Home > Khai Thị Phật Học > Cac-Khao-De-De-Tu-Hanh
Các Khảo Đề Để Tu Hành
Pháp Sư Đạo Chứng | Trần Tuấn Mẫn, Việt Dịch


Những đề tài mà thầy giáo đã khảo hạch học sinh lớp trên, được học sinh đang học gọi đùa là “đề khảo cổ”. Học sinh nghiên cứu đồ khảo cổ để có thể hiểu trọng điểm của cuộc thi, để thành tích trong cuộc thi này và trong cuộc thi tới được tốt đẹp. Việc tu hành cũng như vậy. Trên bước đường tu hành, ngày ngày đều có khảo đề, thời thời đều có khảo đề. Hành giả nghiên cứu các khảo cổ đề của các bậc Đại Đức, có thể biết được trọng điểm của việc tu hành, đề cao cảnh giác. Trong những khảo nghiệm sinh mệnh hiện tại và vị lai không có khảo nghiệm nào là không có ích lợi!

“Khảo cổ” để nay dùng. Lão Hòa thượng Quảng Khâm Các khảo đề để tu hành (khảo cổ đề).

Chúng tôi học tại y học viện, học làm cách nào để cấp cứu bệnh nhân, bước thứ nhất là gì, bước thứ hai là gì, bước thứ ba là gì. Trong kỳ thi viết chỉ cần theo sách mà nêu cho rõ ràng là được. Nhưng khi lâm sàng thực tế khám bệnh nhân thì tình hình lại không phải như thế!

Ví dụ, nửa đêm trực ban đưa tới một bệnh nhân bị thương vì xe đụng. Mới nhìn qua thấy đùi người ấy bị xe cán máu thịt bầy nhầy, bàn chân bị rất nhiều mảnh kính vỡ đâm vào. Người này lại là người nhạy đau, dễ chảy máu và hay kêu la. Trong lúc xử lý anh ta cứ một mực rên la dùng “Tam tự kinh” mà mắng chửi bác sĩ . chúng tôi quyết lòng cứu anh ta, đã không được nương tay, lại không được giận, càng không được phiền hà, và phải nhất nhất tuân theo những điều nói trong sách, làm theo bước một, bước hai. Thi viết, viết ra đáp án thì dễ, nhất nhất theo đó mà làm thì không đơn giản. Phải lấy ra hết sạch từng mảnh kiếng vỡ, phải tiếp nối lại các đầu xương cho khéo, lại phải khâu những miệng vết thương cho khéo, có khi phải đứng suốt đêm, đứng cho đến sáng cũng chưa xử lí xong, phải chịu đói, chịu mệt, thậm chí không đi vệ sinh được. Quá trình nhẫn nại ấy so với việc thi viết ở trường rất khác nhau!

Quá trình tu hành trong đời của chúng ta cũng giống như thế. Đọc kinh Phật, làm công quả sáng tối lại khổ cực trăm bề. Theo kinh mà thực hành lại càng khó hơn, thường là không đúng hợp, té chảy máu đầu cũng cứ tiếp tục theo đó mà làm. Nói chung, các loại quá khứ ví như đã chết hôm qua, các thứ sau này ví như mới sinh hôm nay. Ngay khi tà tri tà kiến trong lòng “chết” thì chánh tri chánh kiến “sanh”. Phiền não vọng tưởng tiêu mất rồi thì pháp thân tuệ mạng bừng phát.

May mắn thay, trong quá trình, tôi gặp được bậc thầy tốt, giống như khi lâm sàng gặp được vị giáo sư giỏi. Chư vị ấy thường biết vận dụng cơ duyên để đưa ra các khảo đề, giúp chúng ta bồi dưỡng thực lực. Khi gặp cơ duyên thuận tiện, chư vị cũng vận dụng kinh nghiệm tu hành của chính mình, dùng những lời chỉ dạy thích đáng mà giúp chúng ta qua cửa khó khăn.

Hai vị ân sư tu sĩ của tôi là hai Tỳ kheo ni theo lão Hòa thượng Quảng Khâm tu hành gần hai mươi năm. Hai vị thường nêu ra những lời khai thị và khảo đề của lão Hòa thượng Quảng Khâm. Lão Hòa thượng không những có công phu tu chứng rất cao, mà còn là thiên tài về giáo dục. Ngài đưa ra các khảo đề mà học sinh chưa sẵn sàng giải đáp. Người bình thường không để tâm đến đạo Phật, khi gặp phải khảo đề này, nhất định phải khóc hu hu. Nếu như Ngài báo trước rằng bạn sẽ bị khảo hạch thì đương nhiên bạn sẽ đề cao cảnh giác, nhưng vấn đề là Ngài không chịu báo trước cho bạn biết mà cứ vào lúc ấy là Ngài đem hoàn cảnh ngay đấy ra mà sát hạch, để xem thực lực của bạn như the á nào khi bạn không chuẩn bị. Tôi thường nghe hai vị ân sư nói về quá trình tu hành của chính mình. Tôi thường rất cảm động, so với hoàn cảnh và khảo đề của hai vị thì khảo đề của tôi thật quá đơn giản.

Nếu như ở nhà trường chúng ta bị sát hạch bằng đề đúng sai, thầy giáo đưa ra đề rằng: Qua ngã tư đường, thấy đèn đỏ thì hãy qua luôn, thấy đèn xanh thì hãy dừng lại. Đương nhiên bạn sẽ hiểu phải đánh dấu X và biết rằng thầy giáo đang sát hạch bạn có biết luật lệ giao thông không. Nhưng nếu trong đời sống thực tế, có người cố ý bóp méo sự thật hoặc làm cho sự việc sai khác đi thì liệu chúng ta có phát hiện được rằng mình đang bị sát hạch bằng đề đúng sai không? Và liệu chúng ta có đủ sáng suốt bình tĩnh mà trả lời như trước chăng? Nếu như trong đời sống chúng ta không phát hiện được chúng ta đang bị sát hạch bằng đề đúng sai, thì có thể chúng ta rất buồn khổ, có cảm giác đâu đâu cũng không có đạo lí, và rất đáng giận, không thể chịu đựng nổi. Như thế là không đáp ứng được cuộc sát hạch. Trong cuộc khảo hạch ở đời, mọi người chúng ta đều giao nộp bản thành tích của mình. Cùng một đề của thầy, đáp án của mỗi học sinh đều không giống nhau. Thành tích của mỗi người đều không giống nhau. Ví như một bà cụ quở trách bọn con dâu, mỗi người dâu nghe xong đều có cách suy nghĩ không giống nhau. Cách suy nghĩ của mọi người khác nhau nên đáp án của mỗi người đưa ra không giống nhau, thành tích mỗi người đạt được không giống nhau. Bà cụ có thành tích của bà cụ, các người dâu có thành tích của người dâu. Đề khảo hạch tự nó không có chỗ tốt xấu có thể nêu ra được nhưng tâm tình của mỗi người được khảo hạch không giống nhau, đáp án của mỗi người cũng có trình độ khác nhau. Thế gian này là một nơi tuyển chọn Phật, các việc lớn nhỏ trong sinh hoạt bình thường là những cuộc khảo thí lớn nhỏ. Do đó, trong cuộc thi tuyển, người được trúng tuyển thì được vãng sinh Tây Phương thành Phật.

Ân sư bảo tôi: lão Hòa thượng Quảng Khâm thường cứ vào sáu giờ sáng, thì đi kinh hành trong chùa để xem xét. Ngài thường lặng lẽ quan sát xem người nào chuyên chú lạy Phật, niệm Phật, người nào dụng công ít ỏi. Ngài tìm vị đệ tử nào dụng công nhiều nhất, bất kể như thế nào, Ngài mắng cho một trận, thậm chí nói những điều oan ức. Lão Hòa thượng thực hiện kỹ xảo lại rất cưỡng áp. Nếu người đệ tử ấy động tâm, thậm chí giận dỗi, thì Hòa thượng mỉm cười lắc đầu mà nói: “Ta tưởng đâu ông dụng công nhiều, ta mới nói có mấy câu như thế mà đã không chịu được. Ôi, công phu còn cạn cợt!”

Nếu lão Hòa thượng không nói câu cuối cùng này, có thể người đệ tử bị quở trách không thể nghĩ sao cho được. Đây là một đề khảo hạch. Vì không phát hiện đây là đề khảo nên không biết Hòa thượng làm như thế là muốn xem đáp án chúng ta giao nộp như thế nào; không biết Lão Hòa thượng muốn xem chúng ta hiểu và hành Phật pháp như thế nào nên Ngài mới bày ra hoàn cảnh như thế. Vì cứ một mực không biết cho nên gọi là “bất giác”. Không có tâm luôn giác tỉnh tức là vô minh, hồ đồ. Phật là bậc giác ngộ, chúng ta không luôn giác tỉnh, chính vì chúng ta không học Phật. Đức Phật A Di Đà là “Vô Lượng Giác”, chúng ta thường bất giác vì không niệm Phật. Tuy sáng sớm thức dậy làm công quả, làm đến nửa ngày thì lại “bất giác”. Đó là uổng phí công phu, dù cho có đọc sách lắm công phu, thì cũng không được trúng tuyển?

Có một vị cư sĩ nghe tới đây thì rất vui mừng nói với tôi: “Như thế thì tôi biết rồi! Thầy tôi cũng thường dậy rất sớm mà quở trách tôi, quở đông quở tây, quở rất oan uổng, tôi rất oán giận. Không biết đời trước tôi nợ ông bao nhiêu lời trách mắng? Nay tôi biết rồi, tôi xem ông như Lão Hòa thượng Quảng Khâm, sáng sớm đi xem xét, ra đề khảo hạch cho tôi, như thế thì tôi rất sung sướng. Tôi lấy đề đó mà nghiên cứu, rất vui mừng mà đến Tây Phương!”

Vị nữ cư sĩ này quả thực có giác tính, nghe xong công án của chuyện xưa, liền có thể lấy đó mà tự dụng, quay thẳng về tự tính. Người mà tôi kể chuyện (Lão Hòa thượng Quảng Khâm) không giống như người mà bà đã nghe (vị thầy của cô ta). Người có thể áp dụng khảo cổ đề một cách linh hoạt, tất nhiên có thành tích ưu tú!

Có thể chúng ta vào buổi sáng sớm đọc kinh Kim Cang -”phàm những gì có tướng thì đều là hư vọng”, “không nắm giữ tướng thì như như bất động”. Đọc kinh như thế cũng chỉ như có người mắng quở chúng ta rất dữ, lại mắng quở một số điều oan uổng. Thế rồi chúng ta liền gạt bỏ kinh Kim Cương ra một bên mà cho rằng cảnh giới này là thực, rồi bắt đầu đau lòng ấm ức, chẳng nhớ chút gì là hễ có tướng đều là hư vọng, bắt đầu theo với tướng hư vọng mà quay chuyển; không những nắm giữ tướng mà còn dao động tâm, không những dao động tâm, lại còn làm thương tổn tâm, chẳng hiểu chút gì là “như như bất động”. Cho nên đọc kinh hằng mấy chục năm, khi gặp khảo hạch mà ứng dụng đề thì đành chịu thua. Nếu như người ta bảo, chúng ta học Phật đều là kẻ dối gạt người, không thật lòng mà học; chúng ta nghe xong liền không chịu chấp nhận; cũng như khi mới bị sát hạch, người ta không đánh mà mình đã tự thú. Quả thực chúng ta chẳng học được chút gì về việc hiển lộ những lời Đức Phật đã dạy chúng ta. Nhẫn nhục Ba la mật gì thì hãy gác một bên, nay hãy biện luận trước một chút, khóc một cái rồi hãy nói.

Có một cư sĩ rất dễ thương, nói với tôi anh đã từng ăn trái Ba la mật (tức trái mít) lần đầu tiên trong đời. Câu chuyện khiến cho tôi rất cảm khái. Anh kể: Anh đi làm việc ở trên núi, nghe người ta nói Ba la mật rất tốt, một trái một ngàn đồng, anh liền mua một trái thử xem sao. Anh lại nghe nói Ba la mật có mủ rất dính, cần phải bôi dầu. Anh không biết là phải bôi dầu vào dao, rồi dùng dao có bôi dầu mà cắt thì dao không dính mủ. Anh dùng dao cắt thẳng vào trái ba la mật, cắt tới đâu bị dính tới đó, dính cả tay, cả người rửa không sạch. Anh bèn nói: “Dính tay, dính chân tức muốn chết! Nếu không nghĩ đến đã mua quá dắt tiền thì tôi đã ném nó vô thùng rác cho khỏi mất công!”. Anh còn tưởng rằng khi ăn trái ba la mật thì nhúng dầu vào mà ăn. Kết quả là ăn phải dầu rất khó ăn.

Anh bạn cư sĩ ấy kể lại cho nghe chuyện ăn trái mít (Ba la mật), đây quả thực là giống như quá trình tu hành của chúng ta. Ý của việc bôi dầu lên dao chính là để dầu không dính dao. Chúng ta không biết dao cần phải bôi dầu tức là không biết trí tuệ cần phải không chấp trước. Kết quả là chỗ nào cũng chấp trước, quả là “dính tay, dính chân, tức muốn chết”. Ba la mật gì cũng bị bỏ đi! Thứ dầu không dính dao này là cái trí tuệ dạy chúng ta không chấp trước. Cái mà mỗi con dao đều cần hoàn toàn không phải là để cho người ta nhúng dầu vào mà ăn. Trí tuệ ở trong kinh Phật là thứ mà hàng ngày mọi nơi đều cần dùng, hoàn toàn không phải là thứ trang sức bên ngoài.

“Quí vị hãy xem! Đây là người cố làm mặt bên ngoài giỏi nhất!”.

Khảo đề mà lão Hòa Thượng đưa ra thì thiên biến vạn hóa. Ân sư của tôi kể cho tôi nghe rằng, hồi đó chùa Thừa thiên được xây trong núi sâu, việc xây cất rất khó khăn. Mọi người đều phải tự gánh đất, khiêng gạch thậm chí làm việc đến toàn thân phải ngâm trong bùn. Lão Hòa Thượng khuyến khích mọi ngươiø nên một mặt thì làm việc, một mặt thì niệm Phật, huấn luyện công phu niệm Phật trong sự xao động. Một hôm có nhiều vị pháp sư, Đại Đức đến bái kiến Lão Hòa Thượng. Lão Hòa Thượng sai người đến chỗ làm việc gọi ân sư về để phiên dịch. Khi ân sư tôi vừa mới bước đến phương trượng, Lão Hòa Thượng liền nói với các Pháp sư đang ngồi đó: “Quí vị hãy xem! Trong toàn thể chùa Thừa Thiên chúng tôi, đây là người cố làm mặt bên ngoài giỏi nhất! Quí vị xem kìa, cô ta làm cho toàn thân đều dính bùn, chính là nhằm để người ta nói rằng, cô ta làm việc rất khổ nhọc!”. Mọi người nghe Lão Hòa Thượng nói như thế, hẳn không có ai là không tin. Các vị Pháp sư đang ngồi đây có người nghe xong liền nói với ân sư tôi: “Hả? Lão Hòa Thượng bảo rằng cô cố làm mặt bên ngoài, như thế là không tốt đâu!”. Ân sư tôi nghe xong liền quì xuống hướng về phía mọi người mà nói: “ Đúng thế, đệ tử cố làm mặt bên ngoài, đệ tử xin sám hối, cải lỗi”.

Bấy giờ tôi nghe ân sư nói thế thì nước mắt tôi tuôn trào, trong lòng rất cảm động. Tôi tự phản tỉnh: Nếu lão Hòa Thượng nói tôi như thế, lại nói với mấy vị Pháp sư như thế, tôi nghe xong thì nhất định cho đó là thật, lại cảm thấy rất khó chịu . nhưng ân sư tôi lại có giác tính, lúc nào cũng hiểu rõ, đấy là một cuộc khảo hạch, giống như đang thi với loại đề đúng sai, bà rất bình tĩnh, nếu rõ những gì cần phải đáp, rồi giao trình bài giải đáp của bà.

Chúng ta không biết đây là người đang khảo hạch, nên cứ theo khi tình thông tục của mình mà giao nộp một bài giải đáp tệ hại. Như thế này thì tại nơi tuyển Phật chúng ta chuẩn bị được mấy phần chứ?

Chúng ta thử nghĩ xem, nếu có người mắng trách chúng ta trước mặt mọi người rằng chúng ta làm ra vẻ bề ngoài thì nghe xong chúng ta liền tỏ vẻ không phục. Như thế chính là không bị đánh mà tự thú. Vì một khi giận dỗi là tỏ ra trong lòng chưa được quán chiếu. Người ta chỉ nói một câu mà chúng ta đã sinh phiền não, điều này chứng minh rằng công phu tu hành nội tâm của chúng ta hoàn toàn chẳng có gì, có chăng chỉ có bề mặt bên ngoài mà thôi. Mọi thứ công việc là đều nhằm giúp chúng ta cơ hôïi mượn cảnh để luyện tâm. Nếu chúng ta không hiểu rõ được ý nghĩa này mà khéo lợi dụng hoàn cảnh trong công việc để hàng phục cái phiền não tham, sân, si, mạn của tự mình thì mọi công việc được làm như thế quả thực chỉ là mặt ngoài, chẳng có công phu thực tế gì.

Nếu người ta phê bình chúng ta không đúng mà chúng ta tỏ ra không vui thì điều này biểu lộ rằng động cơ khiến chúng ta làm việc còn có cái tâm mong người khác khen ngợi đang tiềm ẩn bên trong. Như thế là nội tâm chẳng có chút gì là thanh tịnh. Nếu nội tâm không thanh tịnh được thì dù có làm những công việc lớn lao bao nhiêu cũng chỉ đều có mặt ngoài mà thôi. Lời dạy của Lão Hòa Thượng chính là sự đề tỉnh rất tốt khiến cho chúng ta tự phản tỉnh, xem chúng ta có thực hiện công phu nội tâm chân thực hay không. Nêu như chân tâm tu hành, nội tâm được quán chiếu thì sẽ không bị người khác bảo mình làm mặt ngoài mà sanh phiền não. Nếu nội tâm nóng giận thì quả là chỉ có làm mặt ngoài mà thôi. Lời phê bình của người khác quả là vô cùng chính xác.

Ân sư kể rằng, vào lúc đang xây dựng chùa Thừa thiên, mọi người đều hợp sức làm việc không ngừng. Một hôm, trong lúc mọi người rất mệt mỏi vì cả ngày phải làm việc hì hục trong đất bùn, Lão Hòa Thượng bỗng đưa ra một cái hộp lớn đựng đủ các loại đinh sắt đã trộn lẫn với nhau và bảo mọi người đem hộp đinh này mà lựa riêng ra từng loại lớn nhỏ, theo kích cỡ khác nhau. Ân sư tôi kể rằng, bấy giờ bà chợt nghĩ: “Chà! Lão Hòa Thượng, sao mà Ngài lại chọn trong lúc mọi người quá mệt mỏi như thế này mà bảo người ta đi lựa đinh chứ?”. Thế nhưng Lão Hòa Thượng vẫn tỉnh bơ sắc mặt, nói: “không lẽ đến khi chết còn để cho cô chọn thời gian sao?”. Bấy giờ ân sư tôi vội quì xuống, hiểu ra được ý tứ của Lão Hòa Thượng mà đáp lại: “Đệ tử xin đi lựa đinh đây”. Sau đó bà mới cố sức, phấn chấn tinh thần, lựa đinh phân ra từng cái, theo lớn nhỏ mà xếp thành loại. Lựa đến nửa đêm thì xong, bà đến báo cáo với Lão Hòa Thượng: “Đệ tử đã phân loại đinh xong xuôi rồi”. Lão Hòa Thượng nói: “Lựa cũng là việc của cô, không lựa cũng là việc của cô!”

Chúng ta không có cách gì để chọn cho được lúc sắp chết nhằm vào lúc chúng ta thong thả. Bất kể ba mươi tuổi thì chết, hoặc tám mươi tuổi mới chết, nói chung đó là một ngày già nhất, mệt nhất trong cuộc đời. Cho nên bình thường chúng ta nên luyện tập không kể lúc đau khổ mệt nhọc nào, chúng ta đều phải chánh niệm rõ ràng.

Chúng ta đều biết, lão Hòa thượng vốn là người suốt đêm có thể ngồi ngoài trời. Ngài vốn không cần phải xây chùa miếu gì. Có thể nói Ngài xem việc xây chùa miếu là công cụ giáo dục và dùng công cụ ấy để đào luyện đệ tử .

Phụ chú:

Cần đặc biệt chú ý, việc tổ chức xây dựng chùa là do Lão Hòa thượng đại Bồ Tát bày biện, là một sự giáo dục đặc thù dùng cho những căn cơ đặc thù, không thể xem như lệ thường. Vì người ta thường nói: Theo giới của Phật và Kinh Di Giáo thì không được vì tư lợi mà khiến người xuất gia tham gia việc nhà đất, cuốc đất khai hoang, đốn chặt cây cỏ và thực hiện việc buôn bán. Thiền sư Đạo Xước đời Đường từng phạm vào chuyện dưới đây nên bị chướng ngại về việc vãng sinh.

1) Đặt tượng Phật dưới cửa xổ thềm nhà, dành cho mình chỗ tốt ở phòng sâu bên trong (phải cầu sám hối mười phương Phật) (do vì coi trọng mình, xem nhẹ Phật).

2) Sai khiến người xuất gia (phải cầu sám hối chư tăng bốn phương) (do vì không tôn kính Tăng Bảo).

3) Xây dựng nhà cửa, làm tổn thương sanh mạng côn trùng (phải cầu sám hối mười phương chúng sanh) (coi trọng lợi riêng, xem nhẹ tính mạng chúng sanh).

Vì ba tội trên làm tổn hại tâm Bồ Đề, lại tạo thành chướng ngại cho việc vãng sinh Tây Phương. May nhờ Đại sư Thiện Đạo do nhập định mà biết được chuyện ấy của Thiền sư Đạo Xước, khuyên Thiền sư theo đúng pháp mà sám hối tội lỗi. Thiền sư Đạo Xước tuân kính nghe theo, tự xét mình có lỗi như thế, nên nhất nhất rửa tâm mà phát lộ sám hối. (Bấy giờ Thiền sư Đạo Xước đã tám mươi tuổi). Sau khi sám hối xong, Thiền sư Đạo Xước thấy có ánh sáng trắng chiếu rọi, và chư vị Hóa Phật, Bồ Tát hiện ra tướng lành, diệt tội giữa không trung, bấy giờ mới thuận cho việc vãng sinh. Cho nên phải biết rằng, sai khiến người xuất gia xây chùa, chẳng những người phàm phu như chúng ta sơ suất mà bậc hiền như Thiền sư Đạo Xước cũng bất cẩn mà phạm lỗi, phải chịu chướng ngại và chân thành sám hối huống chi là phàm nhân chúng ta?

Chúng ta nghe chuyện xưa, hoặc xem khảo cổ đề thi nên nắm lấy những trọng điểm mà học tập, chớ nên học sai phương hướng. Ví như một con dao mà ta không biết cách dùng, tay nắm lưỡi dao, cắt đồ vật bằng cán dao, tất nhiên tự hại mình mà không lợi cho ai. Các trọng điểm của khảo cổ đề nêu ra dạy cho chúng ta rằng, bất luận làm việc gì cũng nên mượn sự việc mà luyện tâm, từ bỏ tham, sân, si, mạn, nghi là năm loại phiền não lớn đáng bỏ đi, và đề khởi chánh niệm, vứt bỏ ngã chấp, chứ hoàn toàn chẳng hề dạy chúng ta xây chùa miếu, hoặc mưu tính làm việc này việc nọ, lại càng không phải là khích lệ mọi người nên dùng cách xây dựng chùa miếu để huấn luyện đệ tử. Chúng ta quyết không nên nhầm lẫn. Vì điều khiến chúng ta thành hay đọa lạc đều là do vấn đề “dụng tâm”, chứ không phải vấn đề làm nên “sự nghiệp” gì, cho nên trọng điểm của tu hành cũng chính là ở sự luyện tâm, làm cho tâm trong lắng. Do khéo dùng tâm, khéo điều phục tâm, xả bỏ cái tâm chấp trước vọng tưởng, chạy theo chân tâm của Phật, khai mở Phật tính thì mới có thể phát huy diệu dụng “tịch lặng mà thường chiếu sáng, chiếu sáng mà thường tịch lặng”, thành tựu mọi sự hóa độ chúng sanh.

Nếu như tu hành mà sai, đặt tiêu điểm ở sự thành tựu “sự việc”, hoặc đặt ở “cảm nhận thành tựu” của chính mình (gia tăng ngã chấp), mà không chịu đặt tại sự trong lặng của tâm xả bỏ vọng qui về chân, thì như thế việc tu hành sẽ trở thành pháp thế tục hữu vi, làm nô lệ cho sự tướng ảo hóa, tối đa cũng chỉ được phước báo hữu lậu ở thế gian, chứ không được cái lợi ích thâm diệu siêu thế gian. Nếu làm việc mà trong lòng còn chứa năm loại phiền não lớn thì phước báo do tu hành chỉ được hưởng trong ba đường ác. Cho nên phải chú ý dụng tâm thì mới không bận bịu suốt cuộc đời, mà chỉ hưởng được phước báo ở ba đường ác.

Thường thường khi chúng ta đang quá mệt mỏi mà có người bảo chúng ta làm việc gì đó thì có thể chúng ta có cảm giác rằng người ấy rất là vô lý, rất là không tế nhị. Nếu chúng ta đang ngủ ngon mà bị người ta gọi dậy làm việc thì có thể chúng ta bực bội, cau có với người ấy. Nhưng lão Hòa Thượng thường đào luyện đệ tử lại không như thế! Đương nhiên có người không thích, không vui, không hiểu việc đào luyện của Lão Hòa Thượng, nên tự mình đi ngủ trước cho rồi. Nhưng lại có người hiểu rõ tu hành chính là đào luyện tự mình, thường luôn giác tỉnh. Người ấy không cần biết sự việc là hữu lý hay vô lý, cứ việc nêu cao chánh niệm, thực hiện việc đào luyện mà mình phải thực hiện, giao nộp bài đáp mà mình phải giao nộp. Lão Hòa Thượng nói: tu hành không phải là ở chổ thảo luận xem sự việc là vô lý hay hữu lý, mà chính là xemkhi bạn gặp hoàn cảnh, bạn có thể nhẫn nại hay không nhẫn nại!

Chúng ta cần chú ý lời nói của Lão Hòa thượng: Lựa cũng là việc của cô, không lựa cũng là việc của cô. Quả thực đến Tây Phương cũng là việc của bạn! Bạn phải thường đề khởi tinh thần, chánh niệm rõ ràng, đó cũng là việc của bạn. Bạn muốn hồ đồ trong mập mờ, vọng tưởng phiền não cũng là việc của bạn.

Trong khi tôi bệnh rất thống khổ, ân sư tôi đến bên giường, kể cho nghe sự khai thị của lão Hòa Thượng và quá trình tu hành của chính ân sư. Tôi nghe xong thì rất cảm động, bèn trở nên hăng hái mà niệm Phật, bởi vì niệm cũng là việc của tôi, không niệm cũng là việc của tôi. Cần niệm Phật để vãng sanh Tây Phương là niềm hạnh phúc giải thoát của tôi. Không niệm Phật để phải thống khổ luân hồi đó cũng là việc của tôi, cũng là chính tôi phải chịu khổ.

Chúng ta đều là kẻ phàm phu chưa thành tựu được sức nhẫn nại, trong lúc thân tâm chịu bao nhiêu thứ khổ nhọc, tuy biết rằng đây chỉ là nghiệp báo mà ta phải chịu nhận, cũng không thể an nhiên mỉm cười. Khi chúng ta không chịu đựng được, chúng ta chỉ cần đề khởi tín nguyện. Cũng giống như nửa đêm canh ba phấn chấn tinh thần, đem đinh ra mà lựa, nêu cao tín tâm nguyện lực mà niệm Phật, nhất định chúng ta về đến Cực Lạc Tây Phương. Con đường này là con đường không ngừng để khởi tín tâm nguyện lực, đó chính là con đường lấy thống khổ chuyển thành hoa sen rực rỡ.

Có người đến chùa miếu yêu cầu sư phụ đánh hương bản để tiêu trừ nghiệp chướng. Ân sư tôi bèn nói, nếu chính mình yêu cầu người khác đánh hương bản thì trong lòng đã có chuẩn bị, đương nhiên khi bị đánh, trong lòng không sinh phiền não. Nếu không có chuẩn bị mà bất ngờ bị người ta đánh một cách vô lý thì đây mới là sự khảo nghiệm, mới có thể hiểu rõ được trình độ và sự phiền não của chính mình. Cho nên ân sư tôi mới quì xuống khẩn cầu Lão Hòa Thượng từ bi, giúp bà phá bỏ cái phiền não “ngã tướng”. Lão Hòa Thượng nghe xong liền nói “Tốt, tốt, tốt!”, nhưng ân sư tôi cũng chẳng hề phải biết phải làm sao. Mỗi ngày bà đều quì khẩn cầu Lão Hòa Thượng, Lão Hòa Thượng vẫn cứ nói: “Tốt, tốt, tốt”, nhưng chẳng có động tịnh gì. Ngày tháng trôi qua, ân sư tôi lại bận nhiều việc nên dần dần quên đi.

Một hôm, rất nhiều quan viên chính phủ, giáo sư đại học Đài Loan, nữ giáo viên Bắc Nhất đến chùa Thừa Thiên bái kiến Lão Hòa Thượng. Lão Hòa Thượng bèn gọi ân sư tôi đến phiên dịch. Khi ân sư tôi bước vào, theo thường lệ cùng mọi người niệm A Di Đà Phật, khi chắp tay chào hỏi, bỗng nhiên Lão Hòa Thượng dùng động tác rất khoa trương cổ quái, và chắp tay nói: A Di Đà Phật! Ân sư tôi chợt thấy hôm nay khác mọi khi, vội vàng chạy tới quì trước Lão Hòa Thượng. Lão Hòa Thượng nói: “ Ở đây có đông đảo tại gia cư sĩ, cô quì như thế và muốn làm mất phước của người ta à?ø”.

Ân sư tôi không dám quì nữa, liền vội vàng đứng lên.

Lão Hòa thượng lại nói: “Cô gan quá! Dám đứng cao hơn thầy ư!”

Đến nước này, quì cũng không được, đứng cũng không được, muốn đứng ngang thầy, ngồi ngang thầy lại càng không được, thật là khiến người ta không biết phải làm sao cho đúng.Hôm ấy, có rất nhiều người đến xin qui y. theo lệ thường, các chứng điệp qui y đều do ân sư tôi đảm trách, hoặc do các vị khác thay Lão Hòa Thượng điền tả chọn pháp danh. Nhưng hôm ấy, Hòa Thượng lại nói với mọi người: “Các vị xem kìa! Cô ta tự đứng ra chủ trương, các chứng điệp qui y đều do cô ta viết, chẳng kể gì tới ai, trong lòng có chút gì tôn trọng sư trưởng đâu. Các vị muốn thỉnh tôi tác chứng qui y hay là muốn thỉnh cô ta?”.

Ân sư tôi nghe xong không dám tiếp tục viết nữa, vội vàng lấy các chứng điệp qui y sửa lại, rồi đưa đến trước mặt Lão Hòa Thượng. Lão Hòa Thượng lại nói: “Hả? Ta mới nói có hai câu mà đã sinh phiền não, không chịu ghi chép nữa! Lại một mực đòi ta phải ghi chép!? Cả chồng lớn thế này làm sao ta viết nổi, làm sao ta chọn pháp danh cho được! Hay chọn pháp danh là Truyền Viên (tròn)? Truyền Biển (dẹp)? Truyền Hàn (mặn)? Truyền cam (ngọt)? Đột (lồi)? Truyền Ao (lõm)?”. Nói ra cũng thật là thú vị, Lão Hòa Thượng quả là có công phu tu hành. Mọi người được Ngài đặt pháp danh là Truyền Hàm, Truyền Cam... ai cũng rất vui mừng.

Bấy giờ ân sư tôi không biết phải làm sao. Thế này cũng không được, thế kia cũng không được, bà chịu không được, nước mắt tuôn trào.

Lão Hòa Thượng lại nói với mọi người: “Quí vị xem kia! Nói với cô ta hai câu mà cô ta đã trào nước mắt, chắc là muốn làm cho mọi người thương hại đó!” trào nước mắt cũng không được, ân sư chỉ còn cách nhắm mắt lại, hít vào một hơi dài, niệm Phật, bắt đầu tư duy quán tưởng không có một “người” đang mắng trách ta, cũng không có một cái “ta” đang bị người mắng trách. Cũng không có “Câu mắng trách của người” Tam luân thể không).

Lão Hòa Thượng lại nói: “Các vị xem! Cô ta đang ở đó, mắt quán mũi, mũi quán tâm, làm bộ như có tu dữ lắm!”. Mọi người đang có mặt tại đó đều chưng hửng, tất cả đều đổ vào nhìn bà. Ân sư tôi kể, lúc đó bà muốn tìm một cái hang để chui vào, và cũng muốn chạy trốn cho xong.

Nhưng Lão Hòa Thượng lại nói: “Chạy đi đâu? Đứng lại nào!”. Quả là khởi tâm tức là sai, động niệm tức là bậy, không biết phải làm sao cho đúng, cũng phải chịu đựng thôi.Nhưng đến khi thời tiếp khách đã qua, Lão Hòa thượng lại điềm nhiên như không có chuyện gì, bình tĩnh cười hì hì, mang sữa đến cho ân sư tôi và nói: “Cho cô uống đó”.

Đến giờ tiếp khách chiều, thì Lão Hòa Thượng lại làm như hồi sáng, mở đầu thế này cũng không đúng, chê thế này, chê thế nọ, chê đến nỗi người ta phải làm sao cho đúng. Nhưng đến khi xong thời tiếp khách thì Ngài lại coi như không có chuyện gì.

Ân sư tôi còn nhớ: “Suốt cả ngày hôm nay, quả thực không biết mình đã phạm lỗi gì mà cái gì cũng bị Lão Hòa Thượng quở mắng?”. Trong lòng ân sư tôi khởi ý: “Ta phải đi hỏi xem, xem rốt lại có cái gì không đúng!”. Bà nghĩ như thế bèn đi đến phòng phương trượng gõ cửa và bước vào. Lão Hòa Thượng thấy bà đến, làm bộ như giật mình, lấy tay vỗ vào ngực mà nói: “Ai đó, hãy xóa bỏ cái phiền não “ngã tướng” cho cô ta đi. Vừa mới nói với cô ta có hai câu, cô ta đã đòi đi hỏi xem sao! Nếu đánh cô ta bằng hương bản há cô ta không đi gọi cảnh sát sao!?”. Mới vừa khởi lên một niệm tâm bất mãn, muốn “hỏi xem sao!” đã bị Lão Hòa Thượng thu mất làn sóng điện, chư Phật mười phương, chúng ta có niệm tâm nào che mắt được Thánh hiền chăng?

Ân sư tôi nghe Lão Hòa Thượng nói thế thì trong lòng liền hiểu rõ. Thì ra Lão Hòa Thượng từ bi đáp ứng lời thỉnh cầu của mình mà đưa ra khảo đề! Nghĩ thế ân sư tôi bèn quì xuống sám hối, cảm ơn. Lão Hòa Thượng lại nói: “Ta hỏi cô! Pháp danh của cô có phải do ta chọn chăng? Ta đặt pháp danh của cô là Truyền Tịnh, thì cô chính là Truyền Tịnh. Ta gọi cô là Truyền Duyên thì chính cô là Truyền Duyên. Nếu một hôm nào cô chết đi, ta gọi cô là Truyền Tịnh, cô hồi đáp được chăng? Lớp da trên mặt này nếu bị lột đi, thì phần dưới là cái gì chứ? Cái mặt dễ thương như thế này! Cái gì là ngã? Cái gì là mặt mày?”.

Chúng ta thường phân biệt rõ “mặt mũi” là cái gì, “ngã” là cái gì, mà cứ mãi bảo vệ, một mực nắm giữ. Khi bình tĩnh tự hỏi mình “ngã” là cái gì thì lại không biết rõ chân tướng. Suốt cả đời làm việc hồ đồ không phải vì chân ly ùmà chỉ vì mặt mũi, chẳng biết suy nghĩ được cái gì?

Chúng ta thường đọc kinh Kim Cương “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” (không có tướng về tôi, không có tướng về người, không có tướng về chúng sanh, không có tướng về người thọ mạng), và “nếu Bồ Tát mà có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì đó không phải là Bồ Tát”. Đọc kinh là đọc như thế, nghe kinh là nghe như thế. Khi nghe thì giống như là giải thoát tự tại, nhưng khi khảo đề được đưa ra, có người ghét chúng ta, y trách mắng chúng ta, thì chúng ta liền bảo vệ ý nghĩ của mình, thậm chí rất bực bội. Trong lòng có cái quan niệm về “ngã”, cảm thấy cái “ngã” bị người ta trách mắng, đó chính là ngã tướng, nhân tướng đều biểu lộ ra. Ngoài việc chứng minh chính mình là kẻ phàm phu đáng thương, chẳng hề là Bồ Tát, thật là vô ích vậy.Đâu đâu người ta cũng bảo vệ một cái “ngã”. Ta mới bị người ta hiềm ghét đã cảm thấy không còn mặt mũi nào, không thoải mái, hy vọng người khác quan tâm ta, tôn trọng ta, công nhận ta tốt. Như thế là bồi dưỡng ngã tướng và ngã chấp. Đức Phật dạy chúng ta phải phá bỏ những thứ ấy, mà hàng ngày chúng ta phải bồi dưỡng chúng, lại cho rằng mình đang học phật. Kỳ thực hằng ngày chúng ta xướng ngược điệu, cãi lại với Phật; có điều chúng ta rất ít khi tự mình phát hiện được điều này, mà chỉ nghĩ đến mặt mũi của chính mình. Điều này chẳng cần ai dạy bảo, ngay đứa trẻ con cũng biết. Chúng ta có thể hiểu rằng, nếu cha mẹ chúng ta la mắng anh em chúng ta mà không phải là la mắng chính chúng ta, thì chúng ta không cảm thấy bực bội lắm. Giả như đó là la mắng chính chúng ta thì chúng ta lại bực bội. Nếu sáng nay ông chủ của bạn la mắng các đồng sự của bạn mà không la mắng bạn thì nghe xong bạn cảm thấy mất mặt. Như thế đủ biết khi la mắng đến cái “ngã” của ta thì vấn đề “ngã” không phải là vấn đề của nội dung của sự la mắng.

Lão Hòa Thượng dùng phương pháp thiện xảo đưa “bệnh” ra, để chúng ta cảnh giác mà sửa đổi.

Nếu chúng ta không tự phát hiện ra chính mình đang chấp trước một cái “ngã”, không phát hiện ra bệnh của chính mình thì không có cách gì để trừ loại nó. Lòng từ bi, sự khéo léo và việc dạy dỗ của Lão Hòa thượng chính là nêu rõ ra cái bệnh của chúng ta, khiến chúng ta đối mặt với cái bệnh chấp trước của chính mình để chúng ta cải tiến và phá trừ nó.

Người ta mắng riêng chúng ta, chúng ta còn cảm thấy bực bội thay, huống chi Lão Hòa thượng lại chọn nơi rộng rãi, có đông người lại có cả quan chức, học giả thì mới cố ý trách mắng này nọ, trách mắng để cho bạn hiểu ra rằng, khởi tâm là sai, động niệm là bậy, ngay đó thì ngoài việc niệm Phật, không phân biệt, không chấp trước, không ngã tướng, không nhân tướng, quả thực không còn cách gì khác. Người “hiểu” thì ngay đó liền xả bỏ vọng, qui về chân thông đạt đạo lớn, bỏ ta bà, chứng Cực Lạc. Người “không hiểu” thì ngay nơi cái giả tướng hư vọng lại tăng thêm cái phân biệt hư vọng, kết quả là một cơn ác mộng hư vọng. Như thế thì ngoài cái lao khổ vì sinh tử, chẳng biết được cái gì thêm!

Mỗi lần ân sư tôi kể cho tôi nghe về việc Lão Hòa Thượng đã khảo nghiệm, chỉ dạy bà, tôi thường phải cười, lại phải khóc, phải cảm động, phải hổ thẹn, sám hối. Cười là vì rất vui mừng có nhân duyên gặp được sự khai thị như thế, có cơ hội thấy rõ bệnh của chính mình. Khóc là vì tự mình cũng không giác tỉnh, vẫn bị ngã tướng xoay chuyển; tôi cảm động vì ân sư tôi đã ở dưới tòa của Lão Hòa thượng, được Ngài đào luyện gần hai mươi năm. Cách đào luyện bằng các khảo đề như thế, cứ mỗi ngày đổi hình thức, đổi hoàn cảnh mà khảo lui, khảo tới. Cái khí vị ấy chỉ có việc tự thân trải qua hoàn cảnh thì mới có thể hiểu đầy đủ, hổ thẹn là vì, nếu tôi bị khảo hạch bằng các khảo đề ấy thì tôi không thể đáp ứng được.

Nếu một người không hiểu rõ mục tiêu tu hành là “vứt cái phiền não của chính mình, buông sự chấp trước đối với tự ngã, khôi phục Phật tính xưa nay vốn thanh tịnh” thì hàng ngày gặp những khảo đề do hoàn cảnh ắt phải cứ tranh cãi: tôi không có gì sai, vì sao anh lại mắng tôi? Như thế đều là tranh “anh vô lý, tôi có lý”, tranh qua tranh lại, bất quá cũng chỉ là anh và tôi, là vấn đề ai đúng, ai sai, đó gọi là “nhân, ngã, thị phi”. Có khi chúng ta tưởng rằng mình tu pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật, nhưng kỳ thực hầu hết đều là pháp môn”nhân, ngã, thị, phi”: Nếu nói phải niệm Phật thì bảo là khí lực không đủ, dễ bị buồn ngủ; nếu nói phải tranh luận thì rất hăng say, không bị buồn ngủ. Nếu đọc kinh A Di Đa øtức là bảo rằng niệm Phật thì phải nhất tâm không động loạn, đến khi sắp mất tâm không điên đảo. Không cần chi phải nói đến hoàn cảnh nghiêm trọng của lúc sắp chết, của cửa sinh tử; ngay lúc bình thường, người ta hiềm khích chúng ta một cauâ, hoặc trách mắng oan uổng chúng ta giữa đông người, chúng ta liền để cho người ta thấy mình bị “loạn”! Một hôm nào nhận lầm rằng những chuyện nhỏ nhặt của cõi Ta Bà này là rất trọng yếu mà quên Phật đi thì không những chỉ bảo cho người ta thấy mình bị loạn, thậm chí còn tỏ ra cho người ta thấy mình bị “chết”.Đức Phật dạy chúng ta nên thu thập ba thức ăn tín, nguyện, hạnh, nhất tâm niệm Phật, thế mà chúng ta thường tu ba thứ độc tham, sân, si, nhất tâm niệm tự. Như thế chẳng phải là chúng ta cứ chuyên xướng ngược điệu, cãi ngược với lời đức Phật hay sao? Đấy chính là chúng ta nuôi lớn chí khí của người khác mà dệt cái uy phong của chư Phật, chư Tổ! Người ta mới mắng trách chúng ta có hai câu mà chúng ta đã xem nặng như thế; còn Đức Phật giảng kinh bốn mươi chín năm, mong chúng ta tu tập từ bi, nhưng chúng ta lại chẳng xem ra gì. Phải chăng điều ấy biểu lộ ra rằng người trách mắng bạn lại có uy lực hơn Đức Phật? Điều ấy cũng chứng minh rằng người trách mắng bạn là quan trọng, là có sức ảnh hưởng đối với bạn, cho nên một câu trách mắng của người ấy còn vượt hơn cả một bộ Đại Tạng Kinh mà Đức Phật đã giảng dạy. Cứ so sánh sức hấp dẫn ấy mà xem thì phải chăng bạn đã bị người ta kéo vào sáu đường luân hồi? Phải chăng bạn không chịu cho Đức Phật đưa bạn đến thế giới Cực Lạc ở Tây Phương? Hai câu nói của người ta có sức hấp dẫõn đếùn thế nào mà khiến cho bạn quên cả Đức Phật, tâm bạn rối bời!

Bình thường còn như thế, đến khi sắp chết e rằng cũng bị người ta làm cho loạn động. Người ta nói có hai câu đã vượt quá sức hấp dẫn của chư Phật và chư Bồ Tát đến đưa chúng ta đến Hải hội Liên trì! Như thế chính là bạn chọn người ta chứ không chọn Hải hội Liên trì. Như thế thì chớ lấy làm lạ là Đức Phật không từ bi mà chính là bạn không tương ứng với từ bi. Chúng ta cần chú ý, bình thường, khi người hiềm khích chúng ta, trách mắng chúng ta, đó chính là khảo đề được đưa ra để sát hạch cái tín nguyện vãng sanh Tây Phương của chúng ta, xem chúng ta coi Phật là trọng, hay coi nhân ngã thị phi là trọng?

Có người nêu nghi vấn: Lão Hòa thượng trách mắng đệ tử trước mọi người có thể gây hại, tạo nghiệp cho mọi người chăng?

Vì có người không biết rằng Lão Hòa thượng muốn đáp ứng khẩu cầu của đệ tử và “vứt bỏ ngã tướng” nên Ngài mới bày ra cách giáo dục phản ngược”, cho nên rất có thể sinh ra bao thứ hiểu nhầm. Có thể có người cho rằng Lão Hòa thượng trách mắng bừa bãi, không có tu dưỡng, thậm chí cho rằng lão Hòa thượng tạo khẩu nghiệp mà sinh lòng khinh mạn. Có thể có người cho rằng vị đệ tử bị la mắng là không tốt, rồi cứ theo khẩu khí của Lão Hòa Thượng mà đồn khắp rằng người đệ tử ấy không tốt, mà tự tạo tội phỉ báng tăng. Đương nhiên cũng có người hiểu rõ dụng tâm của Lão Hòa thượng mà tán thán. Cũng có người thấy vị đệ tử nhẫn nhục tại đấy mà tự sinh lòng hổ thẹn. Cũng có người nhất tâm niệm Phật, không vì cái thị phi của người khác mà sinh tâm vọng động. Cũng có người nhân đó mà đạt được yếu chỉ bí mật của khảo cổ đề, lấy đó làm chỉ tiêu tu học cho chính mình ...

Trước đây chúng ta đã nói: Thầy giáo ra một đề thi, các học sinh có những đáp án không giống nhau, mỗi người khởi tâm động niệm không giống nhau, các đáp án giao nộp không giống nhau, đương nhiên thành tích của mỗi người cũng không giống nhau!bề ngòai thì Lão Hòa thượng khảo hạch một đệ tử, nhưng sự thật là “đưa ra một đề để mọi người khảo sát!”. Lão Hòa thượng từ bên trong quan sát trình độ của mỗi người, rồi theo đó mà bổ khuyết chỉ vẻ cho thích hợp. Đó là lòng từ bi rất thâm sâu của Lão Hòa thượng. Nếu ngay đó mà Ngài thấy mọi người không hiểu mà tự khởi tâm tạo nghiệp thì đó hoàn toàn là tự chọn giao nộp những đáp án ngu si, ác nghiệp, chứ có ai ép buộc chúng ta phải khởi niệm bất thiện đâu? Đó là khuynh hướng tự tâm của mình vậy!

Mỗi một niệm đều không phải ngẫu nhiên cùng một hoàn cảnh mà dễ sinh lòng khinh mạn, đó chính là người xem trọng tâm kiêu ngạo. Còn xem mà không hiểu cách giáo dục thì đó chính là người không rõ sự lý. Người nhìn mà không hiểu rồi đồn đại, hủy báng loạn cả lên, là người ưa thị phi, ưa tạo khẩu nghiệp. Người nhiếp tâm chánh niệm nghiêm túc là người cung kính cầu pháp. Người có thể lấy thiện làm vị thầy chính diện, lấy ác làm vị thầy phản diện, chính là người có trí tuệ khéo học.

Phật dạy: “Ta trong một niệm nhìn thấy ba đời”. Thực ra, cứ nhìn một niệm sinh ra ngay đó, là biết việc tu hành trong qua khứ tích lũy thế nào; cũng có thể niệm này có ảnh hưởng đối với vị lai. Nay chúng ta gặp hoàn cảnh mà sinh ra tâm niệm như thế nào, cũng đều không phải do người khác ép buộc mà chính là do tâm mình lựa chọn. Cho nên, không nên nói “ai hại chúng ta như thế nào ...”. nếu chúng ta tự nhiếp tâm, kiểm soát tâm mình cho tốt thì ai có thể hại chúng ta được?

Vị thầy vốn có tự do nêu đề ra, nêu các đề thị phi. Học sinh cũng tự do đáp đề, dùng trí tuệ của mình để quyết định thành tích của mình. Như thế đâu có ai hại ai? Lão Hòa thượng mượn hoàn cảnh để giáo dục, bạn muốn thọ giáo thì chính bạn được lợi ích. Bạn không hiểu, lại không chịu khiêm tốn cầu học, không muốn đến Tây Phương, lại muốn tự tạo nghiệp mà bị đọa, thì đó cũng là sự tự do của bạn. Đức Phật đã sớm nhọc tâm khuyên dạy chúng tachớ có tạo nghiệp như thế. Nhưng chúng ta không hẳn đã nghe lời, thường mơ mơ hồ hồ, nhìn bậy, nghe bậy, đồn bậy theo người ta. Lão Hòa thượng đã từng cảnh cáo “Không có chuyên chú gì, làm sao đến Tây Phương!” là đúng vậy. Kiểm soát tâm mình không được, buông trôi mặc kệ, gặp cảnh thì khởi tâm loạn cả lên, tạo nghiệp loạn cả lên, thì phải suốt đời chừng nào mới thật có cái nguyện đến Tây Phương?

Chúng ta đến đạo trường, vốn là để khiêm tốn thọ giáo, do “cách giáo dục” mà hiểu được của chính mình, tự tu sửa cho tốt thì mới gọi là “tu hành”. Nếu không biết rõ mục tiêu chính đáng, mà lại đặt tiêu điểm ở nhân ngã thị phi, tạo nghiệp đọa lạc, há chẳng oan uổng sao! Làm cho trường thành ra “đảo trường” (là nơi rác rến, đọa lạc) thiệt là đáng thương!

Khi công trình xây dựng chùa Thừa Thiên hoàn tất, rất nhiều người vô cùng khen ngợi, thậm chí một số chùa miếu sắp xây dựng muốn mời ân sư tôi đến tham khảo. Lão Hòa thượng thấy tình hình như vậy thì nói với ân sư tôi: “ta rất rất lo rằng cô sẽ là một tu sĩ ứng phó với người đời. Việc xây dựng chùa Thừa Thiên hoàn thành tốt đẹp, thanh danh và lợi dưỡng đến, e rằng sẽ làm tổn hại đến pháp thân tuệ mạng của cô. Ta muốn vứt bỏ thanh danh, lợi dưỡng của cô, cứu tuệ mạng pháp thân của cô!” Ân sư tôi nghe Lão Hòa Thượng nói thế, thì cho rằng rất phải, bèn nói rằng “phải lắm”, vì bình thường Lão Hòa thượng làm gì cũng đều như thế.

Sau khi Lão Hòa thượng nói như thế, có người lên núi thỉnh giáo Ngài, hỏi rằng; “Niệm Phật nên niệm thếù nào mới được nhất tâm, không động loạn?” Lão Hòa thượng dùng tiếng Đài loan mà nói: “Có người bị “Thần cuồng cảm” nhập mà phát tác, không chịu lui, cho rằng chùa Thừa Thiên là do người ấy xây, chúng sinh được người ấy độ!”. Rồi Ngài gọi ân sư tôi đến phiên dịch. Câu này rất khó dịch ra quốc ngữ. Ân sư tôi dịch tạm rằng: có người cuồng vọng, ngu si phát tác, như bị quỉ thần cuồng cảm nhập vào thân, đã phát tác rồi thì không chịu thoái lui, không để cho bị thâu bắt, người ấy cho rằng chùa Thừa Thiên là do người ấy xây, chúng sinh là do người ấy độ. Người đến thỉnh vấn nghe xong liền giật mình, vội vàng giải thích: “Lão Hòa thượng, tôi mới đến chùa Thừa thiên lần đầu. Tôi chưa hề nói chùa Thừa Thiên là do tôi xây, cũng không hề nói chúng sinh là do tôi độ!” Thế nhưng Ân sư tôi hiểu dụng ý của Lão Hòa thượng nên cứ bình tĩnh mà phiên dịch.

Từ đó về sau, bất kể có ai hỏi vấn đề gì, Lão hòa thượng cũng cứ một mực đáp lại; “Có người bị Thần Cuồng Cảm nhập vào mà phát tác, không chịu lui, cho rằng chùa Thừa Thiên là do người ấy xây, chúng sinh là do người ấy độ”. Và Ngài gọi ân sư tôi đến phiên dịch. Tình trạng này liên tục đến một hai tháng. Có người nghe được thì cảm thấy bực bội. Nhưng ân sư tôi vẫn thường nén bực bội, vẫn thường nhẫn nại mà bình tĩnh phiên dịch. Rồi một hôm bà rất cẩn trọng, đáp y để lạy tạ Lão Hòa thượng đề tỉnh, xin Lão Hòa thượng hãy yên tâm, và tự nhận bà không còn nhầm lẫn, chấp trước trong lòng. Lão Hào thượng nghe xong liền lắc đầu mà nói: “Còn sớm đấy!”. Hôm sau, Lão Hòa thượng lại tiếp tục nói: “Có người bị Thần Cuồng Cảm nhập mà phát tác mà không chịu lui ...”. sau đó một thời gian, ân sư tôi tự mình kiểm thảo, lại đến bái tạ Lão hòa thượng, xin Ngài yên tâm. Bấy giờ Lão hòa thượng mới thôi không nói lời khai thị ấy nữa.

Có người lấy làm lạ tại sao Lão Hòa thượng muốn giúp một đệ tử phá trừ chấp trước mà lại nói cùng một điều như nhau với bất cứ người khách nào đến hỏi. Thực ra, Lão Hòa thượng chỉ dạy như thế là có lợi ích cho mỗi người chúng ta. ví như trước đây đã nói có người hỏi: “niệm phật thì nên niệm như thế nào mới được nhất tâm không bị động loạn?”. Chúng ta thử nghĩ xem, vì sao chúng ta không thể nhất tâm, không bị động loạn? Đó là vì chúng ta đều bị bệnh cuồng vọng phát tác, đã phát tác mà không thoái lui! Có người không hiểu tiếng Đài Loan, không biết Lão Hòa thượng nói Thần Cuồng Cảm là gì, chúng ta miễn cưỡng vừa theo ân nghĩa mà giải thích, thông thường tiếng Đài Loan dùng chữ “Đài” để miêu tả bệnh tật phát tác, hoặc đồng cốt bị quỉ thần nhập vào thân mà khởi lên trạng thái vừa nhảy, vừa nói. Thần Cuồng Cảm “Đài” là Lão Hòa thượng hình dung chúng ta dường như bị quỉ thần “Cuồng Cảm nhập vào thân mà phát bệnh cuồng loạn. “Cuồng” là phát cuồng, (chữ cuồng của cuồng vọng), “Cảm” ý là ngu si, ngốc nghếch. Sự chấp trước, vọng tưởng của chúng ta suốt ngày không dứt, giống như phát cuồng, tự mình không khống chế được. Sự chấp trước vào tự ngã, cái tâm ngạo mạn rất nặng, đó phải chăng là rất ngu si?đó là bệnh cuồng vọng, ngu si phát tác, mà đã phát tác rồi thì rất nghiêm trọng, không muốn nó phát tác nó vẫn cứ phát tác! Lão Hòa thượng nói “Thần Cuồng Cảm” phải chăng là một sự hình dung rất sát hợp? Chúng ta niệm phật mà không chuyên tâm đo ù là sự chấp trước, vọng tưởng nhiều, bệnh cuồng vọng, ngu si không ngưng, kinh Lăng Nghiêm cũng nói cho chúng ta biết, nếu cuồng tâm dứt là Bồ Đề. Chỗ ngưng nghỉ của cái cuồng tâm ngưng nghỉ chính là sự giác ngộ của Bồ Đề.

Dưới đây phải nói lại, vì sao có người chưa từng đến chùa Thừa Thiên mà Lão Hòa thượng cũng nói với người ấy “ông cho rằng chùa Thừa Thiên là do ông xây dựng, chúng sinh là ông cứu độ”. Vì trong lòng mỗi người chúng ta đều có “chùa Thừa Thiên” của sự chấp trước tự kỷ.

Nếu người phụ nữ chính trong gia đình, mỗi ngày chăm sóc gia đình mình, xây dựng gia đình thì lâu ngày bà ta sẽ chấp trước, cho rằng gia đình này là do “ta” xây dựng, “ta” bỏ nhiều công sức, điều này cũng giống như cho rằng chùa Thừa Thiên là do “ta” xây dựng, và lại còn chấp trước rằng “Chồng con ta đều do ta chăm sóc”. Chồng và con cái của người phụ nữ chính trong gia đình, chính là chúng sanh trong mắt tâm của bà. Bà sẽ cho rằng các chúng sanh này là do bà cứu độ.

Nếu một người kinh doanh một công ty nào đo, hoặc phục vụ tại một cơ quan nào đó, lâu ngày người ấy cũng sẽ cho rằng, công ty là do “ta”ù kinh doanh, các viên chức là do “ta” chăm sóc, công ty này, cơ quan này là chùa Thừa Thiên trong mắt tâm của người ấy. Người xuất gia cũng như thế, mỗi người có đạo trường riêng của mình. Nếu mỗi ngày vị ấy lo toan thực hiện cacù công việc trong đạo trường thì cũng có thể vị ấy cho rằng các sự việc kia đều do “ta” làm. Bao nhiêu người vì “ta” mới học tập, thì đó cũng là chùa Thừa Thiên trong mắt tâm của họ.

Hễ khi nào có suy nghĩ như thế nào và lại cứ cho rằng như thế ấy thì đó chính là điều Lão Hòa thượng đã nói: “Có người bị bệnh cuồng vọng ngu si phát tác, phát tác mà không dứt, cho rằng chùa Thừa Thiên là do người ấy xây dựng, chúng sinh là do người ấy cứu độ”.

Có vị đệ tử phản ứng Lão Hòa thượng rằng: “Công việc quá bề bộn, con không có thời gian niệm phật”. Lão Hòa thượng hỏi ngược lại: “các người không biết dụng công trong cái động ư?” ví như khi cắt thức ăn, cắt một nhát niệm một câu A Di Đà Phật, khi khiêng gạch, khiêng một viên niệm một câu A Di Đà Phật; khi đi đường bước một bước niệm một tiếng A Di Đà Phật; khi nói chuyện với người ta, mỗi khi ngưng nói lại niệm Phật. Khi làm một việc gì thì giữ tâm bình khí hòa mà làm, luyện tập trong sinh hoạt, mỗi động tác đều niệm Phật. Đó chính là dụng công trong cái động.

Một hôm đang lúc bận công vì công trình xây dựng, các công nhân đều chuẩn bị làm việc, Lão Hòa thượng biết ân sư tôi đang chuẩn bị làm việc, xử lí nhiều vấn đề, Ngài cố ý gọi bà mà nói: “Bây giờ cô hãy đi mài dao, mài cho thật kỹ”. Lúc này ân sư tôi cảm thấy rất khó khăn: công việc đang nhiều lại rất bận rộn, công nhân đang chờ thế mà Lão Hòa thượng lại bảo đi mài dao cạo đầu! Thế nhưng lệnh của thầy thì không được cưỡng, chỉ còn cách là mau mau đi mài dao. Mài xong, bà vội đến báo với Lão Hòa thượng. Lão Hòa thượng chẳng màng để ý đến bao nhiêu xe chuyên chở đang chờ đợi ở đấy, làm như chẳng có việc gì cứ thanh thản, rồi bảo muốn kiểm tra lại viên đá mài dao của bà. Ân sư tôi liền đem viên đá mài dao cho Lão Hòa thượng kiểm tra. Lão Hòa thượng xem qua rồi nói: “viên đá mài dao này chỉ được mài ở khoảng giữa này, hai đầu không được mài, đủ thấy tâm không được bình tĩnh, dùng sức không đồng đều, chứng tỏ mài dao trong khi gấp rút bận rộn “. Sau đó ngài lại bảo ân sư tôi quay về mài lại! Ân sư tôi tuy biết, đây là sự giáo huấn từ bi của Lão Hòa thượng, nhưng dù công việc quá nhiều, do áp lực bà vẫn phải vội vàng quay về mà mài lại. Lần này bà lại mài ở hai đầu viên đá mài, khiến viên đá mài phẳng ra, sau đó lại đưa viên đá cho Lão Hòa thượng kiểm tra. Lão Hòa thượng xem xong bèn nói: “Đây là làm cho người ta xem, mài cho người khác kiểm tra nên mới mài thêm hai đầu viên đá, chứ thật ra không chân chính dụng tâm, nên mài bình thường!” Ân sư nghe xong liền quì xuống, sám hối với Hòa thượng, xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy: Mài dao thì nên mài như thế nào?

Lão Hòa thượng liền nói: “Hai bàn tay cầm dao, trong lòng niệm Phật, an định bình tĩnh, mài từ đầu đến cuối viên đá mài, dùng sức đồng đều, mài một nhát, niệm một câu A Di Đà Phật, bất kể việc nhiều bao nhiêu, bận rộn bao nhiêu, tâm không động loạn, mỗi nhát mài đều không sai chạy, không gấp gáp cũng không chậm chạp. Vì tu hành là tu cho chính mình, là mượn cảnh mà luyện tâm, mượn công trình xây dựng mà đào luyện tâm của chính mình, hoàn toàn không phải là muốn làm cho người ta xem, hoặc để cho người ta kiểm tra”

Lão Hòa thượng bèn đưa viên đá mài của Ngài ra, ân sư tôi nhìn thấy, quả là tâm phục khẩu phục. Viên đá mài dao của Lão Hòa thượng bằng phẳng, phẳng đến sáng ngời, đó chính là quá trình dụng công chân thực của nội tâm.

Lão Hòa thượng cố ý trong lúc người ta bận rộn, hoàn cảnh rối loạn và tâm cấp thiết mà huấn luyện đệ tử ân định tâm, đi mài dao. Thực ra, sự vật ở thế gian này đều là ảo hóa, công trình cho dù có đồ sộ, chùa miếu xây dựng có to lớn bao nhiêu thì một ngày kia cũng sẽ biến thành bụi bặm, chỉ có một niệm thanh tịnh, an định của nội tâm, công tác chỉ là đề mục để chúng ta dụng công luyện tâm mà thôi.

Một hôm, ân sư tôi cùng đại chúng xuống núi, đến dã ngoại làm việc. Bà để chiếc nón dưới đất. Một con rết bỗng bò núp trong nón mà ân sư tôi không biết. Trước khi đội bà vỗ nón mấy cái, vừa mới đội lên bị con rết cắn, làm cho đầu bà vừa đỏ vừa đau, lại sưng lên! Nhưng vì ai cũng lo làm việc, dù vết thương của bà rất đau, bà cũng cố chịu đựng mà làm việc. Sau đó, đau quá đứng không yên bà mới đi báo cáo với Lão Hòa thượng. Lão Hòa thượng chẳng hề hỏi bà vết thương như thế nào, có nặng lắm không, mà chỉ hỏi: “Con rết ấy thế nào?” Ân sư tôi đáp: “Lúc bị cắn đau quá, con không thấy rõ, ném cái nón đi!” Lão Hòa thượng nói: “Con rết ấy bị cô ném đi, không biết có bị thương không!”

Có thể có người lấy làm lạ, vì sao vị đệ tử bị thương như thế mà Lão Hòa thượng lại không quan hoài tới? Thực ra, đối với vị đệ tử muốn chân chính tu hành, Lão Hòa thượng lo cho sự khởi tâm động niệm và tuệ mạng pháp thân của vị đệ tử hơn là lo cho thân thể của bà Do chúng ta trong sáu đường luân hồi, chắc chắn theo đó mà đều có thân thể, có điều mỗi thân thể thay đổi theo mỗi đời sống thì không giống nhau mà thôi. Có khi thì dùng thân thể của “người”, có khi thì đổi thành thân thể của”loài vật”, biến thành heo, trâu, thậm chí biến thành thân thể của ngạ quỷ. Thân thể hẳn là phải tồn tại, phải có, có điều tốt xấu, lớn nhỏ thì không giống nhau. Thân thể của chúng ta sẽ như thế nào, chủ yếu là do nội tâm của chúng ta quyết định. Lúc sắp chết mà có một niệm nóng giận thì sẽ có thân thể đau khổ ở địa ngục; một niệm niệm Phật thì có thể chuyển thành thân sắc vàng của Đức Phật.

Chúng ta thường chỉ chăm lo đến thân thể, chấp trước thân thể mà không biết rằng phải lưu tâm đến sự khởi tâm động niệm của chúng ta! Lão Hòa thượng rất từ bi, đề tỉnh đệ tử, tức là khiến cho người đệ tử trong lúc bị con rết cắn rất đau đớn cũng phải giữ gìn tâm từ bi, lo cho con rết chứ không lo cho mình, không thương tiếc mình.

Khi chúng ta có thể phát triển đủ lòng từ bi đối với chúng sanh thì dù một niệm cũng không cảm thấy mình đau khổ, tức là thoát ra khỏi sự chấp trước “thân kiến” của chúng ta, đạt được giải thoát tự tại. Lại nữa nếu suốt đời mà phát được ra làn sóng điện của tâm niệm từ bi của chư Phật, Bồ Tát như thế thì nhất định chúng ta sẽ có tướng của chư Phật, Bồ Tát, chuyển thành thân thể của chư Phật, Bồ Tát.

Một hôm, ân sư tôi theo Lão Hòa thượng đến ngọn núi phía sau để kinh hành, bỗng nhiên thấy một số cỏ hoa rất đẹp. Ân sư tôi bèn nói: “Xin chờ một chút! Con lấy kéo cắt hoa để cắm vô bình cúng Phật”. Lão Hòa thượng nói: “Cỏ hoa này lớn lên tại đây vốn là để cúng dường chư Phật mười phương, đâu cần “cô” phải cắt cắm vào bình mới gọi là “cô” cúng Phật! Nên biết, ở thế giới Ta Bà, chỉ cần tham luyến một cọng cỏ thì sẽ rơi vào luân hồi!ø”.Đối với Lão Hòa thượng, một cọng cỏ, một đóa hoa trên thế gian, Ngài đều phát tâm cúng dường rộng lớn, cúng dường chư Phật ở mười phương. Trong mắt của Lão Hòa thượng, mỗi cọng cỏ đều là sự đề tỉnh của Đức Phật, đề tỉnh Ngài buông bỏ cái tham, sân, si của nội tâm, không nên trở lại luân hồi.

Đối với Lão Hòa thượng, mỗi hoàn cảnh đều khiến cho Ngài giác tỉnh. Cho nên nói:

“ Người biết dụng công thì mọi hoàn cảnh tốt xấu đều có thể sinh trí tuệ.

Người không biết dụng công thì nơi nơi đều sinh khởi tham, sân, si”.

Lão Hòa thượng tu hành trong động núi khoảng tám năm, thường có con vượn đem những trái đào thủy mật đến cúng dường Ngài. Tay con vượn mỗi lần chỉ mang được một trái cây, nếu mang mười trái thì hẳn rất là khổ nhọc, vượn phải chạy tới chạy lui mười bận. Cho nên lão Hòa Thượng rất có lòng cảm ơn con vượn.

Một hôm, có người đem đến cúng đường Lão Hòa thượng một trái đào thủy mật rất lớn. Lão Hòa thượng thấy thế bèn bảo mang cho con vượn ăn. Một đệ tử thấy trái đào thủy mật lớn thế mà đem cho con vượn ăn, bèn hỏi Lão Hòa thượng: “trái này mà đem cho con vượn ăn há chẳng tiếc lắm sao?”. Lão Hòa thượng liền hỏi vị ấy: “Nếu cho ông ăn thì có đáng tiếc hay không?”.

Thật vậy! “Cho con vượn ăn há chẳng tiếc lắm sao”, câu này nêu ra có ý rằng, tâm của chúng ta đối với chúng sinh chẳng có chút từ bi, bình đẳng gì. Những thứ gì tốt mà mình dùng thì không thấy tiếc, nếu đem cho người khác hay cho động vật nhỏ bé thì cảm thấy rất tiếc. Một cái bánh ngon mà cho lũ kiến ăn cũng thấy rất đáng tiếc, xả bỏ không được. Thực ra, chúng ta há chẳng phải không bằng sự kính thành của con vượn sao? Sự kính thành cúng dường Lão Hòa thượng của con vượn chắc gì chúng ta đã bì được nó! Còn việc phản tỉnh khởi công động niệm thì chúng ta thường tự tư, vì mình bố thí mà không xả bỏ được, không chịu xả mình vì người. Đấy quả thực là đáng hổ thẹn, không đáng được cúng dường vậy!

Lúc Lão Hòa thượng còn tại thế, có thể nói chùa Thừa Thiên có nhiều người đến đông như núi, như biển. Rất nhiều người đến tham bái Lão Hòa thượng. Xét cho cùng vì sao mà người ta đến? Một hôm, Lão Hòa thượng cười mà nói với các đệ tử: “Người ta đông như thế này, chúng ta nghĩ cách để họ về bớt đi”. Các đệ tử thưa: “Người ta đã đến đây rồi làm sao bảo họ về được chứ?”. Lão Hòa thượng cười mà nói: “ta có cách”. Rốt lại đó là cách gì?

Chúng ta biết rằng Lão Hòa thượng tuổi đã già, không còn răng nữa, phải mang răng giả. Khi khách đến thăm quá nhiều, ngài cố ý ngồi ỏng bụng gù lưng, đầu vẹo, lại lấy răng giả để ra ngoài, mồn chảy nước dãi, giống như đang ngủ gật. Mọi người thấy tình trạng như thế đều cảm thấy lạ lùng rất nghi ngại: “Lão Hòa thượng Quảng Khâm danh cao vời vợi là đây ư? Sao lại thế này?”. Nhìn thấy Lão Hòa thượng không tươi khỏe, lại không giống một vị cao tăng, mọi người đều thất vọng, không còn vui thú nên quay về!

Lão Hòa thượng thấy nhiều người bỏ đi như thế thì cười mà nói: “Những người này đều là đến để nhìn bề ngoài, bị mê đắm vào sự tướng, cũng không phải thực sự muốn đến để cầu Phật pháp, quả nhiên họ đều quay về”.

Phần đông chúng ta hễ có người đến thì tỏ vẻ trang nghiêm để cho người ta thấy, sự rằng người ta không sinh lòng kính trọng, phê bình chúng ta là không trang nghiêm. Nhưng Lão Hòa thượng quả là không có ngã tướng, không có nhân tướng. Nếu bạn thấy tướng mạo Ngài không tươi khỏa mà không vui thì Ngài cũng chẳng màng tới, Ngài rất tự tại, vốn chẳng cần người ta cung kính Ngài, cho nên Ngài dú hí khắp nơi, dùng các biện pháp để khảo nghiệm xem rốt lại bạn có đến vì bề ngoài, hay là bạn đến để cầu Phật pháp.

Xin chú ý, chúng ta nói đến khảo cổ đề này, mục đích là để kiểm thảo động cơ, thái độ tham vấn của mình. Nên biết đâu đâu cũng là khảo đề. Hoàn toàn không phải là khuyên mọi người học theo Lão Hòa thượng mà cố ý ỏng bụng, gù lưng, chảy nước dãi. Lại càng không phải nói bề ngoài là không tốt, mà chính là cần có công phu cao thâm. Xin mọi người chớ hiểu lầm.

Có người đến báo cáo, khóc mà nói với Lão Hòa thượng, có người nào đó hễ nói ra là khích bác anh ta. Lão Hòa thượng nghe xong bèn dạy anh ta: “Đó là tục khí, là chưa thoát tục, người tục thì mới cảm thấy người khác khích bác mình. Nếu là người tu hành để tâm vào việc tu đạo, mục đích chính là muốn tu chỉnh tâm niệm, hành vi của mình. Nếu người ta bảo chúng ta không tốt, thì đó là giúp người ta cải tiến tu hành, là cho chúng ta tiền Tây Phương để chúng ta sinh lợi, lại ngồi đó mà khóc, khóc mà nói người ta khích bác bạn.”

Có người, khi được người khác khuyên phải như thế nào thì vội phản đối: “Tự ông còn không ra gì! Tự ông không làm tốt thì kể gì tôi!”. Người ấy vì muốn được thắng một lời nên cứ giữ chặt khuyết điểm của mình, kết quả là mười năm, hai mươi năm trôi qua, tính khí vẫn như thế. Loại người như thế thì không sự mình không được vãng sinh, không sợ mình không tiến bộ, chỉ sợ người khác không biết tính khí mình ngang bướng, phản ứng chậm lẹ; chỉ sự người khác không biết mình “ngã chấp” rất nặng, lúc nào cũng muốn vội vàng tỏ lộ ra. Lão Hòa thượng gọi là “cảm mạn” và “hậu tính” (tiếng Đài Loan), nghĩa là năng lực kém cỏi, tính khí ngang bướng (tham, sân, si, mạn đều đủ).

Chúng ta thường làm một việc gì đó không được tốt, năng lực kém cỏi, lại có phần ngờ nghêïch thì đó không phải là điều quá quan trọng, nhưng nếu tính khí chúng ta lại ngang bướng không chịu nghe khuyên thì thật là tệ hại. Loại “cảm mạn và hậu tính”này, năng lực kém cỏi, chẳng có ưu điểm nào coi được.

Người khác giúp chúng ta tu hành cải tiến, chúng ta có lòng biết ơn, lại nóng giận muốn chống đối. Nghĩa là nếu người khác không tốt, thì rốt lại bạn tu là tu cho người khác hay là tu cho chính bạn?

Nếu người khác không tu hành thì bạn có lí do để theo đó mà không tu hành. Nếu người khác tu hành nghiêm chỉnh thì tại sao bạn không bắt chước người ta mà tu hành nghiêm chỉnh? Đức Phật A Di Đà đã tu trì như thế mà bạn không học tập theo Ngài để tu thân mình, lại chỉ vịn vào “Người khác không đủ tốt” để làm cái cớ mà không chịu tu. Như thế thì có ích lợi gì đâu?

Lão Hòa thượng đã từng khảo hạch nhiều đệ tử về mục đề này. Ngài không hề tuyên bố trước rằng đây là cuộc khảo hạch, cứ đưa ra vấn đề đáp, rồi sau đó chờ bạn suy nghĩ tìm lời đáp. Ngài rất nghiêm khắc, thậm chí có phần cưỡng bức như là ra lệnh cho đệ tử phải mang ngược dày vậy! Nếu lấy hoàn cảnh ấy ra mà khảo nghiệm thì bạn phải làm sao? Đây mới là sự khảo hạch về thực lực.

Gọi là “mang ngược giày” hoàn toàn không đơn thuần trỏ vào việc mang ngược giày, mà trỏ cho mọi sự việc điên đảo, thực hiện không thuận hợp, trỏ cho sự không hợp lý, sự không như pháp. Có thể Ngài bảo bạn làm một việc không nên làm, có thể bạn muốn làm một việc đáng làm nhưng Ngài lại không chịu cho bạn làm đúng theo pháp. Điều ấy cũng mang ngược dày (mang từ sau ra trước).

Nay, nếu trong cuộc sát hạch bằng bút, chúng ta được hỏi “tam học” của Phật pháp là gì, có thể mọi người đều viết “giới, định, tuệ”, sau đó dều hí hửng vui mừng: “thi đề này thì tôi làm được!”. Thực ra, nếu dùng một hoàn cảnh để khảo nghiệm chúng ta, gặp nghịch cảnh thì liệu chúng ta có giữ được giới, có được định, có được tuệ hay không? Có thể chúng ta làm bài không được, thậm chí chẳng ra gì.

Ân sư cũng thường sát hạch chúng tôi đề này: loại giống như khảo cổ đề. Bà cũng không báo trước đây là cuộc sát hạch, và sau khi thi xong, nếu chúng ta không bỏ cái hư tâm để mong cầu chỉ dạy, không hiểu thành tích của mình như thế nào, có sai sót gì không thì bà không chịu chủ động nêu ra thành tích của bà mà cứ nêu ra chỗ sai, để bạn sửa chữa. Vì sao như thế, đệ tử đã không có lòng muốn tìm hiểu cái sai lầm để cải đổi thì có thể nói rằng, như thế là chưa phát tâm học Phật, tu hành (tu cải cái tâm cái hành vi sai quấy), tức là không còn nghĩ đến việc học (chuẩn bị trốn học, rong ruổi sinh tử!). đệ tử đã không muốn học, không muốn tu, thì nếu sư phụ muốn dạy anh ta, tận tâm chỉ dạy anh ta thì anh ta thế nào cũng cảm thấy đâu đâu sư phụ cũng kiếm anh ta để gây phiền hà, la mắng anh ta, thậm chí anh ta còn sinh ác cảm, nhận thấy sư phụ không tu dưỡng chỉ tạo khẩu nghiệp. Dạy loại đệ tử như thế này chỉ khiến anh ta thêm đọa lạc. Loại đệ tử này là loại căn cơ không thành thực, căn cơ không thành thực thì không có cách nào cưỡng ép tu học, chỉ có cách là âm thầm nhẫn nại chờ đợi, vì ngay cả mầm cò chưa nảy ra, mong chờ gốc, cành, lá, quả thì quá sớm. Loại đệ tử này có lẽ ngà đời vạn kiếp sau mới phát tâm cầu học, sư phụ cũng chỉ cách đến Tây Phương trước mà chờ thời cơ vậy.

Lão Hòa thượng nói; “Có một loại đệ tử ngu đần, sư phụ bảo mang ngược dày thì anh ta cứ thế mà mang ngược, chẳng kể mang ngược dày có đi được hay không”. Lão Hòa thượng lắc đầu mà than!

Sao gọi là ngu đần:

1/ Dựa vào người, không dựa vào pháp, không biết là khảo hạch.

Loại đệ tử “cứ thế mà mang ngược giày” cũng có những tâm thái không giống nhau. Có người cho rằng: Dù sư phụ dạy thế nào, nếu sai thì sư phụ sẽ chịu nhân quả, ta cứ làm theo! Người ấy không hiểu học Phật, là phải “dựa vào pháp không dựa vào người”, “Dựa vào nghĩa không dựa vào lợi.” Nếu sư phụ dạy sai thì đương nhiên sư phụ chịu nhân quả không tốt. Nhưng chính mình chọn sai lầm mà theo thì không phải có trí tuệ. Sự lựa chọn này là do tự tâm chọn lựa. Cái nhân quả tự chọn lựa phải tự mình chịu nhận. Lại nữa, người ấy không biết rằng đây không phải là sự giảng dạy, mà đây là sự khảo hạch. Khảo hạch xem bạn phải làm thế nào, khảo hạch cái thực tiễn của giới, định, tuệ. Vì người ấy không hiểu, cứ bất giác, bất tri, cho nên Lão Hòa thượng nói đây là đệ tử ngu đần (hồ đồ). Trồng cái “nhân” hồ đồ như thế, thì mong được cái “quả” gì chứ? Dùng cái tâm hồ đồ như thế, há không đầu thai bậy ư?

2/ Không học cũng không hỏi (ngã đau rồi trách sư phụ).

Ngoài ra còn có người cứ theo thế mà “mang ngược giày” nhưng có có loại tâm thái khác, anh ta là người “ngoan ngoãn”, ngoan ngoãn theo đó mà làm. Anh ta cho rằng nếu sư phụ mà sai lầm thì anh ta theo sư phụ mà sai lầm, gọi là “y giáo phụng hành”, gọi là tôn trọng hiếu phụng”. Anh ta không biết rằng ngay cả nhà Nho Khổng Tử từng trách vấn đệ tử: “Khiến cha mẹ bất nghĩa đó là hiếu ư?”, huống chi Phật giáo là trí tín chứ không phải mê tín, cầu trí tuệ chứ không phải tin theo mù quáng. Người ấy không thể hiểu chính mình mù quáng tuân theo mê tín, mà cho mình là ngoan, thì được khen là hiếu thuận, là thật thà . anh ta lại không hiểu rõ đây là cuộc khảo hạch, , cho nên giao nộp một bài làm “ngốc nghếch” mù quáng. Cứ giao nộp bài là xong, anh ta không mong cầu hiểu rõ đạo lí. Tuy hoàn toàn không hiểu anh ta cũng không biết cần khiêm tốn cầu mong chỉ dạy (tiếc không học cũng không hỏi), không biết rằng cầu Phật pháp là cầu trong cung kính, lại cứ cố mang ngược dày mà bước đi, đi rất khổ sử. Nếu không đi được, bị té ngã đau, thì lúc ấy không biết có nên trách sư phụ dạy sai không? Ôi thật đáng thương, không biết mình đã học sai, lại lấy đề mục “phi” trong “khảo đồ thị phi” mà nỗ lực thực hành. Sư phụ vốn cố ý bảo đệ tử vượt đèn đỏ để xét xem đệ tử có thật thà tuân thủ qui tắc giao thông hay không, người đệ tử cứ ngốc nghếch vượt đèn đỏ lại cho rằng mình thật thà nghe lời! Vì có sự không hiểu mơ hồ, liên tục như thế cho nên Lão Hòa thượng mới nói đây là đệ tử đần độn. Khi mang ngược giày mà ngã đau rồi trách sư phụ đã dạy sai thì rất dễ nhưng rất ít đệ tử chịu phản tỉnh nhìn lại thái độ học tập của mình, kỳ thực là mình hoàn toàn không có lòng cầu pháp, muốn học cũng không có thái độ sẵn lòng khiêm kính cầu học, tất cả đều tự cho là đúng, là hiểu; tất cả đều là bảo vệ cái bộ mặt “tự ngã”, coi nhẹ pháp, khinh mạn giáo, khiến cho thầy hoàn toàn không có chỗ thực hiện giáo đạo.

Một người không chịu thừa nhận mình có sai lầm, có chỗ để có thể sửa đổi, thì đến khi người ấy tự cho mình đã viên mãn thành Phật, thì loại tâm kiêu mạn như thế quả là rất nghiêm trọng. Đúng như lời Lão Hòa thượng dạy, bị Thần cuồng Cảm nhập, nhập rồi không rút lui!

Đại sư Ấn quan nói: “Cầu Phật pháp trong sự cung kính là một phần lợi ích; mười phầncung kính là mười phần lợi ích”. Mọi người đều rất quen với câu nói này, nhưng rất ít người thực sự hiểu được ý nghĩa của “cung kính” và “cầu” pháp. “cung” là “côïng tâm”, cùng với Phật cộng thành một tâm: hiểu rõ ý nghĩa của sự dạy dỗ của Đức Phật. “Cầu” là hàng phục “ngã mạn” (sự chướng ngại của tự ngã kiêu ngạo, hỗn xược), khai phát cái đức tốt đẹp của Phật tính, cũng là chủ động phát tâm cúi đầu, khiêm tốn thỉnh giáo, chứ không phải bắc bậc làm cao, chờ Đức Phật tới năn nỉ bạn học, thực ra Đức Phật đã hết miệng hết lòng năn nỉ chúng ta giác ngộ, năn nỉ đã rất lâu, Phật vẫn từ bi năn nỉ chúng ta học Phật, chớ dùng tâm mê vọng. Nhưng chúng ta bắc bậc làm cao, không hàng phục được sự ngu si, kiêu mạn của chính mình, không chịu cúi đầu nơi giác tính, cho nên không biết làm sao cho được.

Đức Phật là người khai ngộ chứng quả, Ngài rất từ bi, lại rất tự tại. Thực ra Ngài hoàn toàn không phải yêu cầu chúng ta cung kính Ngài, cho dù chúng ta không cung kính thậm chí còn hối nhục Ngài, thì đối với Ngài chẳng có chút ảnh hưởng gì, nhưng đối với bản thân chúng ta thì lại có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Gọi là cầu Phật pháp trong sự cung kính, hoàn toàn không phải Đức Phật là qua lớn lao, khiến người ta phải cúi đầu, dập đầu mới chịu trao cho một ít Phật pháp. Cung kính cũng không phải đơn thuần là cung kính tượng Phật, kinh điển, mà là cung kính hết thảy chúng sanh, chân lý sự vật khi đối mặt với mọi hoàn cảnh thì có thể thể hiện Phật tâm sâu sắc, cùng với Phật chung một tâm chung một tâm Bồ Đề giác ngộ, từ bi, đồng thời cùng với Phật một tâm nhu nhuyễn khiêm cung, giống như ĐưÙc Phật xưa kia đã cung kính xã thân cầu pháp, tự Ngài ở trong “sự” có thể cầu được “lý”ù của nó. Giữ lòng cung kính thì dù ngày thường trong các việc đối nhân xử thế nhỏ nhặt, cũng có thể ngộ được Phật pháp. Nếu không giữ lòng cung kính thì dù có trãi qua ngàn “sự”, vẫn không thể ngộ được “lý” của Phật pháp trong đó, đời đời kiếp kiếp vẫn là người mê muội.

Có người cho rằng cầu trong sự cung kính là một loại phương pháp, thủ đoạn gián tiếp để cầu Phật pháp, chứ không biết “cầu trong cung kính” vốn là một phương pháp vi diệu để hàng phục phiền não ngã chấp một cách “trực tiếp” nhất, bản thân của nó là Phật pháp cao thâm, hoàn toàn không phải xuyên qua sự “cung kính cầu pháp” mà được Phật pháp gì. Do vì điều gây trở ngại cho việc thành Phật của chúng ta không phải là người nào khác, sự việc nào khác, mà chính là sự vọng tưởng, chấp trước của nội tâm chúng ta.

Điều này Đức Phật đã nêu ra khi ngài mới thành đạo. Cái căn bản nhất trong sự “chấp trước” chính là ngã chấp, sự mê muội trong các kiến giải, tư tưởng của tự ngã. Từ sự chấp trước tự ngã sản sinh ra: tham (ham muốn), sân (nóng giận), si (ngu muội), mạn (kiêu mạn), nghi (nghi ngờ), mà tự ngã bảo hộ, tự tư. Cho nên cầu Pháp trong sự cung kính chính là vượt ra khỏi những chấp trước ấy một cách trực tiếp.

Nếu không cung kính, không khiêm tốn mà cầu Phật pháp thì tất nhiên vẫn còn đám mây đen ngăn ngại của sự kiêu mạn, tự đại, tự ngã bảo hộ các thứ ngã chấp. Những đám mây đen này không phải làm chướng ngại người khác, mà làm chướng ngại cho sự khai mở Phật quang của chính mình.

Lời dạy “bao nhiêu phần cung kính thì được bấy nhiêu phần lợi ích” của Tổ Ấn Quang hoàn toàn không phải nói thông qua cung kính mà cầu pháp cho thật lâu ngày thì mới được lợi ích, mà chính là nói rằng, cung kính tức là ngay đó xóa bỏ đám mây đen ngã chấp, tất nhiên đồng thời tỏa chiếu Phật quang. Nếu xả bỏ hết đám mây đen của mười phần ngạo mạn, ngã chấp thì tự nhiên ngay đó tỏa ra được mười phần Phật quang. Đó là Phật Quang vốn có của tự tính, không phải cầu tìm bên ngoài. Bảo rằng cầu pháp trong sự cung kính, đương nhiên là cầu ở tự tâm mình cái phần năng lực có thể hàng phục ngã mạn, ngu si. Có cầu tự mình xuất phát phần tâm lực này thì mới biểu hiện được sự cung kính và sự cầu pháp. Bồ Tát giới “chân thành ở bên trong, hình thức ở bên ngoài” dạy chúng ta đối với Phật pháp khó hiểu thì phải quán sát cho chân chính, thừa nhận mình mù, không có mặt trí tuệ, dùng thái độ chính xác mà ngưỡng tin vào Phật, cung kính cầu pháp, học tập. Không tinh tiến học tập cũng là vi phạm tinh thần giới luật.

Có vẻ như niệm Phật thì rất dễ, nhưng nếu thiếu phần tâm lực “cầu trong sư cung kính” thì có thể làn sóng điện tâm niệm của sự phát xạ sẽ sai lạc rất lớn, không thể tiến nhập Phật đạo. Cũng như bắn tên thì không khó ở chỗ bắn ra mà khó ở chỗ trúng đích, chỉ cần nắm cung giữ tên mà sai, sai một hào ly, mất một ngàn dặm.

Giống như khảo cổ đề này đã nói, khi sư phụ bảo mang ngược giày rõ ràng là mình không hiểu ý nghĩa lại cố lấy cái không biết mà cho là biết, tự cho là đúng mà mang ngược giày, một phen đi loạng quạng hoàn toàn không biết cái ý nghĩa cần cầu pháp trong sự khiêm cung. Như thế thì đâu có “cung kính pháp”, đâu có một phần tâm “cầu” pháp. Nếu ngay cả một phần tâm “cung kính cầu” pháp mà cũng không có thì đương nhiên một phần lợi ích cũng khó được. Nếu bỏ phí một đời ở cửa Phật không có một phần cung kính cầu pháp, không được một phần lợi ích thì như thế chẳng là oan uổng lắm sao? Hèn chi Lão Hòa thượng dùng hai chữ “ngu đần” để nêu trỏ. Kẻ mạt học này kiểm thảo lại thực có quá nhiều “ngu đần”, phí uổng quá nhiều ngày tháng ngu đần, lại còn biết sự ngu đần của mình, chỉ nguyện dùng khảo cổ đề này kêu gọi giác tính của mình, chớ nên đời đời kiếp kiếp chìm nổi trong ngu đần phản với giác tính, theo với bụi trần.

Ngoài ra còn có một loại đệ tử mà Lão Hòa thượng hình dung là “càng ngu đần hơn”.Đó là khi sư phụ nêu ra loại khảo đề như thế anh ta không biết là khảo hạch, do đó tự cho mình là đúng, cho rằng sư phụ thật là quá vô lý, trình độ quá kém! Hoặc có thể bề ngoài anh ta không dám tỏ ra điều gì, nhưng trong lòng lại nghĩ: “Ồ! Sư phụ này ngay cả mang giày thì không được mang ngược mà cũng không biết, lại bảo ta phải mang ngược giày, thì còn làm sư phụ gì được chứ, quả là còn kém ta, đâu cần loại sư phụ này, ta đây tài cao đâu thèm phải nghe ông ta. ta từ nhỏ đã biết mang giày, mang thành thạo hơn ông, đâu cần ông phải dạy!”Loại đệ tử như thế, không những không biết đây là khảo hạch mà còn không bị đánh cũng tự thú, tự tỏ ra mình có tâm kiêu mạn, là loại đệ tử giao nộp bài đáp án “ta đây chỉ giỏi khinh mạn không biết khiêm cung, không những cứng đầu khó dạy, khó điều, khó phục mà còn không biết bề ngoài mình tỏ ra không sai phạm, có vẻ như rất cung kính, nhưng bên trong thì vừa ngạo mạn, vừa hỗn láo”.

Lọai đáp như thế, ở nơi tuyển Phật, đã chuẩn bị được mấy phần?

Loại đáp án như thế, giới, định, tuệ, mỗi thứ đã được mấy phần?

Kinh Vô Lượng Thọ bảo rằng, chỗ tu hành của Đức Phật A Di Đà là “biết trước rồi nhân đó mà hỏi”. Việc đối nhân xử thế trước hết là phải khiêm tốn cúi đầu, nhân sự việc mà thỉnh vấn. Nhưng chúng ta thì miệng niệm Di Đà, mà lòng thì làm sai đạo cổ xây xi măng, đâu từng theo pháp Phật “biết ý trước rồi nhân đó mà hỏi”? có khi sư phụ cúi đầu trước rồi thỉnh vấn đệ tử, đệ tử lại còn muốn đáp hay không đáp, thậm chí còn làm này làm nọ! Loại đáp án như vậy, ở nơi tuyển Phật, chuẩn bị được mấy phần chứ? Loại tu hành như thế và quả thành Phật vốn không đi đôi với nhau được. Loại tâm kiêu mạn, chỗ khởi tu như thế, thì cho dù có nỗ lực niệm Phật, có tu các thứ phước cho thật nhiều, cũng chỉ được đến nước A Tu La mà làm vua, hoặc công chúa, hoặc vãng sinh “nươcù Lười Biếng” mà thôi! (Trong kinh từng dạy, nhiều người vốn muốn vãng sinh Tây Phương, lại sinh vào nước Lười Biếng, không được đến Tây Phương. Nhân nào, quả ấy vậy!). muốn vãng sanh Phật quốc, thanh tịnh ở Tây Phương thì nhân và quả phải phù hợp nhau vậy.

Có người nghe đến đây quả là rất nghi ngờ.

Ngoan ngoãn y theo lời dạy mà làm, mang ngược giày thì cũng không được.

Trách sư phụ dạy sai, mình đúng, mình tốt (gọi là kiêu mạn) cũng không được.

Thế thì biết sao chứ?

Có người có thể rất oán giận, trách sư phụ quá buồn, chánh pháp không dạy mà dạy người ta mang ngược giày!

Tại sao lại khảo sát loại đề mục mang ngược giày này?

(1) Huấn luyện vô lượng giác.

(2) Huấn luyện lấy giác tính đối mặt với nghịch cảnh, khéo dụng giới, định, tuệ.

Chúng ta cần hiểu rằng, các hoàn cảnh trên đời đâu có phải tất cả đều thuận tâm như ý, thuận lý không sai phạm. Trong đời nhất định chúng ta gặp rất nhiều điều vô lý, và hoàn cảnh không như ý, đồng thời cũng gặp những kẻ”ác tri thức” tà tri, tà kiến. Lão Hòa thượng nêu ra loại khảo đề này, mục đích là muốn dạy chúng ta lúc ấy phải làm thế nào; mục đích là muốn huấn luyện chúng ta dùng cái giác tính rõ ràng, minh bạch để đối mặt với hoàn cảnh, xử lý đúng theo pháp, huấn luyện chúng ta sử dụng giới, định, tuệ một cách thực tiễn, lấy viên đá cản chân làm viên đá kê chân, đâu đâu cũng giác ngộ, dùng cái ánh sáng của Phật thì đó mới là ý nghĩa của A Di Đà Phật, “ Vô Lượng Giác”, “Vô Lượng Quang”. Nếu không như thế thì miệng niệm A Di Đà Vô Lượng Quang mà gặp cảnh thì lại vô lượng “ám” (ngu tối không giác tỉnh). Niệm Phật như thế vốn là không thích hợp, cũng chính là miệng niệm mà tâm không niệm.

3/ Niệm Phật tương ứng với giác tính “Vô Lượng Quang”.

Vãng Sanh Luận nói: “Thuận theo danh nghĩa mà xưng danh Như Lai”, xưng niệm Phật danh thì phải thuận theo các ý nghĩa hàm chứa của trí tuệ Vô lượng Quang Minh, Vô Lượng Giác Ngộ trong danh hiệu mà chân thực tu hành. Điều này vốn đã được Lão Hòa thượng từ bi mà có mỹ ý sâu sắc dùng sự khảo nghiệm phản diện mà giúp chúng ta phản tỉnh. Thế mà rất nhiều đệ tử không hiểu được lòng từ bi của Lão Hòa thượng, lại còn “không chịu” hiểu ý chỉ của việc khảo hạch và dạy dỗ của Lão Hòa thượng, không nghĩ tới động cơ học “tri kiến của Phật”, cứ một mực y theo quan niệm, tư tưởng cũ xưa của mình ngày này sang ngày khác. Mười năm trước khảo sát đề này mà không hiểu, mười năm sau khảo sát đề tương tự như thế cũng không hiểu, có thể vẫn sai lầm một chỗ như nhau, và cứ thế trăm năm ngàn năm vẫn không hiểu được, đời đời, kiếp kiếp, “những cuộc đại khảo hạch lúc lâm chung” cũng đều được dùng một thứ tâm “Vô Lượng ám” mà ứng khảo, tất nhiên phải theo đường mà luân hồi, không thể đột phá được! Bình thường trong các sinh hoạt lớn nhỏ, Lão Hòa thượng từ bi đào luyện chúng ta dùng cái giác tính Vô Lượng Quang giúp chúng ta đột phá nhưng tư tưởng mê ám xưa cũ và tương hợp với cái chân tâm niệm Phâït. Thực ra hoàn cảnh tự thân vốn không tốt xấu, khảo đề tự thân cũng không tốt xấu, nhưng sự dụng tâm của của mỗi người ứng khảo lại không giống nhau, trồng “nhân” không giống nhau thì “quả” sẽ rất sai khác.

Kết quả là:

- Người giác thì đi đường sáng.

- Người mê thì đi đường tối.

4/ Phải “giác tri” điên đảo thì mới “tiêu trừ” được điên đảo (biết là mê thì mới ngộ được).(Không “biết” điên đảo, thì làm sao “trừ” được cái tưởng điên đảo từ ngàn vạn kiếp về ngã?)

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: Như Lai là “chánh biến tri”, chúng sanh là “tính điên đảo”, chẳng những tầng tầng lớp lớp điên đảo, mà còn từ sự không biết, không thừa nhận cái điên đảo của chính mình, đồng thời bỏ hết nước của biển lớn mà chỉ nhận một giọt nước và cho đó là toàn bộ nước biển (dụ cho: từ bỏ sự “Vô lượng quang minh của Phật tính rộng lớn”, mà chỉ nhận lấy cái thân tâm mê vọng xác thịt này mà cho đó là “ngã” mê chóc vào nó mà không từ bỏ), đời đời kiếp kiếp chưa từng phát hiện cái điên đảo nghiêm trọng của chính mình, chỉ mê đắm vào ngã chóc, pháp chóc, không muốn chân tính, và cả cái việc phát hiện cũng không phát hiện ra được, thì làm sao mà “tiêu trừ cái tưởng điên đảo từ muôn kiếp về ngã?”

Lão Hòa thượng dạy chúng ta quay đầu kiểm thảo để biết rõ cái “điên đảo” của chính mình, nếu không, ngay cả giặc cũng không biết thì nói chi đến việc bắt giặc! Ngay cả mê lầm cũng không biết thì làm sao mà giác ngộ được? Ngày thường vẫn luôn điên đảo, đến khi lâm chung làm sao “tâm không điên đảo” cho được?

Từ vô thủy kiếp đến nay, chúng ta đều dùng “bất giác” (không giác tỉnh) mà đi đầu thai mới phải luân hồi.

Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã “mười kiếp”! trong mười kiếp Ngài luôn mong tiếp nhận chúng ta, còn chúng ta thì cứ một mực chấp trước trong cái tri kiến mê vọng của chính mình, bị vây hãm trong cái tập khí của chính mình, cứ ở trong cái “vô lượng ám” mà dương dương tự đắc, không chịu cúi đầu trước Vô Lượng Quang mà học tập.

Ân sư khai thị chúng tôi: trong lúc Lão Hòa thượng xuất kỳ bất ý, đột kích khảo hạch, bảo bà mang ngược giày hoặc làm ngược các việc, bà phải làm sao. Bà chấp tay chân thành quì xuống đảng lễ, trải lòng mà xin Lão Hòa thượng chỉ giáo: “giày mà mang ngược thì phải mang làm sao, đi làm sao, đệ tử không hiểu xin sư phụ từ bi chỉ dạy, giày mà mang ngược thì phải mang làm sao? Xin sư phụ dạy cho biết tại sao phải mang ngược?” Lão Hoà thượng gật đầu.

Nghe ân sư kể như thế, chúng tôi hiểu rõ được cái ý vị trong đó, không phải do kính lễ cái tâm cung kính cầu pháp học Phật, đó không phải là “giới, định, tuệ”, là ba cái học của Phật pháp mà trong đáp án của bài thi viết ghi, mà là ba cái học giới, định, tuệ trong cuộc khảo nghiệm lâm sàng.

1/ Vị thầy điên đảo thuyết pháp thậm chí “hăm dọa” dạy ngược, không như pháp, đệ tử vẫn tuân theo giới mà Đức Phật đã dạy, vẫn giữ tâm niệm, thái độ kính sư, kính pháp, không hề có chút lòng khinh sư mạn giáo. Đó chính là “giới”.

2/ Lúc bấy giờ, không phải vì khảo đề là kỳ lạ, hoàn cảnh ngược ngạo mà tâm loạn, đến nỗi phải mê muội mà mất đi cái bổn ý và cái tâm sơ phát học Phật của chính mình. Đó là “định”.

3/ Gặp hoàn cảnh mà phán đoán được chánh tà, không mù quáng theo, không nương sống theo dòng, lại có thể ngay đó, dùng cái tâm trong sáng rõ ràng, cái thái độ cung kính để mong hiểu rõ lý lẽ. Đó là “tuệ”.

Như vậy, gặp cảnh khảo nghiệm, thì niệm đầu tiên, câu đầu tiên, động tác đầu tiên đã biểu lộ sự học tập và cái dụng tâm bình thời về giới, định, tuệ.

Cùng một vị thầy, cùng một khảo đề, thì đáp án làm sao khác được!

Phật học và học Phật không phải cùng một thứ: khảo hạch vấn đáp về “Phật học”, hỏi tam học là gì, bèn viết ra “giơí, định, tuệ”; như thế thì hoàn toàn chẳng khó gì. Nhưng dùng hoàn cảnh mà “học Phật” thì có thể “tam học đều ngưng” thậm chí đều “vứt bỏ hết”. Gặp hoàn cảnh thuận hay nghịch mà sử dụng được tam học giới, định, tuệ, thì mới là học Phật, nếu không thì đó chỉ là “bàn việc binh trên giấy”, không chịu vào chiến trường.

Có người trách rằng, khi anh ta phạm sai lầm vài ba lần, thì vạch rõ anh ta nói năng không lễ phép. Không phân tích rõ ràng, thì anh ta không hổ thẹn mà lớn tiếng nói: “Được rồi, tôi thường làm sai trái, sai trái thì sai trái! Sư phụ cũng nên nhẹ nhàng giữ lễ mà dạy bảo tôi làm sao để sửa chữa!” điều ấy khiến kẻ mạt học này rất kinh ngạc: Vượt đèn đỏ cán chết người ta, mà lại còn trách mắng cảnh sát giao thông, thiếu lễ độ, thiếu phân tích mà không biết cái tâm vượt ẩu, cán ẩu, thiếu lễ độ, không phân tích rõ; lọai “dũng sĩ” như thế, nếu phạm tội mà đọa địa ngục thì cũng đừng trách Diêm Vương và bọn đầu trâu mặt ngựa, không lễ độ, không ôn tồn phân tích đối với anh ta! Cái tâm thái như vậy thì luôn luôn có vấn đề, thiếu mất cái tâm hổ thẹn, học Phật làm sao mà được lợi ích?

Nếu một đứa trẻ đi học mà chỉ mang trái cây cho thầy ăn lại không chịu “cầu học” cho đàng hoàng, khi thầy giảng bài cũng không chịu nghe, nhìn đông ngó tây, thậm chí chỉ mong qua ngày cùng bạn bè; thầy giáo ra bài thi cũng không làm cho tốt, (*) thầy giáo ra bài làm cũng không làm, đã không xét xem mình không hiểu chỗ nào lại cũng không sẵn lòng xin thỉnh giáo, thậm chí không học mà cứ lo phê bình thầy, chỉ ưa để ý đến những chuyện không đâu của bạn bè, ưa cùng các bạn đến vườn trường mà xem chơi, tìm sự khai tâm trong việc thảo luận ăn uống, bỏ phí ngày tháng. Đứa trẻ như thế, chẳng những bị người lớn trách mà còn có thể bị học lùi! Còn ngày nay, mục đích vào đạo trường của rất nhiều người lớn cũng chỉ là mang một ít đồ ăn, trái cây để cúng Phật cúng Tăng (cũng để cho thầy ăn) và cùng đạo hữu bàn chuyện tào lao, chứ căn bản không mong học Phật, không mong tu sửa chính mình. Tình huống này cùng với tình huống đứa bé đi học vừa nêu trên cũng chẳng khác nhau mấy, nhưng điều lạ là, nếu những người lớn mà thấy con mình đi học như thế thì hẳn là biết con mình đã hư, không chừng sẽ đau khổ mà gia tăng sự trách phạt nó. Nhưng chính người lớn đã dùng thái độ này để vào đạo trường (vào học), thì lại rất khó phát hiện rằng mình có vấn đề, rất khó quay đầu mà tu sửa, ngày thường, khi quở mắng thành tích con cái không tốt, rất ít người quay đầu kiểm tra thành tích biểu của mình; điều này thật đáng tiếc. Nếu Phật pháp trăm ngàn vạn năm khó gặp mà bị làm sai như thế thì rốt lại ai có thể gánh vác phần sai quấy này? Kiếp này không lo độ thân này, thì kiếp nào mới độ thân này?

Lão Hòa thượng nói: Phật pháp không có mạt pháp, mà “người” thì có mạt pháp Người không biết kính Phật, trọn pháp. Người già thì đặt Phật pháp tại chỗ mạt nhứt của các sinh hoạt đặt sau tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghê, lại đặt sau “trà dư phạn hậu”, đặt sau “nhân tình thù tạc”. Người mà đem trọng yếu của việc học Phật đặt vào chỗ tối mạt là người của thời đại mạt pháp. Nếu là người tính Phật, trọng pháp thì mãi mãi là người của thời đại pháp! Còn như không theo được Phật pháp, thậm chí còn xướng ngược điệu với Đức Phật thì đó là người của thời đại diệt pháp!

Xin lấy mấy lời trong Truyện “Hoằng Nhật Đại Sư” để cúng dường mọi người cùng gắng sức:

Thân người khó được, đó là nhân duyên muôn đời một chớp mắt, Phật pháp khó nghe, đó là cơ hội trải bao kiếp không gặp, Sai lầm rồi, chẳng ai có thể đảm trách phần sai sót này!

Từ Ngữ Phật Học Trong: Các Khảo Đề Để Tu Hành