi hướng Trang sư thư ( Bồ Tát Trang Mai ). Nương nhờ sức từ bi vãng sanh Cực Lạc, theo nguyện trở về quảng độ vãng sanh . ].
Trên lầu bốn của Lâm sư thư có lập một Phật đường cung cấp miễn phí cho ( Y Vương Học Xã ), thuộc học viện Trung Quốc Y dược của chúng tôi làm Phật đường để trùng tu. Có một lần và là lần rất hiếm hoi, tôi ngồi trò chuyện với vài vị sư thư, mới biết hoàn cảnh và việc làm bất bình thường của Lâm sư thư của chúng tôi. Các vị sư thư ấy cười mà nói với tôi: “ Lâm sư thư của các vị ấy à! Hồi trước là một cô gái rất yếu đuối. Khi chồng chị còn sống, mọi sự chị đều nhờ vào chồng . tình chồng vợ của họ vô cùng tốt đẹp. Lâm sư thư rất phóng tứ, trước mặt mọi người, chị đều dùng tiếng anh gọi chồng là Honey (mật ngọt, cưng yêu). Xã hội Trung Quốc còn bảo thủ, có người nghe chị cứ mở miệng là nói Honey với chồng, thì đều bảo chị quá phóng tứ, quá lố lăng. Đâu biết rằng Lâm sư thư của các vị thì kiên cường không ngờ được, đồng thời tín tâm niệm Phật của chị cũng kiên định không ngờ được”. Chuyện kể đại khái trước đây, khi chồng chị còn sống, chị vẫn chưa quyết tâm học Phật, nhưng cũng đã nghe qua pháp môn niệm Phật và sự trợ niệm lâm chung. Lý sư thư kể rằng hôm chồng của Lâm sư thư bị tai nạn xe, gia đình nghe tin liền cùng chị đến hiện trường. Anh Lâm đã chết tại chỗ, nằm trên vũng máu, người ngoài nhìn vào còn rất đau lòng, huống chi là Lâm sư thư? Nhưng không ngờ, bên cạnh di thể của chồng, chị nói một câu rất khẩn thiết: “ Honey! Anh mau niệm Phật! Hãy theo Đức Phật A Di Đà mà đến Tây Phương, mọi sự đều có em lo liệu, em sẽ chăm sóc mẹ và các con. Anh cứ an tâm, mọi sự hãy để em lo!”. Nói xong, chị khoanh chân ngồi rất an định tại hiện trường ở trên đường mà niệm Phật, từng tiếng rất khẩn thiết.
Cả gia đình của Lâm sư thư đều đến trợ niệm nhưng không ai ngờ chị lại trấn định như thế, tin tưởng lòng đại từ đại bi, cứu độ chúng sanh của Đức Phật A Di Đà. Lòng tin thâm sâu chân chính này khiến cho chị không bị hoàn cảnh đánh ngã, không bị tình riêng động loạn, mà chỉ nhằm để chồng an tâm theo Đức Phật A Di Đà về thế giới Cực Lạc. Lý sư thư lại nói: “Khi cảnh sát đến điều tra xử lý, họ không thấy ai kêu trời kêu đất, chỉ thấy mọi người đều niệm Phật” thì ngạc nhiên hỏi: “Trong các vị ai là thân nhân của người chết?”Lâm sư thư vẫn kiên định niệm Phật. Khi mọi việc đã xong, Lý sư thư mới hỏi chị: “Này Lâm sư thư! Vì sao ngay lúc đó chị có thể nói được những lời trấn định như vậy?”. Nếu bình thường có chuẩn bị tốt, đến lúc đó trước cảnh tượng ấy cũng không thể thốt ra lời được! Thật vậy chúng ta thử đặt mình vào địa vị của Lâm sư thư mà nghĩ xem, sấm sét giữa trời tạnh như thế, việc lớn sinh tử như thế, máu thịt nhầy nhụa như thế! Thông thường thì ai không khỏi rùng mình, kêu trời kêu đất, không khỏi oán than, trách Phật không bảo hộ, oán trách người tốt sao lại chết sớm; thông thường cũng không khỏi bi ai, kêu khóc: “anh chết rồi, bỏ em một mình lo cho cả nhà này, anh bảo em phải làm sao chứ?” tôi từng trông thấy nhiều trường hợp sinh ly tử biệt ở y viện, cho nên khi nghe chuyện người thực việc thực này của Lâm sư thư thì vô cùng cảm đông, và cũng cảm thấy rất rõ sự bất bình thường trong đó và sự không thể nghĩ bàn về sự cứu độ của Phật lực. Nếu như tình yêu chân thực mà người đời rất ca tụng, thì tôi cảm thấy chính là đây vậy!
Thông thường có nhiều cặp vợ chồng suốt nhiều năm trẻ tuổi vẫn ca ngợi tình yêu, đến khi người hôn phối ngã bệnh thì lại ruồng bỏ người ấy, đó là chưa nói sau khi người ấy chết. Nếu như không ruồng bỏ người hôn phối ngã bệnh thì phần lớn cũng lo lắng: người hôn phối bị loại bệnh này có truyền nhiễm cho mình không? Trong y viện, rất nhiều người phối ngẫu và những người thân thuộc đều lén lút đến hỏi tôi về vấn đề này, khiến tôi phải ngán ngẩm về cái gọi là “tình yêu”, và thâm hiểu rằng, phần lớn người ta chỉ biết yêu mình mà thôi! Giả như có người bị xuất huyết mà chết, lát sau có mùi khó ngửi, thật khó mà thấy một người thân nào chịu khó ở lại, đứng bên cạnh an tịnh mà niệm Phật cho người chết trong tám giờ, mà tất cả đều vội đưa người chết vào phòng đông lạnh. Lại nữa, mọi sự đều giao cho tang nghi quán lo liệu, ngay cả việc liệm quần áo cho người chết cũng không dám tự mình làm. Tôi thường nhận thấy, khi người ta đã ngưng thở thì liền biến thành một thi thể đáng sợ, hình như không bằng giá trị của con vật. Thi thể của con vật còn được người ta bảo là có dinh dưỡng, chịu đem cân trọng lượng mà mua, người chết dù có dinh dưỡng cũng không ai dám muốn.
Người thì có tình cảm ở với nhau lâu ngày mà xa lìa thì bi thương, nhưng xét kỹ nội dung của bi thương thì phần lớn đó là bi thương vì mình, rất ít trường hợp vì người kia. Còn lời hứa của Lâm sư thư lúc chồng chết làm xúc động tâm can người ta, thì hoàn toàn là tình yêu chân thật, lòng từ bi chân thật đối với chồng. Cũng chỉ có người chân chính tin lời Phật dạy “thế gian vô thường” thì mới có thể vào lúc nghịch cảnh bỗng phát sinh, liền dùng trí tuệ như thế để xử lý. Tuy trong quá khứ những biểu hiện của Lâm sư thư khiến người ta không nhận ra được niềm tin sâu đậm của chị đối với Phật pháp, nhưng trong lòng chị thật tin rằng sáu nẻo luân hồi là khổ, chỉ có sự vãng sanh vào thế giới Cực Lạc ở Tây Phương mới là sự an lạc và giải thoát tối hậu. Cho nên chị không chút chần chờ nói với chồng: “Honey, anh mau niệm Phật, theo Đức Phật A Di Đà về Tây Phương!” chị hoàn toàn không dùng cái tâm ngu si vì mình mà khóc lóc kể lể vô ích, trái lại, chị dùng một câu nói đại trí tuệ, đại từ bi thay cho sự khóc lóc bi ai. Tiếng xưng hô Honey cuối cùng của chị chính là toàn bộ sự biểu lộ tình cảm vợ chồng suốt đời củahọ, đều đó khó hơn nữa là tất cả những tình cảm thâm sâu đều chảy trọn vẹn vào biển đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, biến thành sự giúp đỡ và dìu dắt lớn nhứt trong biển lớn sinh tử! Tôi nghĩ, đây mới là Honey chân chính: Cam lồ của mật ngọt chân chính.
Lâm sư thư hiểu rõ mối lo ngại của chồng chính là mẹ già và bốn đứa con, cho nên chị gánh vác tất cả để cho chồng an tâm mà đến thế giới Cực Lạc trước, chờ chị và gia đình, không vì lo ngại mà bị đọa lạc. Câu nói của chị “mọi sự hãy để em lo” có sức mạnh biết bao! Những người đã có tình vợ chồng đều biết, đều này thật khó buông bỏ, cắt đứt, sống để đảm nhận nỗi thống khổ tử biệt và gánh nặng của mọi sinh hoạt hình như còn khó khăn hơn là chết trước. Cho nên ngay cả Lâm Giác Dân anh hùng hào kiệt như thế, mà trong “dữ thê quyết biệt thư” (giử vợ lời vĩnh biệt) cũng không biết phải làm sao để bày tỏ, vì cứu nước cứu dân phải hy sinh trước một bước, để lại nỗi thống khổ sinh ly tử biệt cho vợ con. Ông vì đất nước và nhân dân mà bất đắt dĩ dứt bỏ tình riêng, thật là khiến cho người ta phải rơi lệ. Còn Lâm sư thư thì sống mà đảm trách mọi thứ khó khăn. Quí vị có biết sau đó chị thực hiện lời hứa “mọi sự hãy để em lo” như thế nào không?
Mỗi sáng sớm, khoảng hơn ba giờ, người ta đã nghe tiếng cả nhà thức dậy hoạt động. Bà mẹ chồng thức dậy niệm Phật làm công phu sáng. Chị dậy nấu xôi chuẩn bị các thứ vật liệu làm bánh, một ô cơm lớn và các đồ dùng, rồi dùng cái ròng rọc và giỏ treo mà đưa từ lầu bốn xuống lầu một. Trời chưa sáng, bọn trẻ còn ngái ngủ phải dậy giúp chị mang các thứ xuống lầu. Chị dùng một xe đẩy mà đẩy đồ ra. Chị đứng suốt buổi sáng, cả bảy, tám tiếng đồng hồ, nặn bánh, bán bánh. Chị mang theo một chiếc radio để nghe chương trình của Minh Luân Liên xã. Một mặt chị nghe Phật pháp, một mặt cũng mang tràng hạt, băng cassette để tặng cho những người có duyên. Ngày ngày chị cười hề hề, tùy duyên mà khuyên người niệm Phật, đến khi bán hết bánh chị mới về nhà thì cũng đã quá trưa. Về đến nhà, ngoài việc săn sóc bà cụ và các con, chị còn tụng kinh niệm Phật. Cứ vào ngày tinh xá Tịnh Nghiệp có tổ chức niệm Phật, chị cùng các vị sư thư thường tự đông phát tâm đến trước để quét dọn đạo trường. Trong các vị ấy có Trang sư thư là người thật thà, trung hậu, thường khiêm tốn nói: “Tôi chẳng biết gì cả, chỉ biết cố gắng một chút để quét rửa nhà vệ sinh cũng tốt vậy”. Thật ra, các vị ấy đều là những Bồ Tát rất tốt.
Theo mắt nhìn của người đời, một phụ nữ trẻ tuổi có chồng chết sớm không gì bất hạnh hơn, nhưng chị tin tưởng sâu xa vào đại bi, đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, tất nhiên Ngài đã cứu độ chồng chị, cũng tất nhiên sẽ chăm lo cho cả nhà chị, về sau tất nhiên sẽ tiếp dẫn chị vãng sanh Tây Phương. Quả thực, chồng chị đã nhờ mọi người trợ niệm, niệm A Di Đà Phật mà vẻ mặt vốn đau khổ của ông đã biến thành tươi vui, tốt đẹp. Cho nên chị đã không phải đau buồn vì chồng, cũng không phải khóc lóc vì mình. Mọi sự đều giao cho Đức Phật A Di Đà, tất cả đều chăm vào việc học tập sự từ bi của Đức Phật A Di Đà để tiến xa hơn! Chị sống nhiệt tâm, sáng suốt, chân thực. Chị kiên quyết tin rằng tất cả họ đều sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc, vĩnh viễn gặp nhau, cùng tu học đạo Bồ Tát.
Mỗi khi có người cần trợ niệm lúc lâm chung, chị và một số vị sư thư đều vì việc nghĩa mà không từ chối, xưa nay chưa hề nói câu “mệt quá”. Trong số bệnh nhân của tôi có người ở Bắc Cảng cần trợ niệm, chị cũng chịu đi. Lại có những người bệnh đã chết bị đưa vào phòng đông lạnh, ngay cả thân thuộc của người chết cũng không dám đến nhìn, chị cũng chịu tới giúp niệm Phật. Mỗi ngày giảng kinh, họ đều chân thành đến nghe Phật pháp, lại còn chân thành thực hành trong cuộc sống hàng ngày. Kinh Hoa Nghiêm có nói, Đồng tử Thiện Tài từng năm mươi ba lần tham hỏi, tham hỏi các thiện tri thức thuộc các nơi, học tập các Bồ Tát có các hạnh nghiệp khác nhau. Tôi nhìn chung quanh, thấy các vị có vẻ bình thường, nhưng quả thực là những Phật tử từ bi, và cảm nhận thâm sâu rằng đó là những vị Bồ Tát mà tôi phải học tập, bắt chước theo. Dưới sự dẫn đạo của Đức Phật A Di Đà, tôi thật quá hạnh phúc, đâu đâu cũng đều gặp được Bồ Tát.
Có một dạo, giáo sư yêu cầu tôi, mỗi thứ bảy hằng tuần đến y viện Trường Canh tham gia hội thảo của khoa phóng xạ ung bướu, cho nên tôi phải đáp chuyến xe buổi sáng đầu tiên của Đài Trung mới có thể kịp giờ làm việc của y viện Trường Canh ở Lâm Khẩu. Trời còn chưa sáng, trên đường gần như chưa có chiếc taxi nào, cho nên tôi phải khởi hành vào lúc bốn, năm giờ sáng để khỏi gặp tình trạng phải đi bộ thì hoàn toàn không có taxi, không kịp đến trạm xe lửa. Bốn, năm giờ sáng mùa đông, trời còn mờ mờ, sáng sớm lạnh lẽo thế này mà ra ngoài, tôi run lập cập. Tôi lấy lại tinh thần, to tiếng niệm Phật để cỗ lệ mình. Đi ra tới đầu hẻm, tôi thấy Lâm sư thư đang đứng trong gió lạnh nặn bánh bên con đường còn yên ngủ. Chỉ có chị là người tỉnh táo. Trong hơi lạnh lẽo chỉ có chỗ bày hàng của chị là mang vẻ ấm áp. Chị đưa cho tôi hai chiếc bánh xôi nóng, đủ cho tôi dùng hai bữa, không phải lặn lội đi tìm thức ăn chay; chị còn cho tôi một câu “A Di Đà Phật” đầy thân thiết tươi vui. Tay tôi cầm lấy bánh xôi được ấm áp, trong lòng nghĩ rằng đây chính là thực tiễn của lơìø hứa “mọi sự hãy để em lo” của chị, và lại là cái thực tiễn trong mỗi ngày! Không những chị chân chính thương giúp chồng, cầu mong cõi Tịnh độ Cực Lạc ở Tây Phương cho chồng, mà còn muốn tự mình chăm lo mọi khổ nhọc của mọi người trên đời, chị cũng thương giúp, bất cứ người nào có duyên gặp gỡ.
Theo lời các Phật tử trợ niệm, chồng của chị sau khi được mọi người trợ niệm, vẻ mặt kinh hoàng vì tai nạn xe đã được biến đổi, biến đổi rất tốt, rất trang nghiêm, lại có tướng lành. Bấy giờ chị phải đối mặt với cảnh tượng thê thảm mà vẫn không kinh sợ, mà lại thuận theo để lo toan, đồng thời lại có thể ngay tức khắc áp dụng Phật pháp mà chị đã được nghe, quả là không dễ gì vậy!
Chúng ta nghĩ lại mình, tuy được may mắn nghe Phật pháp quý báu, nhưng gặp sự biến hóa của nhiều hoàn cảnh, thỉnh thoảng chúng ta vẫn bị tác dụng của tư tưởng cũ, bệnh tật cũ mà không áp dụng được Phật pháp. Đấy là tình cảm phàm phu dấy khởi, mà không dùng trí tuệ ngay để quán chiếu, giữ cho nội tâm an định, không động không loạn. So với sự việc “Lâm sư thư” trong sự biến đổi thê thảm của sinh tử đột nhiên phát sinh, đã y theo Phật pháp mà hành sự ngay, an định không loạn, áp dụng trí tuệ, thật là xa quá, đáng hổ thẹn quá.
Mỗi khi tôi gặp nghịch cảnh về nhân sự phản phúc mà sinh buồn phiền, tôi không khỏi nghĩ đến vị Bồ Tát đứng sừng sững trong gió lạnh, vị Bồ Tát kiên cường và từ bi! Vào buổi sáng lạnh lẽo và mờ mịt, gặp được vị Bồ Tát ấy khiến người ta từ hai tay, đến bụng, đến tim đều cảm thấy ấm áp, và sung mãn hướng đến dũng khí rõ ràng.
SÓNG LỚN BIẾN THÀNH CHIẾC NÔI, QUÁN ÂM CẢM ỨNG KỲ DIỆU.
Mỗi khi tôi gặp hoàn cảnh khó khăn mà lòng cảm thấy đau buồn. Tôi nghĩ đến một câu chuyện càng làm cho tôi có lòng tin bội phần mà niệm Phật. Đó là câu chuyện của bạn tôi, Bồ Tát A Thanh, kể cho tôi nghe. Bồ Tát A Thanh có một người bạn, chồng chị ấy tốt nghiệp viện Hải Dương học. Vào cuối năm nọ, anh cùng một số đồng học tại viện Hải Dương học, do có kỹ thuật lái thuyền chuyên ngiệp, nên được mời đóng phim, vai các thuyền viên. Trước khi đóng phim, họ cần đi thử thuyền. Hôm ấy theo kế hoạch, họ lái một chiếc thuyền mà họ chưa từng lái. Từ Cao Hùng xuất phát, phải đến cảng Giai Lý. Bồ Tát A Thanh ngày thường vẫn khuyên họ khi ra đến biển nhớ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng họ nghe để mà nghe, chẳng xem ra gì.
Hôm ấy, họ bắt đầu ra biển thử thuyền. Ngoài khơi họ đã gặp dòng nước lạnh, trên biển sóng to gió lớn. Họ lại không rành về tính năng của chiếc thuyền, cũng có thể thuyền không tốt lắm. Bỗng nhiên thuyền bị lật, mọi người đều bị rơi xuống biển giữa dòng nước lạnh thật là kinh hoàng, khủng khiếp. Tuy những người bạn cùng đi với nhau đều là những nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp, cũng có vài thiết bị cứu sinh, nhưng giữa cơn sóng gió lạnh, bốn bề không ai cứu viện, chỉ có những cơn sóng hãi hùng, biển rộng mênh mông, những người bạn ấy lần lượt không chịu đựng được, từng người một lần lượt phải mất mạng trong biển lớn.
Anh chồng chị bạn của Bồ Tát A Thanh trố mắt nhìn các bạn lần lượt bị biển nuốt mất, nỗi đau đớn và khiếp sợ trong lòng thật không thể nào tả xiết. Chẳng những trời rất lạnh, sóng gió rất lớn, mà trời thì càng lúc càng tối, anh nghĩ tới vợ đang chờ anh về ăn cơm tối, thế mà anh lại bị gặp nạn giữa biển, không có ai biết để đến cứu, thật là bi thảm!
Trong khoảng thời khắc tối tăm, kinh hoàng ấy, bỗng nhiên anh nhớ tới Bồ Tát A Thanh thường khuyên anh niệm câu “Quán Thế Âm Bồ Tát” mà trước đây anh cảm thấy không cần dùng nên không lưu tâm đến. Nhưng ở giữa biển lớn không nơi nương cậy này, anh cứ một mực niệm “Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát...”. Anh không biết mình đã niệm bao lâu, sau đó có một chiếc thuyền đánh cá đến cứu anh, đưa anhvề y viện, anh mới biết anh đã trôi dạt trên biển hết mười bốn tiếng đồng hồ. Trong tai nạn trên biển ấy, anh là người duy nhất còn được sống sót. Điều này chứng minh câu nói trong kinh Pháp Hoa: “Niệm sức Quán Âm ấy, sóng không nhận chìm được!”
Chuyện còn kể tại sao chiếc thuyền đánh cá ấy lại đến cứu được anh? Đó là sự cảm ứng không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Người ngư phủ đến cứu anh hôm đó vốn không muốn ra biển vì có dòng nước lạnh chảy đến, sóng to gió lớn, có thể nói toàn bộ ngư dân đều nghỉ ở nhà không ai ra biển. Nhưng hôm ấy lại rất lạ kỳ, cái lư hương mà gia đình ngư phủ ấy dùng để cúng Phật, bỗng nhiên lại “phát lư”, tức là lửa bốc cháy trong lư hương, bà vợ của ông không biết chuyện gì, bèn giục chồng phải ra biển. Ông thật không vui vẻ, nói: “Hôm nay có dòng nước lạnh, không ai ra biển, sao lại bảo tôi ra biển chứ? Bà đâu phải là người ham tiền, mà hôm nay sao lại xúi giục như thế?”. Sau đó, người ngư phủ nổi giận, lớn tiếng với vợ, rồi ra biển. Khi ra đến biển thấy có người giữa biển, anh vốn tưởng đấy là một con cá, anh ghé thuyền đến xem, mới biết đó là người đang gặp nạn, cứu người ấy rồi đưa về y viện ở Giai Lý.
Bác sĩ khám anh, ngoại trừ tròng mắt rất đỏ, đỏ như củ cà rốt thì không có gì khác thường, anh cũng không cảm thấy có gì khó chịu. Chúng ta thử nghĩ, mười mấy tiếng đồng hồ trôi nổi sóng lớn, mắt lại thấy từng người bạn chết đi, không lương thực, không nước uống, sóng biển lạnh lẽo, không ai cứu viện, trời lại tối, thế mà có thể sống quay về, thật kỳ lạ biết bao nhiêu. Các bác sĩ cũng cảm thấy không thể nghĩ bàn được. Người ta đến nơi tắm nước biển, ngâm trong nước nửa ngày thì da đã bị lột, thế mà anh thì không sao, anh tự cảm thấy đó là sự cảm ứng không thể nghĩ bàn do niệm Quán Thế Âm. Đặc biệt là khi được trở về nhà, anh kể chuyện lại cho A Thanh nghe, lại còn khích lệ A Thanh.
Mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn, tôi tự hỏi:
“Phải chăng bạn bị rơi xuống biển giữa mùa đông giá lạnh, bốn bề không có người, tình huống thê lương như thế?”
“Có bị trôi nổi giữa sóng lớn, hết thức ăn, bi thảm như thế chăng?”.
Đâu có! Vị bằng hữu kia vốn chưa hề niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, chỉ mới phát tâm niệm lần thứ nhất trong đời mà còn nổi được lâu như thế, lại không chút bị thương tổn, cũng không cảm thấy thống khổ, thậm chí cũng không cảm thấy lâu như thế. Trong tình huống bi thảm như thế, anh một lòng chân thành, Phật lực bồi đắp cho anh, khiến thân tâm anh được an nhiên, lại sắp đặt người đến cứu anh. Bạn lại không gặp hoàn cảnh bi thảm như thế, không lẽ Phật lực lớn lao thế kia, lại không thể phù hộ cho thân tâm bạn được an nhiên?
Tôi lại tự hỏi:
“Không lẽ bạn học Phật lâu như thế, mà sức tin lại không bằng anh ấy?”
“Không lẽ sự cảm ứng giữa bạn và Phật, Bồ Tát lại không được như anh ấy?”
“Ngàn sông có nước ngàn sông trăng! Không lẽ Bồ Tát không luôn ở bên bạn?”
“Không lẽ sức của Đức Phật không làm sung mãn được thân tâm bạn?”
Nghĩ như thế, tôi càng có tín tâm gấp bội, vui vẻ mà niệm Phật. Cái gọi là hoàn cảnh khó khăn, một khi bạn không sợ nó, không bận tâm tới nó thì nó cũng không tồn tại, nó tiêu mất đi. Sự khó khăn của chúng ta so với anh bạn kia, thật ra không nghiêm trọng như thế, có điều chúng ta không có nhất tâm thành khẩn niệm Phật, không giống như anh ấy khi anh ấy bị té rơi xuống biển khơi.
TÁN LOẠN BIẾN THÀNH CHUYÊN CHÚ. HÒN ĐÁ, CON CHÓ
Trước hết chúng ta hãy hỏi, nếu bây giờ có người đi qua trước mặt bạn, bạn có quay nhìn người ấy không? Vì sao con mắt bạn lại tự động nhìn theo anh ta? vì sao bạn không chuyên tâm làm công việc của mà bạn đang làm? Chúng ta thường viện cớ rằng: “Vì người ta xem chúng ta là thế đó, cho nên mới hại chúng ta như thế này, như thế ...” Nói như vậy thì người ta nhìn chúng ta với bộ mặt đáng ghét, người ta trách mắng chúng ta, người ta nói xấu chúng ta, hãm hại chúng ta thì mới làm tổn hại đến tâm tình chúng ta v. v ... Lão Hòa thượng Quảng Khâm của chúng ta có một chuyện tên là “Hòn đá con chó”. Vì sao gọi là “Hòn đá, con chó”? Là vì nếu người ta lấy hòn đá ném về phía con chó, con chó này liền tự dưng chạy theo hòn đá, chạy theo cả buổi, đó vốn là hòn đá không ăn được, không dùng được việc gì! Ngoài việc chạy đến thở hồng hộc, hòn đá vốn không có gì tốt, chỉ có uổng phí sức lực mà thôi. Vì sao con chó lại muốn chạy theo hòn đá vô dụng?
Cũng theo ý nghĩa như vậy, tại sao người ta lại chạy theo một bộ mặt đáng ghét mà người khác ném tới, một lời nói xấu mà người khác ném tới? Chạy theo các thứ ấy thì có ích gì đâu? Tâm niệm của người ta vì sao muốn chạy theo những sự việc không có ý nghĩa như thế?
Tôi xin kể một câu chuyện để mọi người tham khảo: có người gửi cho bạn tôi một đôi giày cao gót rất đắt giá. Chị ấy nhìn đôi giày không biết lúc nào mang loại giày này mới tốt. Một hôm, hội Từ tế Công đức mở cuộc họp, chị mang đôi giày mà đi họp. Sau khi đã đi, chị nghe Pháp sư Chứng Nghiêm giảng, lại thấy được tinh thần từ bi và đoàn kết của các vị Bồ Tát trong hội Từ tế Công đức, chị vô cùng cảm động.
Trên đường về, lòng chị cứ nghĩ đến Phật pháp mà Pháp sư đã giảng, chị rất vui mừng. Đến khi về tới nhà ở Cao hùng, leo lên cầu thang, mẹ chị mới hỏi: “Ô! Giày của con đâu?” chị mới sực nhớ đến đôi giày bèn trở xuống lầu để tìm, kết quả là không có giày! Chị gọi điện thoại hỏi các sư huynh, sư thư Phật tử, mọi người đều trả lời: “Mọi người chúng tôi đều thấy chị không mang giày, đều lấy làm lạ, nhưng không tiện hỏi. Lại thấy chị hình như đang suy nghĩ chuyện gì đó rất chuyên chú nên chúng tôi cũng không dám quấy chị.”
Người bạn ấy cười và nói với tôi: “Tôi đã làm một trò cười! Chị biết không? Phần trên của tôi thì mang khuyên tai, mặc áo dài, nhưng phần dưới lại đi chân trần. Từ Hoa Liên trở về Cao Hùng, tôi không hề nghĩ đến việc mang dày. Các chị ấy bảo, khá đông người nhìn tôi mà cười, nhưng tôi không hay biết gì”.
Đúng thế! Trước đây Lão Hòa thượng Quãng Khâm thường nói: “ Nếu bạn không nhìn người ta thì sao biết người ta đang nhìn bạn? Vì chính bạn đang nhìn người ta, chấp trước người ta, mới biết rằng người ta đang nhìn bạn”. Người bạn ấy của tôi đang lúc không để ý đến cảnh giới bên ngoài, không chấp trước ánh mắt của người khác, chị cứ chuyên tâm nghĩ đến Phật pháp, cảnh giới bên ngoài không có ảnh gì tới chị, ánh mắt và nụ cười nhạo đối với chị như không hề tồn tại!
“Nếu tâm người ở trong đạo, tự nhiên không có phiền não”. Chúng ta niệm Phật cũng như vậy. Nếu tâm của ta cứ theo ý, cứ chấp trước người, sự việc, cảnh giới bên ngoài thì mắt, tai của chúng ta cũng chạy theo các thứ ấy mà không thể đưa tâm vào Phật. Nhưng hãy phản tỉnh lại, những thứ mà chúng ta để ý tới, những sự việc mà chúng ta theo đuổi, phải chăng giống như hòn đá ném về phía con chó, chẳng bổ béo gì, mà chẳng chút gì liên hệ tới việc vãng sanh Tây Phương của chúng ta? thế thì có tốt gì đâu mà để ý tới? Có giá trị gì đâu mà phải hao tinh thần để đeo đuổi?
Không lẽ chúng ta can tâm làm một con chó chạy theo hòn đá? Lão Hòa thượng nói: “Không có chủ trương thì làm sao đến Tây Phương?” Cần phải có trí tuệ mới thấy rõ. “Không nên chạy theo hòn đá ném tới”, an trụ vào tâm mình, không nên mù quáng chạy loạn theo thì mới làm chủ được, thì mới tự tại mà niệm Phật; nếu không thì khi Đức Phật A Di Đà đã tới, mà bạn thì bận chạy theo hòn đá, chạy theo nhìn mà không thấy Phật!
NGUYỆN LỰC BIẾN THÀNH SỰ THẬT BÁO MỘNG CỦA NGƯỜI ĐƯỢC VÃNG SANH
Khi tôi còn làm bác sĩ tại khoa ung bướu, mỗi khi tôi phải khám chẩn bệnh suốt ngày, tôi thường dặn cô trực ban đừng chuyển điện thoại đường dây bên ngoài cho tôi, trừ phi người gọi là bệnh nhân rất khẩn cấp, còn bạn bè có gọi đến thì xin lỗi họ, và yêu cầu họ để số điện thoại lại, đến khi hết giờ làm việc tôi sẽ gọi họ lại. Sỡ dĩ như thế là vì trong thời gian làm việc, tôi phải săn sóc những bệnh nhân có bệnh rất nặng, lại ưu sầu, yếu đuối. Có lúc tôi đang vạch quần áo người bệnh để khám, nếu như có điện thoại người bệnh nhiễm lạnh mà bị hắt hơi. Tôi nghĩ đến người bệnh mang cái thân yếu đuối, run rẩy đáp xe đến y viện chờ khám, như thế đã quá mệt, lại không dễ gì đến phiên để được khám. Nếu như còn phải chờ bác sĩ nói điện thoại về những việc không quan trọng, như thế thật là tàn nhẫn đối với họ. Cho nên trong giờ làm việc, tôi thường ưu tiên xử lý những bệnh nhân đang rất đau khổ, còn việc tiếp điện thoại thì gác lại cho đến khi hết giờ làm việc mới xử lý.
Một hôm, lúc giờ làm việc, cô nhân viên trực bảo tôi: “Bác sĩ quách, có một cô ở ban kế hoạch gì đó tại Đài Trung đã gọi mấy cuộc điện thoại tìm bác sĩ, tôi đã yêu cầu cô ấy để lại số điện thoại”. sau khi nói cảm ơn tôi tiếp nhận số điện thoại, trong lòng nghĩ, tôi không có người bạn nào làm việc ở ban kế hoạch! Nhưng cô ấy đã gọi tìm tôi nhiều lần, nên tôi phải liên lạc với cô, không ngờ cô bảo với tôi rằng cô gọi giùm cho một người bạn là Cao Hùng, hỏi xem có đúng là tôi đang làm việc tại y viện này không. Người bạn tên Cao Hùng ấy là người nhà của người mà trước đây tôi đã lo việc cho. Cô yêu cầu tôi chờ tại y viện, anh bạn Cao Hùng gọi điện thoại tới, có việc quan trọng cần nói với tôi.
Sau khi tiếp xong điện thoại, tôi nghe được giọng nói của một người đàn ông trung niên.Ông ấy nói: “A Di Đà Phật, thưa bác sĩ Quách! Không biết cô có còn nhớ không, tôi là con của ông Giang ... mẹ tôi bị chứng niệu độc, mấy năm trước đã được gởi đến nhiều y viện, rồi mới được gởi đến điều trị tại viện Nguyễn Tông Hợp. Khi được chuyển đến bà đã tắt thở. Tối hôm ấy chính bác sĩ là người trực ban. Bác sĩ đã niệm Phật cho bà, lại còn lấy “quang minh sa” mà sư phụ của bác sĩ là Pháp sư Sám Vân gửi bác sĩ để rắc lên trán bà, bác sĩ còn nhớ không?”.
Nếu chỉ nghe giọng nói ấy thôi mà, thì quả thực tôi không nghĩ ra được ông ấy là ai. Nhưng sau khi nhắc đến đây tôi sực nhớ ra.Người ấy lại nói: “Sau khi chúng tôi về nhà, mọi người đều liên tục niệm Phật cho mẹ tôi. Sau đó mọi người trong gia đình đều mơ thấy Bồ Tát Quán Thế Âm đưa mẹ tôi trở về, bảo với chúng tôi rằng bà đã vãng sanh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, bảo chúng tôi cảm tạ Bác sĩ, đồng thời cũng cảm tạ sư phụ của bác sĩ là Pháp sư Sám Vân. Nhưng khi chúng tôi trở về y viện Nguyễn Tông Hợp thì không tìm được bác sĩ, người ta nói bác sĩ đi Népal. Mới đây, chúng tôi nghe nói bác sĩ ở Đài Trung nên liền nhờ người bạn ở Đài Trung hỏi xem. Vì mẹ tôi báo mộng, cho nên chúng tôi cần kể cho bác sĩ nghe chuyện này.”
Tôi nghe đến đây, khóe mắt bỗng ràn rụa nước mắt. Tôi còn nhớ tối hôm ấy, tôi đang trực tại phòng bệnh, thì từ phòng cấp cứu chuyển tới một bà cụ tim đập loạn, hơi thở đã ngưng, mặt mày đã thâm, đồng tử cũng đã mở lớn. Tôi xem sổ bệnh, biết bác sĩ ở phòng cấp cứu đã cứu bà một lúc rồi, nhưng hoàn toàn không có kết quả, cho nên bác sĩ đó tuyên bố bà cụ đã chết.
Nhưng thân quyến của bà cụ vẫn không muốn tiếp nhận cái sự thực là mẹ họ đã mất, cứ một mực yêu cầu được tiếp tục cấp cứu. Do các tư liệu trong sổ bệnh của bà cụ đã được ghi rõ ràng, chứng niệu độc của bà đã quá lâu ngày, nay đã trở thành rất nghiêm trọng, không như bệnh tật đột phát, do vậy toàn bộ thể trạng của bà đã quá tệ, hư hại hết. Tôi nhìn bà cụ đã chết và các hiếu tử khẩn thiết xin cứu mẹ mình mà nghĩ đến mọi chúng sinh cũng đang trong cuộc sinh ly tử biệt như thế, bị nung nấu không ngừng. Nghĩ thế lòng tôi không khỏi xốn xang, đau đớn.
Bấy giờ chỉ sợ người mất phải chịu cái khổ vô ích, tôi bèn lấy tâm mình mà nói với những người con hiếu thuận ấy rằng: “Tôi biết các vị đều là những người con có hiếu với mẹ, đều rất mong muốn mẹ được sống lại. Các vị đã chăm sóc bà cụ trong nhiều năm như thế, thật là khó được. Nhưng hôm nay, nếu bà cụ là mẹ tôi thì tôi cũng không thể yêu cầu cắt khí quản của bà để ráp ống khác vào, vì làm như thế thì không thể cứu được bà cụ mà chỉ khiến bà đau khổ thêm nhiều. Nếu bà là mẹ tôi, tôi cũng không muốn bi ai, khóc lóc khiến cho lòng bà càng thêm xót xa, tôi sẽ khuyên bà niệm A Di Đà Phật, theo Đức Phật A Di Đà đến thế giới Cực Lạc quang minh, mãi mãi không còn chịu đau khổ nữa. Tôi sẽ niệm
Phật cho bà. Tôi không biết trong gia đình các vị có ai tin Phật, có ai nghiên cứu Phật pháp không. Tôi là một Phật giáo đồ, Đức Phật muốn mọi người đều có thể rời khổ được vui. Tôi là bác sĩ, đương nhiên tôi cũng hết sức cứu bệnh nhân, tuyệt đối không cần phải dối trá các vị trong lúc này, xin các vị hãy tin tôi, mọi người hãy cùng lúc niệm Phật cho bà cụ. Đạo lý của Đức Phật A Di Đà rất thâm áo, bây giờ không có thời gian để nói rõ, xin các vị sau này hãy nghiên cứu kỹ. Nhưng giờ đây các vị nên dùng thời gian để niệm Phật, chứ nếu chờ đến khi các vị hiểu được đạo lý thì sẽ hối hận rằng hiện giờ vì sao không niệm Phật cho bà cụ”.
Hôm ấy gặp lúc sư phụ tôi là Pháp sư Sám Vân gửi đến y viện cho tôi một gói “quang minh sa” đã được gia trì. Sư phụ Sám Vân rất từ bi, tôi mới chỉ có cầu xin một lần mà ngài luôn nhớ và gửi đều đến y viện cho tôi mỗi lần một gói quang minh sa, giúp cho các bệnh nhân cần đến. Hôm ấy lại đúng là hôm đầu tiên tôi nhận quang minh sa do sư phụ gửi, cho nên tôi có ấn tượng rất sâu sắc. Sau khi giải thích cho những người thân của bà cụ, tôi rắc quang minh sa lên người bà cụ. Sau đó tôi không cần để ý tới người ta nhìn tôi như thế nào, tôi cứ nhắm mắt, chắp tay, đứng trong phòng bệnh mà niệm A Di Đà Phật cho bà cụ.
Niệm Phật một lát, khi mở mắt ra, tôi thấy những người thân của bà cụ đang ở đó đều chắp tay xung quanh bà mà niệm Phật. Thực khó được mọi người thành kính hợp tác như vậy. Điều này khiến tôi thấy làm lạ. Sau này, một người con trong những người con ấy có vẻ như muốn rơi nước mắt mà nói với tôi: “Trong nhà chúng tôi chỉ có mẹ tôi là tin Phật, còn bọn con cái là chúng tôi đây đều không tin. Bà đã từng dặn chúng tôi phải niệm Phật cho bà, thế mà chẳng ai trong chúng tôi nghe lời bà. Không ngờ tối nay, chúng tôi đã chở bà tới nhiều y viện, nhưng không chỗ nào chịu nhận, chúng tôi bèn chuyển bà tới y viện của bác sĩ. Bác sĩ ở phòng capá cứu bảo rằng không cấp cứu được, khuyên chúng tôi hãy trở về nhà, nhưng chúng tôi vẫn nài nỉ, cuối cùng đưa được bà cụ vào phòng này, được bác sĩ niệm Phật cho bà cụ, lại khuyên chúng tôi niệm Phật. Không ngờ mẹ tôi ăn chay niệm Phật hai mươi năm, cuối cùng bà được mãn nguyện!”
Lời kể của người con ấy đã tạo cho tôi một sự khích lệ và niềm tin rất lớn. Nguyện lực của con người thật không thể nghĩ bàn. Bà cụ tuy đã trãi qua một số khó khăn, cuối cùng vẫn được như nguyện. Có nguyện ắt được mãn nguyện. Có người tuy muốn được vãng sanh nhưng vẫn luôn luôn lo không biết mình có được vãng sanh không, không biết đến khi đó có người hộ niệm không. Như thế là tín nguyện không đủ. Tổ sư đã nói cho chúng ta biết điều kiện để đến Tây Phương, đó là tín tâm và nguyện lục. Đối với Đức Phật A Di Đà, đối với chính mình, chúng ta đều phải có tín tâm để làm cái nhân đúng đắn trong nội tâm chúng ta. Cái “nhân” mà chúng ta đã gieo mà đúng, thì cái quả được kết mới đúng. Nếu chúng ta chân thành mong muốn đến Tây Phương, thì Đức Phật A Di Đà đương nhiên phải biết, đến lúc ấy tự nhiên Ngài sẽ sắp đặt những người có nhân duyên tốt nhất với chúng ta đến giúp cho chúng ta vãng sanh không chướng ngại, không cần tự mình phải lo lắng! Bình thường chúng ta chỉ cần có tín nguyện mà niệm Phật, tận lực giúp đỡ người khác vãng sanh, thì theo đạo lý nhân quả, đến lúc đó tự nhiên sẽ có nhân duyên rất tốt, giúp chúng ta khởi lên chánh niệm mà đến thế giới Đức Phật A Di Đà một cách thuận lợi. Dù chúng ta còn có nghiệp chướng, phải thọ nhận quả báo khổ đau, nhưng dù sao đi nữa, chỉ cần kiên trì cho đến cuối cùng, nhất định cái nguyện của chúng ta sẽ được viên mãn!
CÁ TÍNH BIẾN THÀNH GIÁC TÍNH. CHỚ LÀM NÔ LỆ CHO THÓI QUEN
Bình thường vô tình chúng ta được vun đắp một số thói quen mà chúng ta không chú ý tới chúng có tương ứng với “ý nguyện” vãng sanh của chúng ta không. Nếu không tương ứng, có thể chúng sẽ tạo cho chúng ta những phiền não, tạo cho chúng ta những chướng ngại trong sự vãng sanh. Thói quen có thể ví như một con dao, nó vốn không có tốt xấu gì, thiện ác gì. Nếu bạn hiểu mà khéo dùng nó làm phương tiện cắt đồ vật, thì đó là khéo dùng. Nếu bạn không biết dùng, cắt vào tay mình, chảy máu bị thương, đau đớn, kêu la, thì đó là dùng sai. Cho nên con dao vốn không có tốt, xấu, chỉ cần chúng ta biết vận dụng như thế nào mà thôi. Thói quen cũng như vậy. Đối với những người niệm Phật chúng ta, nếu thói quen giúp cho chúng ta định tâm, vãng sanh không chướng ngại, thì đó là thói quen tốt, nên vun bồi, nếu thói quen làm trở ngại việc vãng sanh, thì phải bỏ đi.
Có người xem các thứ thói quen của mình là rất quan trọng, xem đó như vật quí mà trân trọng giữ gìn, và không chịu thay đổi. Ví như, đồ vật nào thì phải để chỗ nào, quay về hướng nào, bàn chải đánh răng phải sắp đặt theo góc độ nào, đồ ăn trong tủ lạnh phải để chỗ nào; ngủ thì phải ngủ giường nào, quay về hướng nào, nếu không thì ngủ không được; đọc sách thì phải ngồi tại ghế nào thì mới đọc được; niệm Phật thì phải theo hình thức nào, nếu không thì không quen; tô chén phải sắp đặt làm sao, đũa thì phải để như thế nào, xoong nồi thì phải lau chùi đến mức độ nào, áo quần phải giặt vào giờ nào, phơi giờ nào, lấy vô giờ nào ... Như thế, sự sinh hoạt có thói quen thành qui luật vốn là rất tốt. Nhưng nếu tập quán của người khác không giống như người ấy, thì người ấy sinh ra buồn khổ, lao đao, không ngừng cao giọng: “tôi có thói quen thế này, thế này! Tôi không có thói quen thế kia, thế kia!” Nếu người khác không làm theo thói quen của người ấy thì người ấy cảm thấy người khác là không đúng, cảm thấy người khác không biết làm việc, không có qui củ. Người ấy tuy miệng không nói mình rất biết làm việc, thật ra trong lòng cảm thấy những gì người khác làm không hợp ý mình, cho rằng người khác làm việc không tốt như chính mình làm. Như thế thì chính là bị thói quen trói buộc, biến thành kẻ nô lệ cho thói quen, cũng biến thành kẻ nô lệ ngạo mạn, có thể thói quen của người ấy chẳng mang lại cho anh ta lợi ích gì lớn, mà trái lại tạo cho anh ta nhiều cơ hội phát sinh phiền não, khiến cho cuộc sống của anh ta càng khó chịu, không tự tại.
Chúng ta thử nghĩ sâu xa hơn một chút: Nếu một ngày nào đó chúng ta chết đi thì các thứ như bàn chải đánh răng, tô chén, đồ ăn trong tủ lạnh, chúng ta đâu có thể mang theo, người khác cũng đâu cần, có thể chúng bị gom lại và vứt đi. Thực ra, đồ vật của người chết để lại, người khác cũng có ít nhiều húy kỵ. Nếu chúng ta không giống như các cao tăng, đại đức, suốt đời vì việc công, quên việc tư, vĩ đại, lại có nhiều học trò tốt tưởng nhớ đến như thế, thì sẽ không có người xây nhà kỷ niệm, giữ lại hoàn cảnh sinh hoạt khi chúng ta còn sống để mọi người tham quan, học tập. Thế thì chúng ta ôm chặt cái thói quen cá tính để rồi sinh phiền não, không chịu tùy thuận Phật pháp, đề cao giác tính, điều chỉnh thái độ tâm thức. Sự ôm chặt, cố chấp vào các chuyện nhỏ nhặt, rốt lại có giá trị gì đâu? Rốt lại có giá trị gì mà khiến chúng ta ngày nào cũng phải vun bồi chúng, làm cho chúng lớn mạnh, sinh phiền não vì chúng chứ? Vì sao chúng ta không kiên tâm vun bồi cái chính nguyện vãng sanh và cái trí tuệ bị vứt bỏ của chúng ta, mà lại cứ xông xáo vun bồi cái thói quen chấp trước của thế giới Ta Bà? Chúng ta nên biết phần lớn các sinh hoạt của chư vị tổ sư, đại đức đều rất qui luật, nhưng trong khi sống theo qui luật, chư vị ấy không bị thói quen trói buộc, không sinh phiền não. Ví như, khi người khác không theo thói quen của người ấy, thì người ấy rất tự tại, không khởi lên phiền não, không cảm thấy không quen mà mất tự tại. Cho nên chúng tôi bảo: “Không làm nô lệ cho thói quen” thì không hề khuyên mọi người hãy vứt bỏ bừa bãi các thứ đồ vật, hoặc sinh hoạt không cần có qui củ. Mọi người dứt khoát chớ nên hiểu lầm đều này. Chúng tôi khuyên mọi người trong khi theo qui luật, đừng để cái thói quen qui củ do chính mình đặt ra ràng buộc, chớ vì chúng ta có các “thói quen”, mà thường phải gặp các sự việc “không quen”, “không như ý”, cũng chớ vì chính mình đặt ra khá nhiều qui củ và thói quen mà thường phải nhìn thấy, khá nhiều nhân sự không thuận mắt, đâu đâu cũng không thuận lòng, lại sinh ra nhiều phiền não không đáng có. Như thế là dụng tâm sai lầm, giống như nắm nhầm lưỡi dao mà tay bị thương, nắm lấy thói quen để làm tổn thương chính mình, làm chướng ngại sự an vui, tự tại của chính mình vậy. Nhiều người tuy học Phật đã lâu mà thường vẫn tâng bốc cá tính của mình là thế này thế nọ, mình theo thói quen thế này thế nọ, không quen thế ấy thế kia. Cái gì gọi là cái tính chứ? Đó là tính cách đã quen (Tập khí) mà chúng ta đã vun bồi từ vô thủy đến nay, có những tính chất chấp trước. Chúng ta cần chú ý: Phật dạy chúng ta vứt bỏ tập khí của chúng ta chứ không dạy chúng ta vun bồi các thói quen chấp trước. Muốn phát triển Phật tính thì phải vứt bỏ sự chấp trước, phiền não của chúng ta, bấy giờ Phật tính mới phát triển được, đó cũng chính là tùy thời mà buông bỏ cá tính của chính mình, buông bỏ những tri kiến không hợp với Đức Phật. Thường làm phật ý người, sai phạm pháp ngôn Bồ Đề thì không thể khế nhọc cực trí, phát triển phật tính, vì bị cá tính, thói quen trói buộc giống như một khối băng mất đi sự tự tại nhu nhuyễn của nước chảy mây trôi, không những không thể linh động “theo vuông vào tròn” mà còn bị vỡ.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: muốn vãng sanh Tây Phương, phải “Phát tâm Bồ Đề, chuyên niệm A Di Đà Phật”. Giảng về tâm Bồ Đề thì rất trừu tượng. Phật giáo đồ hiện nay thường nói về tâm Bồ Đề, nhưng rốt lại tâm Bồ Đề là gì, rốt lại tự mình đã phát tâm Bồ Đề chưa, tự mình cũng không biết. Chúng ta muốn biết rõ mình đã phát tâm Bồ Đề chưa thì hãy chiếu theo nguyên tắc Tổ sư đã dạy chúng ta để kiểm tra theo tâm niệm và hành vi của chúng ta thuận hợp với tâm Bồ Đề hay sai trái với tâm Bồ Đề. Nói một cách đơn giản, phục vụ cho người là thuận hợp với tâm Bồ Đề. Trái lại, nếu cứ để ý tới mình, tâng bốc cá tính, thói quen, sự lợi hại của mình, muốn người khác phải tôn trọng ta, theo ý tứ của ta, hy vọng người khác phục vụ ta, tôn trọng ý kiến của ta hơn là tôn trọng ý kiến của mọi người, thậm chí muốn rằng mọi người hy sinh vì ta, cúng dường ta, đấy là sai trái với Bồ Đề, tự nhiên chúng ta sẽ vứt bỏ cái phiền não và “ngã chấp”, tự nhiên chúng ta tương đương với điều kiện vãng sanh Tây Phương. Nếu sai trái với pháp môn Bồ Đề thì đó là tăng trưởng cái phiền não của “ngã chấp”. Vun bồi sự chấp trước tự tư của chúng ta, tức là tương ứng với vãng sanh Tây Phương, ắt phải “có tên trên bảng” luân hồi sáu nẻo.
Người vẫn thường biết tôn trọng người khác, có lòng cung kính, từ bi đối với người khác thì thường tương ứng với Đức Phật. Vì sao? Vì chân thành cung kính đối với người, ắt phải buông bỏ cái “phiền não của kiêu mạn” của chính mình thì mới có thể được như thế, phải buông bỏ “ngã chấp” thì mới được như thế. Cho nên, khi tôn trọng người khác, tức là buông bỏ chính mình, coi nhẹ sự chấp trước vào chính mình, cũng chính làm nhẹ căn bệnh “ngã chấp”. Người xem trọng ý kiến, cá tính của mình chú trong thói quen của mình, tức là xem trọng mình, tâng bốc tâm tư cũng là xem trọng cái phiền não “ngã chấp”. Đó là bệnh nặng hơn, nghiệp chướng nặng, tính nguy hiểm của luân hồi lớn, đây hoàn toàn không phải là hiện tượng tốt. Một khi chú trọng về mình thì tự nhiên sẽ khinh mạn người khác, xem thường người khác thì đương nhiên không có cách nào cứu độ mọi người cho tốt. Đó là sai trái với tâm Bồ Đề, với lời nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.
Chúng ta đã nói: những sinh hoạt hàng ngày là khảo hạch chúng ta về những đề ứng dụng của tín nguyện vãng sanh Tây Phương. Những lối suy nghĩ, hành vi, thói quen của chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày, rốt lại thuận hợp với tâm Bồ Đề hay sai trái với tâm Bồ Đề, chúng ta phải thường tự quán chiếu phản tỉnh. Nếu lối suy nghĩ và cách thực hành sai trái với tâm Bồ Đề là tuyệt đối không tương ứng với tâm đức Phật, thì không nên kiên trì vun bồi. Chúng ta phải tùy thời mà chú ý tu sửa, điều chỉnh thì mới có thể không sai phạm với ý nguyện “vãng sanh Tây Phương” của chúng ta, thì mới không uổng phí một đời mà phải chịu “uổng tử ở Ta Bà”!
Nếu là thói quen tốt giúp đỡ cho chúng ta vãng sanh Tây Phương thì mới nên kiên trì dụng công bồi đắp.
THÓI QUEN TỐT GIÚP CHÚNG TA LÚC LÂM CHUNG VÃNG SANH THUẬN LỢI.
Dưới đây là một câu chuyện thật, giúp mọi người ảnh hưởng của thói quen đối việc vãng sanh. Tôi từng gặp một bệnh nhân là một phụ nữ trên năm mươi tuổi, cái khối u của bà đã xâm phạm tới não, cho nên một tay và một chân của bà cử động rất khó khăn. Bà thường không nói ra được ý tứ mà bà muốn nói, lòng muốn nói “một đường” mà miệng không chịu nghe theo, lại nói “một nẻo”, rất khổ sở. Một hôm khi tôi đến thăm, vừa bước vô phòng, tôi liền chắp tay hướng về bà mà nói “A Di Đà Phật”, bà liền dùng “cánh tay cử động được” để chắp tay lại. Miệng bà cũng hình như muốn nói “A Di Đà Phật”, nhưng không nói ra được, lại nói một tràng tiếng Nhật “dorazo” “tomatochite atsugu “. bà cũng biết rằng bà nói không đúng nên muốn bật khóc, rất thương tâm rất ảo não. Tôi liền hiểu bà muốn niệm “A Di Đà Phật” cho đúng cũng không phải là đơn giản. Bấy giờ tôi an ủi bà: “Tâm bà muốn niệm A Di Đà Phật thì nhất định Đức Phật A Di Đà phải biết. Niệm Phật thì quan trọng nhất là tâm niệm. Tâm của bà chân chính nghĩ đến Phật là tốt rồi!” bà nghe xong liền rơi nước mắt, tuy tôi an ủi bà như thế, nhưng ở vào trường hợp của bà mà hiểu thì cái tâm tình niệm Phật mà niệm không được, nhất định là rất khổ. Tôi cũng cảm thấy đau lòng. Bấy giờ bỗng có tiếng trên máy khuếch âm gọi tôi về phòng trực, có người muón gặp. Tôi chạy xuống xem, thì ra có ba vị sư phụ muốn tìm tôi. Trông thấy các vị, tôi vui mừng kính lễ, có điều bây giờ nghĩ lại tôi rất hổ thẹn, vì bấy giờ tôi hoàn toàn không hỏi xem các vị có điều gì mà đến tìm tôi, chỉ vội vàng mời các vị đến thăm người bệnh ấy, đến giúp bà niệm Phật. Ba vị sư phụ rất từ bi liền theo tôi đến phòng bệnh thăm bà. Khi chư vị vừa bước vào phòng bệnh, người bệnh vừa nhìn thấy, bỗng nhiên chắp tay niệm “A Di Đà Phật”, niệm rất rõ ràng! Thì ra người bệnh này trước đây rất thích đến chùa. Bà thấy các sư phụ đều có thói quen niệm “A Di Đà Phật”. Kết quả là khi lâm chung bà muốn niệm Phật mà niệm không đúng, niệm không ra lời, nhưng khi mới thấy các sư phụ, thói quen tốt liền thể hiện, bà có thể niệm “A Di Đà Phật” một cách chính xác. Nói ra cũng lạ kỳ, từ khi bà đúng một câu thì bà có thể tiếp tục niệm đúng. Tôi thấy thế liền rất vui mừng. Chính bà cũng rất vui mừng, vui mừng đến chảy cả nước mắt, cứ liên tục cảm tạ Đức Phật A Di Đà. Sau khi ba vị sư phụ viếng thăm, an ủi, khích lệ bà một hồi, chư vị bảo muốn trở về. Vì hôm ấy có rất nhiều bệnh nhân gọi tôi, cho đến hôm nay tôi cũng không biết ba vị sư phụ ấy đến y viện tìm tôi để làm gì? Có thể Đức Phật biết được tâm thức và thói quen của người bệnh ấy mà đặc biệt hóa ra ba vị sư phụ đến giúp bà ấy chăng? Thói quen mỗi lúc gặp các vị sư phụ, gặp người ta thì chắp tay niệm Phật như thế là những thói quen rất tốt, là những thói quen rất tốt giúp chúng ta nâng cao chính âm, giúp chúng ta vãng sanh. Chúng ta hằng ngày phải vun bồi chớ để nó bị gián đoạn.
Kẻ phàm phu chúng ta thường quên sự dạy dỗ của Đức Phật, mà lại rất trân quí kiến giải của mình, thói quen lối suy nghĩ, cá tính, tính tình của mình, đồng thời rất coi trọng sự phê bình của người thân, bạn bè khi ăn no rỗi việc. Chúng ta xem các thứ vô ích là những vật quí mà không chịu buông bỏ, nếu phải buông bỏ thì ra vẻ như không buông bỏ được. Nếu một mai chính mình nghĩ đi, nghĩ lại mà muốn sửa đổi, bỏ đi thì lại nghĩ: đâu phải chỉ một lúc mà bỏ hết được, phải bỏ “dần dần”, bỏ “chầm chậm”. Chư tổ sư đã nói với chúng ta rằng việc này “không có kỳ hạn”! thực ra những kiến giải, cá tính, tính tình ấy của chúng ta bất quá cũng chỉ giống như việc đại, tiểu tiện trong bụng của chúng ta, chẳng có gì ích lợi, chẳng có gì giá trị, nếu không tống đi, lại để lâu chỉ càng thêm khổ, thêm bệnh mà thôi. Các vị nghĩ xem, đi tiêu đi tiểu chẳng lẽ không phải là thực hiện cùng lúc, chẳng lẽ cần phải thực hiện dần dần, chậm chậm, một lần thực hiện một chút, để lâu mới thực hiện xong hay sao? Chúng ta muốn thay đổi thói quen, thay đổi tập khí, không lẽ lại chia ra từng ngăn mà sửa đổi dần dần, mỗi lần bỏ đi một chút, giữ lại một chút, cứ chầm chậm mà bỏ đi, dần dần mà bỏ đi hay sao? Nếu chúng ta nghe lời Phật dạy mà bỏ đi những những thứ không tốt trong bụng chúng ta, thì chúng ta có thể đạt được thanh tịnh, nhẹ nhàng, an vui. Nếu chúng ta kiên trì cho rằng “những thứ đại tiểu tiện là của mình, là mình sở hữu, là mình tạo ra” thì chúng ta lại muốn giữ lấy không bỏ đi được theo lời Phật dạy thì thực ra, không muốn bỏ đi cũng không thể giữ lâu được. Cứ giữ chúng cho đến ngày chết thì không những sẽ phải buông bỏ các thứ đại tiểu tiện vô dụng ấy, mà còn phải buông bỏ cả thân thể quí báu của chúng ta nữa. Cho nên, hiện tại buông bỏ thì hiện tại được nhẹ nhàng. Nếu quí vị định vài năm sau mới buông bỏ thì đấy là chuyện của quí vị. Quí vị mang chúng lâu năm thì không có cách gì hưởng thụ được sự nhẹ nhàng trong tâm. Nếu quí vị muốn chờ cho đến hết đời mới buông bỏ dần, thì đó là chuyện của quí vị, quí vị phải lao khổ đến mấy đời.
Giả như có người từng đối đãi không phải với chúng ta, có thể chúng ta nhìn người ấy bằng cặp mắt không thuận, hễ nghĩ tới người ấy là bực mình, thậm chí trông thấy người ấy thì nổi nóng, rất muốn mở miệng chửi mắng; như thế là gạt Đức Phật A Di Đà ra một bên, mà bắt đầu cúng dường “thần nóng giận”, thế giới Tây Phương Cực Lạc gì cũng quên sạch! Vì sao tâm của chính chúng ta, chúng ta không quản được, mà lại thả nó vào sự nóng giận? Lại khiến nó thành thói quen, không lẽ chúng ta làm nô lệ cho sự nóng giận, chứ không phải làm chủ nó? Nếu chúng ta thường nuôi dưỡng cái thói quen như thế, thì đến lúc lâm chung thật là nguy hiểm. Vì sao? Vì sau khi thói quen được nuôi dưỡng hình thành, nó có sức mạnh rất lớn dẫn dắt chúng ta. Thử nghĩ, chúng ta dùng một tay nào đó để bưng chén, một tay nào đó để cầm đũa, một tay nào đó để viết chữ, thậm chí buổi tối ngủ trên một giường nào đó, đầu quay về một phía nào đó, tất cả đều là “thói quen”. Mỗi ngày chúng ta đều bị thói quen chi phối, gặp phải tình huống, tự nhiên chúng ta cứ theo thói quen mà làm. Chúng ta không hề nghĩ rằng, thói quen và tập khí tự động lộ ra mà khống chế chúng ta trước. Đối xử với người khác, chúng ta vẫn thường bị thói quen, tập khí chi phối. Có nhiều người khi chúng ta gặp mặt thì chúng ta rất lễ phép, ôn hòa; điều này cũng sẽ biến thành thói quen. Có nhiều người, mới thấy mặt chúng ta đã hiềm này, hiềm nọ, ghét đó, ghét kia, hình như cái gì của họ cũng không hợp với ý mình; thái độ này cũng sẽ biến thành thói quen. Có khá nhiều bậc cha mẹ cũng có thói quen như thế, đối với con cái, mới thấy con đã ghét từ đầu đến đuôi. Có khá nhiều vợ chồng, bạn bè cũng đều có thói quen như thế. Loại thói quen này đương nhiên đối với đối phương không vui, nhưng người phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất lại là chính mình. Không những mình tạo chướng ngại cho đời mà còn tạo chướng ngại cho sự vãng sanh.
Tôi từng gặp một bệnh nhân, bà đã dạy cho tôi một bài học, không những là bài về giới luật, mà còn là bài dạy về “thói quen ảnh hưởng đến sự vãng sanh của chúng ta”. Đó là một phụ nữ chừng năm, sáu mươi tuổi, thường hay chú trọng đến việc trang điểm, y phục; thậm chí ngay cả việc đi trị liệu bằng phóng xạ, từ lầu ba của y viện xuống tầng trệt, bà cũng nhất định phải trang điểm, tô son, cầm kính soi, đến khi vừa ý mới xuống lầu, khối u của bà đã lan tới xương. Một tay đã bị gãy xương thế mà bà vẫn dùng tay kia để đánh phấn, cầm gương soi. Dung mạo đoan trang, y phục chỉnh tề, sạch sẽ của bà, khiến người ta nhìn thấy đều có cảm giác thích thú. Nhưng cái thói quen chấp trước mạnh mẽ ấy có ảnh hưởng gì trong lúc lâm chung?
Bấy giờ tôi khuyên bà niệm Phật, bà rất cung kính, vui vẻ niệm Phật, lại biết rằng bệnh của bà rất nặng, lúc nào cũng có thể nguy hiểm đến tánh mạng, nên bà phát nguyện vãng sanh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, nhờ tôi trợ niệm cho bà. Vì y viện của chúng tôi không có chỗ để trợ niệm, nên phải chuyển bà đến “Y viện Bồ Đề” của Phật giáo để khi bà lâm chung thì tiện cho việc trợ niệm. Sau khi hết giờ làm việc, tôi đến y viện Bồ Đề phụ bà niệm Phật. Một hôm bà nửa tỉnh, nửa mê, tôi đứng bên cạnh để niệm Phật, bà chợt tỉnh lại, cất tiếng niệm. Bỗng nhiên bà nói: “Phải đến Tây Phương, mau mau mà đến, không đến không được”. Sau đó bà niệm A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! Bỗng nhiên bà lại niệm thành “A Di Đà Phấn!”. Động tác trang điểm đánh phấn thường ngày của bà lại biểu hiện ra. Tôi nhắc nhở bà: “chúng ta muốn tới Tây Phương cần gì phải đánh phấn, đến Tây Phương mọi người đều giống như Đức Phật, sắc vàng trang nghiêm, phóng hào quang, so với đánh phấn còn đẹp hơn nhiều. Hãy mau niệm A Di Đà Phật!”. Bà nghe xong liền niệm A Di Đà Phật, nhưng được một lúc lại niệm thành “A Di Đà Hoa”. Bà còn nói: “Hoa là hoa trong từ cài hoa!”, đồng thời bà còn làm động tác đưa tay “cài hoa lên tóc”. Tôi lại nhắc nhở bà, bà lại niệm Phật. Nhưng bỗng nhiên bà nói: “Ồ! Tôi không mang giày”. Tôi nói với bà: “Tây Phương lấy vàng ròng làm đất, rất sạch sẽ không cần phải mang giày”. Bà lại niệm Phật.
Những thể hiện của người bệnh này khiên tôi hiểu rằng, trong “Bát quan trai giới” Đức Phật có dạy một điều, “không dùng hương hoa cài tóc, không trang nghiêm thân mình”, ý nói không dùng nước hoa hoặc các thứ mĩ phẩm và các thứ châu báu v. v để trang sức thân thể. Phật dạy chúng ta hãy tập không theo đuổi trang sức hư giả bề ngoài, mà phải lấy cái đức tốt trong nội tâm để trang nghiêm. Sư chấp trước “tự ngã” của chúng ta đã quá nặng nề, chúng ta tu hành để giảm nhẹ, vứt bỏ nó đi mà chưa được, thì nay chớ làm cho nó mạnh thêm!
Nếu một người có thói quen trang sức, cả một đời nuôi dưỡng thói quen ấy, khi lâm chung nó sẽ xuất hiện ra, niệm Phật cũng niệm sai, vì thói quen sinh ra sức mạnh! Các vị xem bình thường chúng ta mặc áo mang giày như thế nào, đánh răng như thế nào, đấy là sức mạnh của thói quen, không cần phải nghĩ, nó tự nhiên hiện ra. Cho nên giới luật do Đức Phật chế ra, chính là để giúp chúng ta lúc bình thường vứt bỏ thói quen không cần thiết, vứt bỏ sự cầu tìm sai lầm, để đến lúc lâm chung khỏi sinh chướng ngại. Chứ nếu cứ như thế thì cái tâm một mặt nghĩ đến Phật, lại một mặt nghĩ đến đánh phấn cài hoa. Nói một cách nghiêm túc, vấn đề không chỉ là niệm sai “Phật hiệu”, mà là cái “nguyện” của nội tâm có vấn đề, “nguyện” không đủ chân thiết. Rốt lại, bạn có mong muốn sinh Cực Lạc không? Hay là muốn luân hồi để trang sức đánh phấn?
Người chân chính ước nguyện vãng sanh tự nhiện sẽ vứt bỏ cái thói quen không dính dáng gì ấy, tự nhiên không thích cầu tìm nó. Người nguyện sinh Cực Lạc chỉ muốn dùng thứ trang sức “hiệu A Di Đà Phật” để làm đẹp nội tâm, khiến tâm hoan hỉ, chân thành, không bị “mê lầm mà đánh mất Đức Phật”, để có thể khai phát Phật tính. Đây mới là “Max Factor”.
Dưới đây là một câu chuyện thật, xin kể ra để mọi người khích lệ nhau. Nếu nội tâm chúng ta có điều nóng giận, oán hờn thì hãy mau mau buông bỏ, vì không bỏ ngay bây giờ, thì đến khi lâm chung không buông bỏ cũng không được, tại sao lại phải chờ đến lúc ấy chứ? Chúng ta phải sớm bỏ cái thói quen mới thấy người, việc không thuận mắt là muốn trách mắng. Nếu không thì đến khi lâm chung ta sẽ bị thói quen ấy dẫn dắt, mất cơ hội vãng sanh Tây Phương.
Khi tôi còn làm việc tại khoa ung bướu, tôi từng gặp một bệnh nhân ung thư phổi. Đó là một phụ nữ chừng sáu mươi mấy tuổi. Khi bệnh trạng của bà đã trở nên nghiêm trọng, suốt cả thời gian hai tháng, bà hoàn toàn không thể nằm xuống mà ngủ, hễ nằm xuống là thở không được. Tôi thấy bà rất thống khổ nên khuyên bà niệm A Di Đà Phật. Đang lúc thống khổ như vậy bà cũng cũng phát tâm niệm Phật, hy vọng đến ngày giải thoát được đến thế giới Đức Phật A Di Đà. Vào cuối năm ấy bệnh tình của bà trở nên quá trầm trọng, bà yêu cầu tôi mời một số phật tử đến trợ niệm, giúp bà đến Tây Phương. Hôm ấy thấy bệnh bà đã nguy hiểm rồi, tôi liền mời các Phật tử đến niệm Phật cho bà. Không ngờ mọi người tập hợp để niệm Phật, niệm được nửa giờ thì bỗng nhiên có một người trẻ tuổi say rượu xông vào phòng bà. Tôi đang quay lưng về phía cửa, không chú ý diễn biến ở phía sau, cũng không trông thấy người ấy bước vào, chỉ thấy người bệnh ở trước mặt. Bà đang niệm Phật, bỗng nhiên có vẻ như rất nổi giận, mắt mở trừng trừng lại giơ tay chỉ phía đối diện. Hình như bà muốn mở miệng để trách mắng. Trong lúc bà muốn trách mắng mà không trách mắng được thì bà tắt thở! Thì ra, người trẻ tuổi xông vào đấy là con của bà. Người con này đã sớm rời gia đình để sống lang bạt. Bà rất giận người con này, nghĩ rằng phải chi bà đừng sinh ra nó, cho nên lâu nay bà không hề nói với tôi về nó, tôi cũng không biết để liệu mà đề phòng trước, cũng không khuyên bà sớm buông bỏ ý tưởng kia. Tâm thái của bà đối với con là “ghét mà không bỏ” (ghét mà cứ nghĩ đến), hễ nghĩ đến là giận, đâu ngờ trong sát na cuối cùng đứa con lại xuất hiện, vừa trông thấy nó bà đã vứt bỏ Đức Phật! Sự giận dỗi trước kia và thói quen “hễ thấy nó thì liền mắng” thể hiện cùng lúc, bà không tự chủ được liền giơ tay chỉ nó định trách mắng nó. Bấy giờ tuy có nhiều phật tử đang đứng bên cạnh để nhìn bà, bà vẫn cứ như thế, cứ nổi giận, không ngăn được! Tuy chung quanh tràn đầy tiếng niệm Phật, mà bà bỗng chốc hình như không nghe thấy gì cả, chỉ còn lại sự nổi giận mà thôi. Thật đáng tiếc là lúc ấy bà đã tắt thở! Một sẩy chân, hận ngàn đời, vạn kiếp khó gặp. Phật pháp cứu độ cũng là do sai lầm này vậy! Sự hiện thị của vị Bồ Tát bệnh hoạn này là sự cảnh báo rất lớn cho chúng ta để chúng ta hiểu rõ được sức khiên dẫn của “thói quen”.Chúng ta có thể phản tỉnh: phải chăng bình thường bên cạnh chúng ta tuy có tiếng niệm Phật, chúng ta vẫn cứ nóng giận? Thậm chí còn “chuyên tâm” nghĩ tới chuyện phiền não mà không nghe Phật hiệu (không dụng tâm nghe thanh âm của Phật), đó chính là sức phiền não của chúng ta mạnh hơn nguyện lực niệm Phật, cho nên chúng ta thất bại. Chúng ta thử nghĩ xem, ai bảo bạn thích phiền não hơn thích niệm Phật chứ? Ai bảo bạn muốn nóng giận hơn muốn vãng sanh chứ? Nếu chúng ta đành chịu ở lại thế giới này mà tiếp tục lí luận, so đo với người ta mà không chịu đến Tây Phương để sống những ngày an lạc, thì Đức Phật A Di Đà chỉ còn cách thuận theo ý chúng ta thôi! Tại sao Đức Phật và Thánh chúng ở trước mắt mà chúng ta không nhìn, lại cứ trố mắt vào cừu nhân mà nhìn? Tại sao Phật thanh không nghe mà lại nghe tạp âm? Chúng ta cam chịu đọa lạc, tương ứng với uế độ, cừu hận mà không tương ứng với tịnh độ, Phật thanh? Thì như thế Đức Phật chỉ còn cách là đợi chờ bạn hàng chục kiếp sau.
Thật ra, lúc lâm chung, kẻ oán cừu nào ở trước mắt cũng không quan trọng lắm. Điều quan trọng là chúng ta gặp họ thì chính chúng ta thể hiện tâm niệm nào. Phải chăng có thể chính mình làm chủ? Chúng ta nên nghĩ trước cho rõ: vãng sanh hay không vãng sanh rốt cuộc là do chính chúng ta quyết định hay để cho họ quyết định? Kẻ oán cừu ở trước mắt, chúng ta vẫn cứ từ bi niệm Phật, đừng để họ lôi kéo mà nóng giận. Nếu tự mình kiên trì niệm Phật thì oan gia, cừu nhân trước mắt cũng không có ảnh hưởng gì. Chúng ta quản lý mình tốt, không để thói quen xấu và niệm ác xuất hiện là tốt vậy, đây chính là chỗ ngày thường chúng ta cần dụng tâm rèn luyện làm người chủ của chính mình rèn luyện muốn vãng sanh, an vui thành Phật do chính mình quyết định! Một ngày niệm Phật ít nhiều tiếng chẳng có gì là khó, hơn nửa số lượng tiếng niệm Phật thật ra cũng không hề là điều kiện để được vãng sanh. Chúng ta nên rèn luyện mình ngay từ lúc bắt đầu nóng giận, có thể lắng đi để niệm Phật mười tiếng, thế mới quan trọng hơn nhiều, thế mới là chân chính mong nguyện đến Tây Phương. Nếu không như vậy thì chỉ còn cách ở lại thế giới này mà tiếp tục nóng giận! Chỉ còn cách là tiếp tục làm nô lệ cho thói quen nóng giận!
Tại sao chúng ta thấy một người không thuận mắt, rất đáng ghét lại rất thích gặp người ấy, gặp thì chính mình rất bực bội, lại không vãng sanh được? Tại sao chúng ta không dùng đôi mắt này để nhìn Đức Phật, nhìn thì được thanh tịnh, hoan hỉ, tự tại vãng sanh? Chúng ta cần phải hiểu rõ rằng nhìn thấy người ta mà cảm thấy rất đáng ghét, điều ấy hoàn toàn không phải là ý nghĩa của “chán ghét cõi Ta Bà”! Chúng ta hãy xem kỹ lời dạy của Tổ sư: “Chán ghét cõi Ta Bà” là chán ghét cái ý nghĩ không tốt, không thanh tịnh trong nội tâm mình, chứ không phải là hoàn toàn ghét bỏ người khác, nhìn người khác mà không thuận mắt. Cái tâm niệm như thế là do tâm chúng ta hẹp hòi, không đủ từ bi, mới nhìn người ta không thuận mắt. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có lời dạy rất quan trọng, mọi người chúng ta đều tưởng rằng ghét bỏ và tham luyến là trái ngược nhau. Thực ra ghét bỏ cũng là tham luyến, là một thứ tham luyến biểu hiện từ mặt kia. Vì rằng có một thứ tham luyến nào đó trước, nhưng vì tình hình không như ý nên sinh ra cái tình cảm của mặt bên kia, mà gọi đó là ghét bỏ. Ví dụ vị Bồ Tát(5) bệnh hoạn mà trước đây đã nói, bà vốn nhất định hy vọng đứa con của mình được tốt. Đối với con, bà có lòng tham luyến, có sự mong cầu; cho nên khi con bà không được như ý bà, bà mới sinh lòng ghét bỏ, nóng giận. Nếu đó là con của người khác thì bà không mong cầu, không tham luyến, thì dù đứa con kia có không tốt, bà
cũng không phí công mà ghét bỏ, và cũng không nóng giận mà ảnh hưởng lúc vãng sanh. Nếu chúng ta không động tâm, không tham luyến đối với các sự việc, thì chúng ta hãy xem chúng là rất bình thường, và không có gì là không như ý. Nếu chúng ta từng động tâm, tham luyến đối với chúng, thì chúng ta mới có cái tâm không như ý, ghét bỏ. Nếu chúng ta nguyện vãng sanh Tây Phương thì phải vứt bỏ những tham luyến, ghét bỏ trong nội tâm mình, vứt bỏ các ý niệm không thanh tịnh “yêu đó, ghét đó”, “từ yêu đến hận” hoặc “vừa yêu vừa giận” v.v như thế mới là cái nguyện chân chính, chán ghét cõi Ta Bà, mong cầu Cực Lạc.
Vốn định mở miệng mắng
Biến thành tiếng niệm Phật
Vốn định ném hòn đá
Biến thành gửi hoa sen
Biến tâm phàm của ta thành tâm Phật Một niệm tương ứng phóng quang động địa.
OAN ỨC BIẾN THÀNH TỰ TẠI HOÀN CẢNH GIỐNG NHAU, TÂM TRẠNG KHÁC NHAU.
Lần nọ, đúng vào kỳ nghỉ, ba vị phật tử bàn với nhau muốn cùng nhau đến nông trường Thanh Cảnh để nghỉ. Từ rất sớm, mọi người không cần chuông báo đã thức dậy chuẩn bị các thứ, mang đồ ăn thức uống rồi vui vẻ lên đường. Dọc đường vừa ăn sáng vừa nghĩ đến phong cảnh đẹp đẽ ở nông trường, mọi người đều thích thú! Họ mở máy thu thanh nghe tiết mục giảng Phật pháp, ai cũng cảm thấy mình là người tu hành tinh tấn và tràn đầy niềm vui trong Phật pháp.
Bỗng nhiên một chiếc xe hơi từ một bên phóng tới, người tài xế thò đầu ra mắng: “Đồ ranh con, mới học lái xe à?. Lái như vậy mà dám lái ra đường à?” sau đó anh ta còn nhổ một bãi nước trầu, rồi tống ra một làn khói đen mà đi. Người phật tử lái xe bỗng bị người ta mắng như thế thì không khỏi buồn bực, nghĩ: “Ta lái xe đã hai mươi năm nay tại sao lại bảo ta mới học lái xe? Ta lái xe đúng, anh ta xông bậy, thế mà còn mắng người ta, thật là chẳng đạo lý gì!” nghĩ như thế nên rất buồn bực. Lòng vốn rất vui vẻ, thế mà bây giờ hình như bị tát một gáo nước lạnh, nghĩ đến sự quát tháo của người kia, vị phật tử ấy không còn bụng dạ nào để nghe hiểu tiếng nói phát ra từ đài.
Vị phật tử khác thì nói: “Anh chàng này chắc tối hôm qua không ngủ được, sáng sớm bị chủ mắng, lòng bực bội, chúng ta hãy niệm Phật chúc phước cho anh ta, để anh ta khỏi bị nguy hiểm trên đường! A Di Đà Phật”.
Còn vị phật tử kia đang ăn bánh, thấy vậy cũng nói: “anh chàng ấy vi phạm luật lệ giao thông, chẳng kể gì cảnh sát, thật hết ý kiến, thấy mà muốn nổi nóng. Thật là thế giới xấu ác ngũ trọc này có nhiều người xấu ác quá!”. Mỗi người một câu, cứ thế mà tiếp tục phê bình. Tấm lòng tràn đầy niềm vui Phật pháp vốn đã có biến đổi đi rồi. Sự phát tâm tinh tấn, nghe Phật pháp cũng dần dần mất đi trong lòng đang tràn đầy phấn khởi, bổng chốc sinh ra không vừa ý, ngay cả phong cảnh đẹp đẽ của nông trường thanh Cảnh cũng hầu như không còn hấp dẫn nữa.
Bỗng nhiên họ lại thấy bên đường có bảng hiệu bán mật ong. Vì trong họ có ngươiø thích mật ong, chị ấy đề nghị: “chúng ta đến mua đi”. Mọi người nghĩ rằng khó từ chối được, cho nên ai cũng mua mấy bình, mua xong đem bỏ lên xe. Sau đó câu chuyện lại chuyển sang loại mật ong tốt, mật ong nguyên chất (thế là đem Phật bỏ ra đằng sau não rồi!).
Đang say sưa nói chuyện, bỗng dưng họ phát hiện hình như mình đi lầm đường, định xuống xe hỏi người ta. Họ vừa mới định dừng xe thì phía sau có một xe tông tới, nhưng may là đụng chưa tới nỗi nào. Nhưng hai chiếc xe đụng nhau thì khó tránh khỏi trầy xước, nước sơn bên ngoài xe có mấy chỗ bị hư hại, người kia rất bực mình bước xuống xe. Chiếc xe mới mua của anh ta trầy xước, anh không chịu được nên đùng đùng nổi giận: “Cô phải bồi thường cho tôi, nếu không thì tôi không bỏ qua cho cô đâu”. Vị phật tử lái xe cảm thấy rất ấm ức. Mới sáng sớm đã bị người lái xe kia mắng một trận vô lý, bây giờ anh này tông vào ta, lại bảo ta bồi thường. A! cái thế giới nào đây chứ? Chị định mắng lại anh ta, nhưng lại nghĩ: “chúng ta là phật giáo đồ, không nên mắng người”. Chị cố nén giận, vì cố nén nên trong lòng như đang có một “khối đá” nước mắt sắp trào ra. Sự mong mỏi được vui vẻ từ trước, bây giờ đã bị phá vỡ.
Một vị Phật tử khác thì nói với anh kia: “xét theo lý thì anh không đúng rồi, anh dã không xin lỗi lại còn bảo người bồi thường. Này, này, này, chúng tôi mời cảnh sát giao thông đến phân xử. Trong đời tôi ghét nhất là hạng người hiếp đáp người khác, anh đừng tưởng dọa chúng tôi là chúng tôi sợ! Tôi chỉ sợ người tốt chứ không sợ kẻ xấu!” càng cãi mọi người càng sinh giận, nổi nóng, cơ hồ muốn xắn tay áo đánh nhau.
Còn vị phật tử kia thì khuyên mọi rằng: “Chúng ta gặp nhau giữa đường là một nhân duyên khó được, mọi người hãy nhìn lên khuôn mặt Đức Phật A Di Đà mà kết một duyên lành. Xe đụng nhau thì khó tránh được thương tích. Chúng ta nên vui mừmg mà cảm tạ Phật lực đã che chởcho mọi người được bình an. Nếu chúng ta bỏ qua cho nhau, lịch sự với nhau thì đâu có chuyện gì. Vì xe đã trầy xước, dù chúng ta có nóng giận, tiếc rẻ, cũng phải đem nó đi sửa, nó mới lành lặn như trước! Đâu phải chúng ta đi thưa gởi mà các vết trầy xước của xe được khôi phục? Nếu chúng ta cứ cãi vã làm hao tốn tinh thần, hao tốn hòa khí thì như thế còn nghiêm trọng hơn là xe bị trầy móp, lại càng đáng tiếc hơn nữa! Chúng ta vui vẻ đem xe đi sửa, có lẽ còn đẹp hơn xe mới!”
Người kia nghe nói thế liền hết giận, cúi đầu lái xe đi.
Ba vị Phật tử lên xe, thấy có mấy bình mật ong bị bể vì đụng xe vừa rồi, mật chảy ra làm nhầy nhụa cả xe. Chị Phật tử lái xe lắc đầu nói: “Hôm nay thật xui xẻo, tôi hết muốn đến nông trường Thanh Cảnh rồi, dọc đường cứ bị trục trặc quá rồi!” vị Phật tử thứ ba lại khuyên mọi người: “Đó chẳng qua là một vài chuyện ngoài ý muốn, thật ra thế gian này vốn là vô thường, “vô thường” nên xem là sự việc trong tâm ý, chứ đừng nên xem ngoài tâm ý. Dù dọc đường chúng ta có gặp nhân duyên gì cũng đừng thay đổi tâm tình và mục tiêu vốn có của chúng ta. Người ta muốn lái xe như thế nào, muốn hành động như thế nào, thì đó đều là sự tu dưỡng của người ta, chúng ta đừng nên vì sự sai lầm nhất thời của người khác mà thay đổi niềm tin và kế hoặch nghỉ của chúng ta. Chúng ta cứ tiếp tục thực hiện kỳ nghỉ của chúng ta. Vừa rồi bất quá chỉ là cảnh ngộ không được như ý trong mấy phút, chúng ta không nên để cho nó kéo dài thành mấy giờ ở trong tâm, hoặc thành mấy ngày khiến chúng ta phải khổ. Tôi thì cảm thấy tiết mục vừa rồi ở trong đài rất hay, đó mới chính là điều khiến chúng ta dụng công suy nghĩ. Chuyện vừa rồi quả thật chúng ta không nên lãng phí tâm niệm và kỳ nghỉ quí báu mà nghĩ tới nó. Chúng ta hãy cứ niệm Phật mà trải qua ngày nghỉ vui vẻ”.
Chúng ta hãy nghĩ lại mình, chúng ta phát nguyện muốn đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, phải chăng là giống như những người kia dọc đường gặp chuyện buồn phiền, trở ngại? Chúng ta có bị ảnh hưởng hay không? Hay chúng ta quên đi mục tiêu vốn có của chúng ta? Nếu chúng ta muốn chờ mọi người trên toàn thế giới biến thành những Thánh nhân có sự tu dưỡng cao thâm, lại muốn chờ mọi người đều hiểu ra mà lễ phép và thật tốt đối với chúng ta thì chúng ta mới vui vẻ, nếu như thế thì chúng ta sẽ không bao giờ được vui vẻ. Khi người ta không tốt với chúng ta, chúng ta cũng có thể niệm Phật cho mình được an vui, đồng thời cũng chúc phúc cho người ta, giúp người ta trở thành tốt. Nếu vì hai sự việc trên mà sinh ra buồn phiền, rồi thay đổi lộ trình mà quay về, hoặc suốt kỳ nghỉ mà nhớ tới, bàn luận về các sự việc không vui vẻ ấy, thì các vị cảm thấy như thế có giá trị hay không?
Nói đi, nói lại, không lẽ cho xe quay đầu về, dọc đường lại không gặp điều không như ý sao? Biết đâu khi quay về, lòng buồn bực lại bị tai nạn xe mà nằm bệnh viện? Kết quả là không đi đến nông trường Thanh Cảnh, mà lại càng khổ hơn nữa rất nhiều người tu hành gặp khó khăn thì nản lòng mà rút lui, sau đó mới phát hiện ra rằng, con đường thối chuyển càng khó khăn càng gian khổ hơn. Chi bằng một lòng đi tới cùng!
Các vị cảm thấy các vị thuộc loại nào trong ba Phật tử nói trên?
Các vị cảm thấy ba vị trong họ ai là người được an vui?A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
TẠP ÂM BIẾN THÀNH PHẬT THANH
Có người nói, người học Phật xem ra đều rất nghiêm túc, câu nệ, khiến người ta cảm thấy như bị dồn ép, câu thúc, không tự tại. Thật ra các vị xem kinh Phật thì biết, Đức Phật A Di Đà rất hoạt bát, khả ái, Tổ sư cũng rất tình cảm, linh động.
Đức Phật A Di Đà hiểu rất rõ nghệ thuật dạy dỗ, cho nên Ngài chọn tiếng ca của chim để thuyết pháp tại thế giới Cực Lạc, chọn tiếng gió thổi qua lá cây để tấu lên trăm ngàn thứ âm nhạc. Đại sư Ngẫu Ích giải thích vì sao phải dùng tiếng chim để thuyết pháp, trong đó có bốn tầng bậc nhân duyên để phổ độ chúng sanh.
Tầng bậc thứ nhất: vì người phàm phu ưa thích tiếng kêu của các loài chim, cho nên Đức Phật A Di Đà mới thuận theo sự ưa thích của mọi người để biến hóa ra các loài chim mà thuyết pháp, khiến mọi người sinh tâm hoan hỉ; trong khi hoan hỉ nghe, những gì được nghe vào tai thì mãi mãi là hạt giống của đạo, họ hoan hỉ tiếp thọ sự giáo hóa cứu độ.
Đại sư Ngẫu Ích chỉ đơn giản dùng tám chữ “thuận tình nhi hóa, lệnh hoan hỉ cố” (thuận theo tình mà giáo hóa, khiến người ta hoan hỉ) để diễn tả sự từ bi nhu nhuyễn thông đạt phàm tình của Đức Phật A Di Đà. Các vị thử nghĩ xem, các vị ở dưới cây của nước Cực Lạc, phía trên có một con chim bay tới đậu trên vai các vị, cất tiếng ca thuyết pháp cho các vị, chim ấy nói cả buổi vốn là “Đức Phật A Di Đà”, là vị cha Di Đà từ bi biến hóa ra! Các vị nhìn thấy Đức Phật A Di Đà hồn nhiên khả ái biết bao nhiêu, nhằm hóa độ các con mà hoàn toàn “vô ngã”, biến mình thành con chim nhỏ!
Tầng bậc thứ hai: chim mà còn biết thuyết pháp, khiến người nghe sinh lòng hoan hỉ, đó chính là phát huy thiện niệm.
Tầng bậc thứ ba: muốn đối trị cái tâm phân biệt của chúng sinh để các chúng sinh đừng sinh khởi tâm niệm không tốt cho rằng các loài chim là hèn mọn.
Tầng bậc thứ tư (ý nghĩa sâu xa hơn): các loại chim do Đức Phật A Di Đà biến hóa ra để truyền bá pháp âm. Cho nên chim cũng chính là Đức Phật A Di Đà, vì nhằm cho chúng ta tiến thêm một bước mà lĩnh ngộ. Tất cả chúng sanh đều là pháp thân của Phật, tất cả thanh âm cũng đều là pháp thân của của Phật. Các “tướng trạng” của hiện tượng tuy không giống nhau, nhưng cái bổn thể thì bình đẳng. Pháp thân, Phật tính cũng bình đẳng. Đức Phật A Di Đà biến thành chim, ngày ngày xướng lên những ca khúc không giống nhau; biến thành cây, ngày ngày diễn tấu trăm ngàn diệu âm; đó là muốn dẫn đạo mọi người tỉnh ngộ, thể chứng cái diệu lý thực tướng. Cho nên Đại sư Ngẫu Ích nói: “Chim tức là Di Đà, khiến mọi người lĩnh ngộ sự bình đẳng của pháp thân, không đâu là không đủ, không đâu là không tạo”. Kinh A Di Đà nói: “Trăm ngàn loại nhạc đồng thời tấu lên, người nghe âm thanh ấy tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp niệm Tăng”. Đối với chư Bồ Tát ở Thế giới Cực Lạc, các thứ âm thanh đều tự nhiên khiến chư vị niệm Phật.những người có nguyện lực muốn vãng sanh Cực Lạc là chúng ta, cũng nên luyện tập sao cho các thứ âm thanh đều khiến chúng ta niệm Phật.
Trước kia khi còn là bác sĩ tại y viện, tôi nhận ra rằng rất nhiều người bệnh không thể tiêp nhận âm điệu niệm Phật theo truyền thống của nhà chùa vì âm điệu ấy khiến họ nghĩ đến sự chết chóc, tang ma, cho nên lòng họ có cảm giác chống đối. Hơn nữa, người mang bệnh nặng thì khí lực yếu ớt, hơi thở gấp gáp không thể kéo dài âm thanh niệm Phật, cho nên thông thường tôi chỉ theo tốc độ hơi thở của người bệnh mà xướng thẳng “A Di Đà Phật”, giống như tốc độ của lời nói, niệm “A Di Đà Phật” thì họ niệm được. Để thuận theo sự cần thiết của người bệnh, tôi thử trích Phật hiệu này cho họ. Hơn nữa, để tránh cho người sơ học cảm thấy không khí buồn bã, hoặc cảm thấy quá đơn điệu, không thích học tập trì niệm, do đó tôi thử chọn thứ âm nhạc mà họ thích để làm bối cảnh. Như thế, người bệnh nghe tiết tấu rõ ràng của từng tiếng, từng tiếng, lại có cảm về vận luật. Họ niệm lên thì có cảm giác nhẹ nhàng an vui, và hoan hỉ tiếp tục niệm. Hồi làm bác sĩ tôi thường dại dột khuyên mọi bệnh nhân đều niệm Phật, nên đã gặp nhiều trở ngại, gặp nhiều thất bại. Do kinh nghiệm, tôi dần dần hiểu ra sự cần thiết của tâm tình người bệnh, nên đã cải tiến cách thức. Sau đó tôi mới nhận ra rằng, các thức niệm Phật này là cách thức mà người bệnh ưa thích tiếp nhận nhất, hơn nữa nó lại dễ đọc, dễ niệm theo nhất. Tôi dùng cách thức này để giúp bệnh nhân niệm Phật, thay cho rất nhiều loại thuốc ngủ và thuốc giảm đau. Thật ra, điều quan trọng của niệm Phật là niệm vạn đức hồng danh của Đức Phật A Di Đà, dùng âm điệu nào, dùng vận luật nào cũng không sao. Người có thể tĩnh tâm và niệm chăm chú thì niệm thế nào cũng tịnh tâm, chuyên chú. Người không thể tĩnh tâm, chuyên chú thì có đến cổ miếu ở núi sâu mà xướng các âm điệu đã được truyền thống đặt định, thì như thế cũng chỉ là vọng tưởng.
Hồi đó Phật giáo tại Ấn Độ đương nhiên là thuận theo chúng sanh mà dụng vận điệu của phong vị Ấn Độ, khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, thì dùng âm điệu của phong vận Trung Quốc; khi Phật giáo truyền đến Mỹ Quốc, thì tự nhiên biến thành phong vị Mỹ Quốc. Thật ra, chỉ cần niệm Phật hiệu là tốt rồi, dùng bối cảnh văn hóa nào cũng không sao. Vì Đức Phật A Di Đà là Vô Lượng Quang Minh chiếu sáng vô lượng chúng sanh, cho nên có thể sự biến hóa vô cùng vô tận. Lại nữa, vì Đức Phật A Di Đà còn được gọi là Vô Ngại Quang Phật, cho nên dùng phương cách nào thì đối với ngài cũng không chướng ngại, cũng không phương hại đến sự hoằng truyền của ngài. Lại nữa, Đức Phật A Di Đà là Hoan Hỉ Quang Phật, cho nên niệm thế nào cũng nên giải thoát tự tại, chớ khởi phiền não.Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nên thường niệm Phật mà sinh hỉ”. Sinh hỉ nghĩa là sinh tâm hoan hỉ. Chỉ cần nghe đến Phật hiệu thì nên sinh tâm hoan hỉ thanh tịnh, sinh tâm cung kính, thì mới tương ứng với thế giới thanh tịnh an vui. Chỉ cần chúng ta có thể làm nhu nhuyễn tâm mình, đừng có thành kiến, lấy cái tâm nguyện vãng sanh Cực Lạc mà niệm Phật, thì niệm như thế nào cũng có thể vãng sanh. Nếu như niệm Phật mà sinh phiền não, ghét nay ghét nọ, sợ này sợ nọ, thì niệm thế nào cũng đều không vãng sanh được. Chúng ta niệm Phật chỉ cần thành tâm mà niệm tốt, tuyệt đối đừng cố bày vẽ nghe âm nhạc; khuyên bảo giúp đỡ người khác niệm Phật thì nên lấy cái tâm nhu nhuyễn, từ bi, thuận hợp với sở thích của chúng sanh. Họ thích niệm thế nào thì chúng ta niệm thế ấy. Nếu trong lòng có thành kiến, cho rằng niệm Phật thì nhất định phải thế này mới được, không thế này thì không được thì lỡ ra khi lâm chung người ta không thể hiểu ý các vị, không thể thuận hợp với tâm của các vị, thì bấy giờ các vị sẽ rối trí, giận dỗi, sinh phiền não, há chẳng phải là làm chướng ngại cho việc vãng sanh của mình ư?
Người ta niệm Phật, cho dù niệm thế nào, cho dù dễ nghe hay khó nghe cũng đều là niệm Phật. Nếu chúng ta nghe mà không niệm Phật, lại khởi sinh các “ý kiến”, thì đấy chính là mình không chân thành! Người ta niệm Phật đều được vãng sanh, chúng ta thì vẫn rối ren ý kiến, luân hồi sáu nẻo. Thật ra, niệm Phật thì phải theo duyên mà không biến đổi, không biến đổi theo duyên, cho dù gặp phải nhân duyên gì đi nữa cũng phải thích ứng cho được mà tùy thuận, trong lòng vẫn duy trì niệm Phật. Tại chỗ ồn ào của trạm xe cũng phải nên tĩnh tâm niệm Phật, tại chỗ xe ngựa lọc cọc cũng phải vui vẻ niệm Phật. Thay đổi thang chứ không thay đổi thuốc; thang thay đổi thế nào thuốc cũng không thay đổi. Đức Phật A Di Đà là thuốc “A già đà dược”. Chữa được vạn bệnh, chế theo thang nào cũng đều dễ uống.
Rất nhiều người vẫn thường than phiền rằng hoàn cảnh quá ồn ào, không thể chuyên tâm niệm Phật, hoặc trách cứ âm nhạc xung quanh truyền tới, hoặc tiếng la lối quấy nhiễu mình, khiến niệm Phật mà tâm không được tĩnh lặng. Thật ra cuộc sống của chúng ta ở thế giới này tràn ngập các loại âm thanh, chúng ta tuy không thể như Bồ Tát Quán Thế Âm do “quán nghe thanh âm, lại nghe tự tính mình” mà chứng được nhĩ căn viên thông (tai nghe đầy đủ, thông suốt), nhưng chúng ta cũng có thể luyện tập nghe các thứ âm thanh, rồi để tỉnh tự mình niệm Phật, cho dù đó là âm thanh thuận tai hay nghịch tai; cho dù đó là âm nhạc mình ưa thích hay không ưa thích; tất cả đều biến thành “A Di Đà Phật”. Cho dù trần thế đầy các thứ ồn ào và náo loạn, trong lòng chúng ta cũng giữ lấy hoa sen nở rộ! Vì chúng ta không thể bảo chứng lúc lâm chung là cách vách chúng ta không có người lấy vợ, đốt pháo, không có người lợp nhà, đóng, khoan, không có người bắc loa. Chúng ta cũng không bảo chứng được rằng bên cạnh không có người mở lớn âm nhạc, ca hát, khiêu vũ, lại càng không thể bảo chứng ngày chúng ta lâm chung, không có sấm động, mưa tuôn, lại nữa, chó con, chim con kêu loạn, trẻ con không khóc om, nhảy loạn cho nên bình thường chúng ta phải luyện tập để khi nghe bất cứ âm thanh nào, cũng đều hoan hỉ niệm Phật, vui vẻ vãng sanh.
Năm ngoái, sau khi cha tôi mất, khi cử hành nghi thức cáo biệt tại Tang Nghi Quán, tôi phát hiện ra rằng mỗi gian gởi quan tài của Tang Nghi Quán chỉ rộng chừng hai thước, các tang gia ở mỗi gian cử hành lễ siêu độ khác nhau: có người mời đạo sĩ đánh phèng la, gõ não bạt, có người mời đoàn ca múa vừa hát, vừa nhảy; có người mời ngũ tử đến vừa khóc vừa kể lể; có người mời chư tăng tụng kinh Phật. Mọi người đều dùng loa rất lớn, mở hết cỡ âm thanh. Lúc nào hình như cũng có mười mấy đoàn cùng lúc tiến hành các tiết mục. Âm thanh lớn đến nỗi lúc nói chuyện cũng hầu như không nghe được tiếng mình. Em trai tôi vừa mới từ Mỹ Quốc về, không quen với cách thức của Tang Nghi Quán ở Đài Loan, làm trở ngại sự yên ổn của người khác, bèn nghĩ cách đến khuyên mọi người, nhưng không có kết quả gì mấy. Tôi bỗng nhiên nhớ lại lời dạy của cha tôi lúc sinh thời, nên mỉm cười nói với đứa em: “Nếu cha ở trong quan tài bước ra nói: ngay cả thế này mà con cũng không chuyên tâm niệm Phật được thì còn làm được gì chứ?” Em tôi nghe thế cũng cười. Cha tôi lúc còn sinh thời vẫn thường luyện tập, giữa đám âm thanh lộn xộn, tinh thần vẫn thống nhất, chuyên chú. Nếu người nào tĩnh tâm không được trước sự ồn ào, thì khi mệnh chung được đưa đến Tang Nghi Quán, e rằng sẽ cảm thấy “ồn chết người” mà chịu quấy nhiễu, sinh buồn phiền. Cho nên tốt nhất là chúng ta cần luyện tập nghe các thứ thanh âm, dù hợp ý hay không hợp ý, cũng đều tự nhiên niệm Phật “A Di Đà Phật” không bị trở ngại.
Chúng ta không thể yêu cầu hoàn cảnh thuận theo tâm của chúng ta, mà phải luyện tập, xem tất cả đều do Đức Phật A Di Đà biến hóa ra, tất cả đều giúp chúng ta nhớ Phật, niệm Phật. Hoàn cảnh chung quanh càng ồn ào lòng ta niệm Phật càng tốt.
Các loại âm thanh đều do Đức Phật A Di Đà muốn phổ biến pháp âm mà biến hóa ra. Các loại âm thanh đều nhắc nhở chúng ta niệm Phật. Trăm ngàn loại nhạc cùng lúc được tấu lên. Người nghe âm thanh ấy tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Cho dù âm thanh bên ngoài thế nào, cũng phải nên nghe Phật thanh ở nội tâm. Hoàn cảnh tốt hay xấu đều nên niệm Phật. Trời lạnh cũng niệm Phật, sấm nổ, mưa tuôn cũng niệm Phật. Cũng như đứng ở bờ biển mênh mông, phía trước là khoảng trời không; cái tâm niệm Phật cũng phải rộng lớn như thế. Cho dù trần thế ào ào sóng đục, tâm ta mãi mãi là hoa sen nở rộ. Niệm Phật, niemä ra sự hoan hỉ của người dân nước Cực Lạc, niệm ra sự từ bi của Đức Phật A Di Đà.
Bị bệnh nằm trên giường thân thể không được tự do, vẫn phải nên niệm Phật cho tâm được tự do.
Niệm Phật phải bình tĩnh, hoan hỉ, niệm cho đến khi khỏe mạnh có sức lực.
Đức Phật A Di Đà là ánh sáng thanh tịnh như dòng nước chảy trong vắt, rửa sạch buồn não của chúng ta.
Gặp việc gì cũng do Đức Phật A Di Đà khảo hạch.
Hoa tâm nở rộ, hoa sen nở rộ, trong ngoài đều thơm phức.
Phật thanh như sóng biển, một sóng tiếp một sóng tuôn chảy tới Tây Phương.
Đức Phật A Di Đà là ánh sáng hoan hỉ. Nếu tâm tình buồn khổ, nếu niệm Phật thì tự nhiên được vui vẻ!
Thật tin vào đại lực của Phật thì còn lo âu gì? Thật tin vào sự hộ niệm của Phật thì có việc gì không mãn ý? Thật tin vào sự biến tri của Đức Phật thì còn gì ấm ức? Thật nguyện vãng sanh Tây Phương, niệm Phật thì thường được vui vẻ.
Quá khứ đâu cần suy nghĩ. Vị lại chớ nên hoang mang. Hiện tại đừng nên hối hả. Niệm Phật thì tự nhiên được may mắn!
Lái xe trên đường thì nên niệm Phât. Lúc bận rộn nơi làm việc cũng nên niệm Phật.Chúng ta là người dân nước Cực Lạc, lúc nào cũng niệm Phật, mỉm cười. Mỗi một niệm đều thay đổi vận mệnh, mỗi một niệm đều hưởng thọ Tịnh Độ.
Người trí gặp duyên thì được cứu, dù thuận hay nghịch đều có ích. Có người ném bàn thối tới, đó là dịp để trồng hoa sen vàng.
Một đời hối hả, lo toan cũng không đạt được cái gì! Không bằng thanh thản niệm Phật: may mắn, tự tại, an vui.
Dù bận việc bao nhiêu có hối hả cũng không nhanh hơn được. An định niệm Phật thì vừa vui, vừa nhanh!
Khi hoan hỉ, an vui chớ quên Đức Phật A Di Đà.
Ban đêm khi ngủ, chớ quên niệm A Di Đà Phật.
Tín niệm kiên cố thì càng niệm càng vui! Phật Quang giúp thêm thì càng niệm càng có sức!
Đức Phật A Di Đà là đấng tối cao trong ánh sáng, là vua trong chư Phật, Đức Phật A Di Đà đem công đức tu hành của ngài chứa vào trong danh hiệu của ngài khi niệm Phật thi nắm trọn công đức của phật mà làm thành công đức của mình. Tất cả đều viên mãn, tất cả đều đầy đủ!
Đầy trời gió mát, trăng trong đều vào hết trong khe nước; công đức tâm niệm của Như Lai đều vào hết trong một niệm tâm.
ĐẠI NẠN BIẾN THÀNH ĐẠI NGUYỆN
Vào năm thứ nhất, lúc tôi đang là bác sĩ nội khoa của y viện, một hôm vào buổi tối tôi đang trực ở phòng săn sóc bệnh, từ phòng cấp cứu chẩn, người ta đưa tới một bệnh nhân bị nghẽn cơ tim (tim bị tê cứng). Chẳng những ông bị hôn mê mà còn bị ngưng thở, cả bộ mặt và lưỡi đã trở nên bầm tím, theo điện tâm đồ và bản xét nghiệm máu, rõ ràng tim của ông đã bị hư hại nghiêm trọng, theo kinh nghiệm của nội khoa chunù g tôi thì không thể cứu sống ông được, cho nên vị trưởng khoa mới khuyên gia đình người bệnh nên sẵn sàng chuẩn bị lo hậu sự cho ông.
Tôi theo lệ thường, một mặt cho ông thở bằng máy, một mặt niệm Phật cho ông. Chúng tôi đã thực hiện mọi thủ thuật, thuốc men cần phải thực hiện, nhưng huyết áp của ông vẫn không đo được, ông vẫn hôn mê lại không thở được, tất nhiên phải dùng máy cho ông thở.Bấy giờ, vợ của người bệnh này hết sức buồn bã nói: “Người ta nói, trời cao rất thương người trung hậu, tại sao trời cao lại không thương xót tôi? Bác sĩ, xin cô hết sức cứu sống anh ấy. Dù anh ấy được cứu sống mà có trở thành một con người thực vật, thì tôi cũng nguyện suốt đời chăm sóc anh ấy”.
Nghe nói thế, tôi cảm thấy bà ấy quả là một người thành khẩn trung hậu. Tôi bèn khuyên bà: “Người ta gặp đại nạn thì nên phát đại nguyện niệm Phật mới có thể đột phá được đại nạn”. Bà hỏi tôi: “Làm sao để phát đại nguyện?” tôi đáp: “Bằng sự chân thành tự phát của bà”. Không đợi suy nghĩ, bà nói: “Từ nay trở đi, vợ chồng chúng tôi ăn chay trường niệm Phật. Anh ấy là một giáo viên, nếu lành bệnh, anh ấy có thể hoằng dương Phật pháp”.Nghe bà phát nguyện tôi bèn đưa bà và các con của bà mỗi người một xâu chuỗi, và bảo bà: “Bây giờ đã khuya, các vị đứng ở ngoài phòng săn sóc bệnh mà lo lắng, phiền não cũng không ích lợi gì, chi bằng mọi người hãy an tịnh cái tâm lo lắng. Mỗi người đều niệm một vạn tiếng “A Di Đà Phật”, cầu Phật phù hộ, Phật lực thì không thể nghĩ bàn. Các bác sĩ, y tá sẽ tận lực cứu ông ấy. Gia đình các vị hãy tận tâm niệm Phật cho ông. Nếu ông ấy cùng chúng tôi chưa hết nhân duyên, thọ mạng chưa dứt, mọi người niệm Phật thì bệnh của ông sẽ chóng khỏi, nếu ông ấy cùng chúng tôi nhân duyên đã hết, thọ mạng ông dứt thì ông nhờ vào công đức niệm Phật, cũng có thể đến thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà mà sống an vui, cùng với chư Bồ Tát của Phật, học tập con đường thành Phật, cứu độ chúng sanh”.
Tối hôm ấy, ba bác sĩ chúng tôi nhìn vào máy điện tâm đồ mà điều chỉnh thuốc tiêm hết lòng mong cứu được ông ấy. Chúng tôi đứng bên giường bệnh suốt từ bảy, tám giờ tối cho đến hơn ba giờ sáng. Một vị bác sĩ trong chúng tôi than: “Ba người chúng ta canh trực cả đêm mà chỉ canh trực một người mà huyết áp không thể đo được! Hơn nữa lại phải dùng máy hô hấp ông ta mới thở được”.
Nhưng đến bốn, năm giờ sáng, chỉ số huyết áp của ông hình như tăng lên lại, người cũng dần dần tươi tỉnh lại. Tôi thấy thế liền vội vàng mở cửa phòng săn sóc để báo cho người nhà của ông để họ yên tâm vui vẻ. khi vừa mở cửa tôi thấy cả nhà đang ngồi niệm Phật. Những khuôn mặt khẩn thiết chí thành ấy khiến tôi cảm động đến rưng rưng nước mắt. Đứa con của ông ấy viết trên một tờ giấy: “Cha ơi! Con rất mong cha lại mở đôi mắt từ ái ra.”Có một người thanh niên đến thăm ông ấy mà khóc, khiến tôi tưởng anh ta là người nhà của ông ấy, nhưng người thanh niên lại bảo với tôi: “Ông ấy là thầy tôi. Hồi ấy thầy tôi ở tại một gian nhà lụp xụp tựa vào bức tường vây của người khác, thường đem tiền lương của ông mà cấp dưỡng cho các học sinh chúng tôi. Nếu không có thầy thì không có tôi ngày nay. Thưa bác sĩ, xin cô hãy quyết cứu thầy tôi!”. Người thanh niên chưa nói hết lời đã nghẹn ngào không nói thêm được, anh ta chắp tay van xin tôi nhất định phải cứu thầy anh.Sau đó tôi mới biết bệnh nhân ấy đã từng được chọn là một trong “mười nhà giáo có tâm lớn”. Sau khi ông ấy tỉnh lại mới ba ngày, đang còn phải dùng máy hô hấp để thở, thế mà ông đã chân thành niệm Phật. Ngoài chứng nghẽn cơ tim, ông còn bị chứng phổi có hạch trầm trọng, nhưng khi được khỏe trở lại, ông hăng hái xuất viện, lại còn tìm đến tôi để cùng in kinh kết duyên với mọi người. Mỗi bác sĩ chúng tôi xem điện tâm đồ, xem kết quả kiểm nghiệm máu của ông, lại thấy ông được khôi phục thì ai cũng cảm thấy là không thể nghĩ bàn được!
Khi tôi còn thực tập tại khoa phụ sản, có lần gặp một phụ nữ bị thai chết ở trong bụng, phải chịu giải phẫu. Nét mặt bà đầy vẻ bi thương, vì thai nhi đã chết, và sự hãi vì sắp phải chịu phẫu thuật, trong lòng lo lắng không yên. Khi đến thăm bà, tôi khuyên bà niệm A Di Đà Phật, bảo bà rằng: “Đức Phật đại từ, đại bi không nhanã tâm với mọi chúng sanh đang chịu khổ, nhất định sẽ bảo hộ cho bà.”
Trước khi bà được gây mê, bà liên tục niệm A Di Đà Phật. Sau cuộc phẫu thuật, bà tỉnh lại và tôi đến thăm bà. Bà bảo tôi: “Niệm Phật quả là kỳ diệu, quả là tốt lành!” bà không đau đớn chút nào. Hơn nữa, trong lúc được giải phẫu, bà lại mộng thấy Bồ Tát còn đẹp hơn các tiên nữ trong các phim ảnh, mang bà đến một nơi còn đẹp hơn tiên cảnh trong phim ảnh. Bà trông thấy rất nhiều hoa sen thật lớn. Sau đó bà nghe có tiếng nói: “Đã đến lúc bà có thể quay về”. Bà dần dần tỉnh lại, nhưng sau cùng bỗng nghe tiếng khóc của một đứa bé. Bà nói: “Con ơi! Đó là con không muốn mẹ, chớ không phải mẹ không muốn con”. Tôi nghe xong liền khuyên bà ấy hãy thành khẩn niệm Phật cho đứa con được siêu độ, cho đứa con được vãng sanh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Vì bà niệm Phật trong lúc chịu phẫu thuật mà được cảm ứng, nên bà rất có tín tâm cứ chân thành niệm Phật.
Không chỉ riêng bà ấy, tôi đã thấy không ít người khi lâm sàng trước khi chịu giải phẫu cũng khẩn thiết niệm Phật. Không những việc giải phẫu được thuận lợi, mà họ còn có những kinh nghiệm không thể nghĩ bàn, có thể vào lúc chịu phẫu thuật, trong cửa sinh tử, cái tâm niệm Phật đặc biệt chân thành, khẩn thiết so với việc niệm Phật tản mạn bình thường, đương nhiên là rất khác nhau.
Hễ tâm ta niệm Phật, từ xa Đức Phật liền biết.
Phật quang thường chiếu cố, ngày đêm thường thủ hộ.
ĐỒ TỂ BIẾN THÀNH BỒ TÁT
Trên bước đường hành nghề bác sĩ, tôi đã gặp một vị Bồ Tát bệnh nhân. Tuy ông ấy là một đồ tể, nhưng bình thường ông đối với mọi người rất thành khẩn, khoan hậu. Giết heo là nghề mà cha mẹ truyền lại cho ông. Ông nói với tôi: “Chúng tôi cũng không tiện đổi nghề, cũng không biết phải nên thế nào để đổi nghề” Ông bảo rằng hồi ông còn nhỏ, có người bảo ông niệm A Di Đà Phật, cho nên từ nhỏ mỗi khi thấy tượng phật, ông liền chắp tay niệm ba lần A Di Đà Phật. Quí nhất là từ nhỏ ông không cầu xin gì cho riêng mình, mà cầu mong Đức Phật hộ trì cho mọi người. Ông nói: “Phật làm sao mà hộ trì cho một mình tôi được chứ?” tôi nói: “Đúng thế! Quan niệm này của ông chính xác vô cùng”.
Tuy ông làm nghề giết heo đã từ rất lâu, nhưng ông đối với mọi người rất tốt. Bạn bè thân thuộc tới thăm ông, có rất nhiều người đã từng chịu ơn ông, cám ơn, ca ngợi ông. Trước kia ông không hiểu giết heo cũng là làm thương tổn chúng sanh, làm tổn thương chúng sanh là phải chịu quả báo thống khổ. Về sau ông bị hạch dưới cổ, trong vòng mấy năm, cả cổ họng bị hạch lan tới. Tuy ông đã chữa nhiều, nhưng rồi bệnh vẫn phát trở lại. Mỗi tối nằm trên giường ông thở rất khó khăn. Khi ông thở thì phát ra âm thanh như tiếng kéo cưa, đàm kéo nghẹn cổ; muốn nuốt, nuốt không vô; muốn nhả ra, nhả không được, giống như cổ họng bị dây thắt. Mỗi lần ông hít thở trông thật đau đớn, khổ sở. Trong lúc rất thống khổ như thế, ông bảo tôi giờ đây ông mới thấu hiểu được sâu sắc con heo bị giết thì nó đau khổ như thế nào. Ông chắp tay cung kính ngồi trên giường niệm Phật, chí thành, sám hối.
Vì ông hoàn toàn không có cách nào nuốt đồ ăn, chỉ phải nhờ một ống đưa qua mũi đưa xuống dạ dày để rót thức ăn. Tuy như vậy quan niệm của ông cũng được khai mở, lại còn phát được thiện tâm rất lớn, phát nguyện niệm Phật, cầu sinh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, cho nên sắc mặt của ông rất tươi tỉnh, không giống như sắc mặt sầu muộn của các bệnh nhân khác.
Một hôm ông nói với tôi: “Bác sĩ Quách, cô xem thân thể tôi còn có chỗ nào dùng được không? Giác mô mắt của tôi có thể hiến cho người ta được không? Trái tim của tôi có còn tốt không? Có thể cho người khác được không? Nếu cho được thì hãy cho giùm tôi; vì hy sinh một mình tôi cũng không hề gì, chỉ mong sao cho người khác được khỏe mạnh là tốt rồi”. Nghe xong, tôi rất cảm động, khen ngợi ông: “ông xứng đáng là cái tâm địa của vị Bồ Tát!”
Nhưng vì ông là một bệnh nhân mắc chứng ung hạch, dù nay ông có thiện tâm từ bi rất lớn, mong muốn khi còn sống được lấy cơ quan trong người ông mà đem cho người khác, thì có ai dám nhận không? Phải chăng người nhận không ngại rằng do đó mà mình bị ung hạch? Tuy nhiên, phát tâm của ông thật là vĩ đại, thật khó có được. Tôi thật không muốn nói lời khiến ông thất vọng, cho nên tôi chuyển sang hướng khác mà khuyên nhủ ông.
Bấy giờ tôi bảo với ông: “đời của mỗi người là một mô thức, cái tinh thần của ông có thể giúp cho rất nhiều người thay đổi tim, thay đổi mắt. Về xác thịt, đôi giác mô mắt của ông chỉ có thể cho một người, mà khi người đó đã có giác mô mắt, thì tuy người ấy mở mắt ra, nhưng hàng ngày vì mở mắt mà trông thấy các sự việc mà ưa thích hoặc nóng giận, như thế cũng chưa chắc là tốt! Cũng có người dùng đôi mắt ấy hàng ngày đều thấy những thứ khiến anh ta giận dỗi, hoặc buồn phiền. Nếu một người không biết làm sao để sử dụng đôi mắt cho tốt, thì dù có được đôi mắt, có được giác mô lành lặn, thì cũng không hề được hạnh phúc. Giả như một người không hiểu rõ đạo lý chân chính mà được giải phẫu thay tim thì cũng không hẳn người ấy có thể cảm thấy hạnh phúc đầy đủ. Trên đời, rất nhiều người có con mắt, có trái tim, nhưng vẫn bất mãn, thống khổ; cho nên điều quan trọng là mở rộng tim, mắt của nội tâm”.
Bấy giờ tôi khuyên ông: “ông đã có Phật tâm từ bi như thế, nếu ông dùng tim này mà niệm Phật thì có thể giao tiếp cảm ứng với Đức Phật. Nguyện lực của Đức Phật A Di Đà thì không thể nghĩ bàn, nếu nguyện lực này cùng với nhân duyên thế gian chưa dứt, thì người ta có thọ mạng chưa dứt cũng có thể tiêu trừ tai nạn, kéo dài thọ mạng, khiến thân tâm an lạc. Nếu người niệm Phật có thọ mạng đã dứt, thì Đức Phật A Di Đà sẽ từ bi tiếp dẫn đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Nay ông cứ niệm Phật cho tốt, thân tâm ông an lạc thì ông có thể an ủi, khuyến khích mọi người, đến lúc lâm chung cũng có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, nương theo nguyện mà trở lại, độ khắp chúng sanh.
Lúc lâm chung của người ta là một cửa sinh tử rất trọng yếu. Cửa này mọi người đều phải đi qua. Cửa trọng yếu này quyết định khi hơi thở này đã dứt, chúng ta đi lên hoặc rơi xuống. Nếu lúc ấy chúng ta sinh khởi niệm ác, thì có thể chúng ta bị đọa đia ngục mà chịu khổ. Niệm này quyết định tại một niệm của chính chúng ta. Nếu ông có thể nhân vào cửa này mà nỗ lực iệm Phật, dùng cái tâm nguyện đến Tây Phương thành Phật để chí thành niệm Phật, thì nhất định sẽ được Đức Phật tiếp dẫn lên đài sen của thế giới Cực Lạc. Như thế đời của ông chính là một mô thức, chỉ cần chính ông có thể an nhiên tự tại mà vãng sanh Tây Phương, thì có thể cứu được rất nhiều người. Ông không chỉ cho một người giác mô mắt hay trái tim mà thôi, ông còn thể nhân đó mà giúp cho rất nhiều người mở rộng mắt, tim của nội tâm, dứt từ sự sợ hãi sinh tử của mọi người. Như thế cũng giống như đem giác mô mắt của nội tâm mà cho rất nhiều người, giúp họ thấy thế giới Cực Lạc thanh tịnh. Nếu ông có thể đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, thì chính là ông đạt được quả báo thù thắng trang nghiêm nhất. Cho nên các bậc cổ đức trong khi khai thị đã nêu: thành tựu cho một chúng sanh vãng sinh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương tức là thành tựu cho một chúng sanh thành Phật. Công đức ấy thật không thể nghĩ bàn”.
Tôi nói với ông ấy như thế không hề có ý không muốn cho người đang cần có các bộ phận để thay thế được khỏe mạnh, hạnh phúc, mà chính vì một mặt hạch u của ông đã ăn lan ra toàn thân; mặt khác việc hiến tặng các bộ phận thì không thể nói ra là làm ngay được. Vì quả thực khi phải chịu giải phẫu đau đớn, nội tâm phải rất an nhiên, tự tại, thì mới không sầu khổ và không ân hận. Điều này cần phải có công phu, sức nhẫn nại rất thâm sâu, đại lực từ bi rất thâm sâu, thì mới có thể thực hiện được; đây không phải là năng lực của người bình thường. Có người phát nguyện rất nhanh, lại rất dễ dàng, nhưng đến khi đao mổ cắt da thịt thì vì đau đớn, sợ hãi mà sinh ra lòng ân hận. Cho nên tuyệt đối không nên vì thừa hứng nhất thời, ưa làm anh hùng mà phát nguyện như thế; nên thành thực đo lường nguyện lực, nhẫn lực của mình để khỏi đến lúc thì tâm loạn, ân hận.
Ông ấy nghe xong thì chân thành niệm Phật. Có thể nói ông không cần phải dùng thuốc giảm đau cũng có thể cũng có thể hàng ngày được an vui. Ông nói với tôi rằng ông cả một đời giết heo, trước hết vốn là vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không giết heo thì không cách chi sinh sống. Về sau ngã bệnh, ông mới nhận ra rằng một đời ông giết heo, tiền dành được không đủ chi phí thuốc men, rốt lại còn mắc nợ, càng khó khăn trong cuộc sống.
Mọi người trong chúng ta thường nói câu: “Tôi không làm nghề này thì không có cách gì để sống!” nói như thế, tuy chúng ta biết rất rõ nghề ấy không hợp với Phật pháp, chúng ta vẫn cứ tiếp tục làm. Cho đến một hôm, quí vị nhận ra rằng như thế là không được, quay đầu bình tĩnh mà suy nghĩ thì nhận ra cả một đời quí vị đã nhiều lần dùng những cách thức “không hợp với Phật pháp”; kiếm được một ít lợi danh, nhưng sau đó cái giá mà quí vị vun bồi và nỗi thống khổ vượt xa hơn nhiếu so với chút danh lợi mà quí vị kiếm được.
Khi vị Bồ Tát bệnh nhân ấy đang còn nằm trong viện, có nhiều Phật tử đến niệm Phật, giảng pháp cho ông. Sau khi ông xuất viện trở về nhà, trước mấy ngày lâm chung, ông tự biết thời gian đã đến, cuối cùng ông còn dăn người con: “Con nhờ bác sĩ Quách tìm một số bằng hữu tới niệm Phật cho ta”. Một số vị trong “Y vương Học xã” của học viện Y Dược Trung Quốc, lại có cả người chủ nhà của chúng tôi đều đến Bắc Cảng niệm Phật cho ông. Khi trợ niệm trở về, họ nói với tôi rằng lúc lâm chung, ông niệm Phật và vãng sanh nét mặt rất tươi. Mọi người càng niệm Phật thì ông càng mỉm cười. Tám giờ sau khi ông vãng sanh, sắc mặt vẫn tươi vui trước mọi người, các vị trợ niệm đều rất cảm động, khen ngợi. Nụ cười cuối cùng của đời người là nụ cười quí báu nhất, hiếm có nhất.
Bạn cứ một lòng chánh niệm, chúng tôi có thể giúp bạn sự bảo chứng của Đức Phật.
NGƯỜI BỆNH BIẾN THÀNH PHẬT TỬ
Khi còn làm tại khoa ung biếu, tôi gặp một bệnh nhân, cậu ấy là sinh viên của lớp cao đẳng công nghiệp, dáng người thanh tú. Nhưng khi mười bảy tuổi thì bị bướu hạch, đó là một loại ung bướu phát triển trong cơ thịt, gọi là “bướu cơ thịt vằn”, trên bàn tay, bàn chân, da đầu đều có. Trên da đầu bướu hạch nổi lên to bằng cái bánh bao, trên mí mắt cũng nổi hạch lớn, có thể vừa một chiếc chum úp vào. Khi cậu đến viện thì một y viện lớn đã mổ cho cậu mấy lần, nhưng hạch bướu vẫn phát sanh trở lại. Cha mẹ cậu làm nghềø kinh doanh việc bán gà, giết gà. Họ cực khổ hai mươi mấy năm mới cất được một tòa nhà cao vút những bốn năm tầng. Vốn là nhà khá giả, nhưng khi cậu bị bệnh, chẳng những họ đã tiêu hết tiền của trong nhà lại còn phải đem nhà đi cầm cố để trả nợ, cuộc sống cả nhà phải rơi vào cảnh khốn cùng. Cha cậu nói với tôi rằng, nếu như tiếp tục chữa trị cho cậu thì ông không thể nuôi dưỡng các em cậu. Gia đình biết rằng bệnh của cậu không thể chữa khỏi, nên muốn tôi đừng tiếp tục chữa trị, chỉ cần cho cậu thuốc giảm đau là tốt rồi. Mỗi khi các ung hạch đau nhức thì thật cậu không chịu nổi, cha mẹ cậu thấy thế thì trong lòng đau đớn, không thể đau thay cho cậu được.
Cậu ấy có căn lành. Thầy của cậu từng bảo cậu niệm Phật. Khi bị đau nhức đến cực điểm, cậu vẫn một lòng niệm Phật, niệm cho đến khi hết đau, và tay chân lạnh cóng của câu ấm trở lại. Như thế cậu khỏi cần dùng thuốc giảm đau. Vì gia đình không còn cách nào cho cậu nằm viện, cho nên cậu phải nằm ở nhà. Cậu đã trãi qua một lần ngưng thở rồi sống lại.
Một hôm cha cậu tiến đến y viện tìm tôi, kể cho tôi nghe sự việc rất thần bí, rất lạ lùng không thể nghĩ bàn: hôm qua cậu bé hôn mê, gia đình cho rằng cậu đã không xong, liền thay quần áo, đội mũ của nhà trường cho cậu, xem đó là đồ liệm cho cậu. Đến hai giờ sáng, cậu ngưng thở, mạch dừng, toàn thân cóng lạnh, môi, mặt trắng nhợt. Mẹ cậu tuy rất thương tâm, vẫn rất kiên cường nghe tôi dặn dò mà khẩn thiết niệm A Di Đà Phật cho cậu. Lòng từ ái của bà mẹ thật bi thiết, việc niệm Phật cũng không thể nghĩ bàn; bà niệm từ hai giờ khuya cho đến tận sáng, thì bỗng nhiên cậu ấy thở một hơi dài, đôi môi hồng như trái anh đào, và cậu sống lại. Gia đình vừa mừng, vừa sợ hãi, trăm mối ngổn ngang.
Sau khi cậu ấy sống lại, tôi đến thăm cậu. Vì cậu đã từng bảo với tôi là cậu rất muốn đến qui y Tam Bảo tại chùa, do đó chúng tôi sắp đặt, đề phòng cậu có thể ngưng thở bất cứ lúc nào, liền đem cậu qui y tại chùa Tịnh Luật. Vì bấy giờ cậu không thể đi được, anh bạn Hà Hiếu Thứ phải cõng cậu đi một quãng đường núi mà xe không thể đi được. Bấy giờ, cậu ráng sức ôm lưng anh Hà. Toàn thân thể cậu, đôi chân gầy đến nỗi chỉ còn xương da. Chư tăng chùa Tịnh Luật rất từ bi, để cậu ngồi tại đại điện mà thọ Tam Qui. Vì cậu đứng lên, cúi xuống rất khó khăn, nên khi phải đảnh lễ bái Phật trong nghi thức Qui y, tôi đều lễ bái thay cậu. Bấy giờ hình như cậu đã đem hết phế phủ, tâm can để đọc bài văn Qui y. tiếng của cậu khiến tôi hiểu rõ thế nào là “qui mạng”. Qui mạng tức là dốc hết toàn bộ sinh mạng.
Một ngày sau khi về nhà, cậu gọi điện thoại đến y viện cho tôi, cậu nói: “Em nằm mơ từ dưới nuí chùa Tịnh Luật, cứ bước ba bước thì lạy một lạy, lạy cho đến trước tòa đại điện Bồ Tát Quán Thế Aâm. Cứ theo như các động tác mà cô đứng một bên lạy Phật thế cho em, em cứ ba bước một lạy”.
Tôi cầm ống điện thoại nghe cậu ấy nói mấy lời mà không ngăn được nước mắt ràn rụa. Một thiếu niên đã tê liệt trong lúc mộng mị cứ ba bước một lạy, lạy đến trước tòa Quán Thế Âm; trong lòng cậu vẫn mong được lạy Phật linh hoạt như chúng ta! Những lời nói này của cậu đã khích lệ tôi phá vỡ được hàng lớp cửa khó khăn, vì so với cậu ấy, có thể nói chúng ta không khổ chút nào!
Cậu ấy nói với tôi rằng tâm niệm cuối cùng của cậu sau khi sống lại là mong muốn cha mẹ thay đổi nghề, đừng giết gà nữa. Cha mẹ cậu chặt đùi gà ở dưới lầu, thì ở trên lầu đùi của cậu đau nhức không chịu được. Nhưng cha mẹ cậu đã quen làm nghề này, không biết đổi nghề thì phải làm sao. Gần đến tiết Thanh Minh, tôi đến thăm gia đìnhcậu. Đây chính là lúc làm ăn thuận lợi có người tới mua gà, họ đến chuồng gà ở sau nhà, bắt gà đem giết. Trong lúc vội vã, tôi tự nảy ra ý, buộc miệng mà nói với người khách mua gà: “A Di Đà Phật, rất xin lỗi, hôm nay họ không bán gà, tôi đã mua số gà đang có”. Người khách mua liền nói: “Ồ, cô mua hết rồi sao? Thôi thế cũng được!” và người khách bỏ đi. Hôm ấy tôi vừa lãnh lương xong, chuẩn bị thay cho cậu ấy cúng dường một số tiền cho chư tăng ở chùa Tịnh Luật, cho nên tôi mới sẵn tiền trong người. Nhưng tôi tin rằng chư tăng ở chùa Tịnh Luật đồng ý cho tôi thay chư vị mà phóng sanh cho đám gà, vì chư tăng đại từ, đại bi mong muốn các chúng sanh đang thoát khổ được vui. Tôi xin lỗi cha mẹ cậu ấy vì tôi đã tự ý mời người khách mua gà ra đi, xin họ tha lỗi cho tôi. Tôi nói: “vì từ trước đến nay tôi chưa từng mua gà, không biết phải trả bao nhiêu để mua hết số gà trong chuồng đằng sau nhà. Tiền cúng dường trong bao đỏ này xin giao trước cho các vị để chi tiêu qua tiết thanh Minh, còn thiếu bao nhiêu tôi sẽ mang lại. Số gà kia xin các vị bán cho tôi, nhưng vì tôi không có chỗ nuôi, nhờ các vị nuôi dùm tôi, mỗi tháng chi phí nuôi dưỡng bao nhiêu tôi sẽ gởi lại các vị, đây là mong muốn cuối cùng của cậu con các vị. Cậu ấy muốn các vị thay đổi nghề, tôi nhất định sẽ giúp cậu ấy toại nguyện, để cậu ấy không nuối tiếc, an tâm mà đến thế giới Cực Lạc ở Tây phương”. Cha mẹ cậu nói khéo: “không cần, không cần bao nhiêu đó đủ rồi, cô không cần mang thêm tiền lại. Chúng tôi đồng ý không giết số gà này, chúng tôi nuôi dưỡng chúng, cô không cần trả tiền chi phí nuôi dưỡng”. Vì từ khi họ thấy sắc mặt của cậu mang vẻ đau khổ như mấy con gà bị giết, họ không còn muốn giết gà nữa. Chỉ vì cuộc sống bức bách, cho nên nhất thời họ không biết đổi nghề thì phải làm gì.Hôm ấy chúng tôi ra chuồng gà phía sau, quy y Tam Bảo cho số gà, mong từ nay về sau chúng phát tâm quy Tam Bảo: “Quy y Phật không đọa địa ngục; quy y Pháp không đọa ngạ quỉ; quy y Tăng không đọa súc sanh”.
Trông thấy đám gà đáng thương như thế, khi niệm “không đọa súc sanh” thật tôi muốn rơi nước mắt. Tôi thì thầm khuyên đám ga øcùng niệm Phật, bảo với chúng rằng thế giới Cực Lạc ở Tây Phương có Đức Phật A Di Đà, bất cứ chúng sanh nào chỉ cần nguyện đến thế gới Cực Lạc, niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà thì Đức Phật đều đồng ý tiếp dẫn chúng sanh ấy đến thế giới Cực Lạc, ở đó không ai phải chịu khổ, có thể an tâm tu hành, làm Bồ Tát. Cô em của cậu ấy đứng bên cạnh nhìn bỗng nhiên giật mình bảo tôi: “Bác sĩ Quách, cô nhìn mấy con gà kìa! Tại sao tất cả đều im lặng nhìn vào cô? Xưa nay tôi chưa từng thấy đám gà có bộ dạng như thế!” tôi nói với cô ta: “Em ạ, em sai rồi, trông thấy anh của em bị bệnh đau khổ, em có đau lòng không?” cô ấy nói: “Rất đau lòng”. Tôi nói: “Gà cũng rất sợ chết, rất đau lòng, chúng nó đều biết đau. Em có muốn Đức Phật đến cứu anh của em không?” cô ấy gật đầu, tôi lại nói: “Thì cũng thế, gà cũng muốn có người cứu chúng. Tôi đã quy y cửa Phật dùm cho gà, từ nay về sau chúng là đệ tử của nhà Phật, cùng với tôi là anh chị em, gia đình em từ bi thay tôi săn sóc chúng, để cho chúng được sống tốt lành, không sợ phải bị giết, được không? Chúng ta nên cùng với gà phát nguyện, sau này tất cả cùng đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, gia đình em săn sóc đám gà này để cho chúng sung sướng không phải khổ sở, thì như thế anh của em cũng vui sướng mà không đau khổ”.
Hôm ấy vào “Tiết Đản sinh” của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cậu ấy bình tĩnh niệm Phật mà vãng sanh Cực Lạc ở Tây Phương. Theo cô y tá Lâm Ức Phân, người đã săn sóc cậu thì trước khi cậu vãng sanh, thần trí rất sáng suốt, tâm ý rất an tịnh. Khi cô đến thăm cậu, cô đậu xe tại một chỗ ở rất xa, cô còn chưa đến nhà cậu, cậu đã nói với cha mẹ rằng: Chị Lâm đến rồi, trước khi vãng sanh cậu ấy lấy một cuộn băng ghi âm đưa cho tôi, và khuyên: “Đây là sự khảo nghiệm mà Phật Tổ trao cho chúng ta, chúng ta hãy cùng nhau sinh Cực Lạc”. Ngày cậu vãng sanh cũng đúng vào ngày tôi xuống tóc xuất gia. Nguyên trước đó tôi không hề biết cậu vãng sanh, nhưng đêm hôm ấy tôi mộng thấy cậu mở đôi mắt sáng (trên mí mắt cậu vốn có một hạch lớn khiến cậu không thể mở mắt được), rất vui vẻ nói với tôi: “A Di Đà Phật, nay thì thứ gì tôi cũng trông thấy được rồi!” một số Phật tử đến trợ niệm cho cậu. Vì cậu là lớp trưởng nên có rất nhiều bạn đồng học đến thăm, tất cả cùng niệm Phật cho cậu. Khi cậu vãng sanh, sắc mặt rất tươi tốt, thật khó nghĩ bàn. Các hạch u lớn ở trên đầu, trên mi mắt đều biến mất. Các bạn đồng học rất cảm động, cha mẹ cậu cũng cảm thấy không thể nghĩ bàn.
Họ cảm thấy sâu sắc rằng việc giết gà trong hai mươi năm, cuối cùng chẳng có tiền, chẳng có con, chẳng dư dã chút nào, chỉ có sự giết hại suông bao nhiêu sinh mạng, còn lại lắm nỗi đau thương. Cũng may, đứa con niệm Phật cầu sanh nước Tịnh Độ của Đức Phật, ở lại đó học con đường thành Phật, hơn nữa, nét mặt lúc lâm chung rất tốt lành của cậu đã cho họ niềm an ủi và lòng tin to lớn nhất. Người bệnh đã trãi qua những thăng trầm kia một lòng niệm Phật, trở thành con Phật. Người con Phật ở Cực Lạc thì hạnh phúc nhất so với tất cả mọi người con, con vua, con trời cũng không thể sánh nổi! Lúc mới đầu, việc họ đổi nghề không phải là dễ, nhưng nhờ Phật lực gia bị người chả cho thuê nhà của tôi là Lâm sư thư rất từ bi, bà bán đồ chay rất phát đạt, bèn hăng hái bảo mẹ của cậu làm đồ chay để giải quyết việc đổi nghề, để thỏa mãn tâm nguyện cuối cùng của cậu con.A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật
Hít vào một hớp gió Cõi Tịnh
Thở ra tràn ngập ngào ngạt Từ Bi
ĐẠI TỪ ĐẠI BI A DI ĐÀ PHẬT
Cho người niềm vui, cho người phương tiện, cho người lòng tin
Nguyện cùng tu thiện, nguyện cùng niệm Phật, nguyện cùng thành Phật.