Vì tôi nhận ra rằng người bệnh trong cơn thống khổ, tâm tình vốn không vui vẻ, không tránh khỏi nóng giận, cho nên nghe mấy lời ấy, tôi cảm thấy rất bình thường, và cũng chẳng cần hỏi gì thêm. Sau đó khi tôi cùng viện trưởng đến xem xét phòng thì mới phát hiện người bệnh ấy, bên cạnh có mấy nhân viên cảnh sát đứng kèm. Chân anh ta bị còng và anh ta được gởi cho tôi với tư cách người tù được đi trị liệu.
Từ trước đến nay, tôi không đọc báo, nên không rõ chuyện gì xảy ra, mấy cô y tá đều cười tôi mà nói: “Bác sĩ Quách vụ án đấu súng làm vang động cả Cao Hùng mà cô cũng không biết!”. Tôi chỉ cười mà nói: “Tôi chỉ biết thế giới hòa bình của Đức Phật A Di Đà, lũ chim thuyết pháp, đám hoa phóng quang, không có kẻ đánh nhau!” Thực ra, vào lúc việc dùng súng được quản chế rất nghiêm khắc này, cầm súng bắn nhau quả là rất hiếm. Nghe nói người bệnh này là thủ lĩnh trong đám đó, ngực anh ta bị trúng đạn, anh được gởi tới y viện này để giải phẫu, điều trị. Khi mọi người kiểm tra phòng tôi thấy anh ta còn rất trẻ. Sau khi được giải phẫu, ngực anh được tháp mấy cái ống, rất đau đớn. Anh chỉ có thể ngồi ngửa rất khó khăn. Khi nhìn thấy chiếc còng chân của anh, tôi rất chua xót trong lòng. Trẻ tuổi như thế mà phải ngồi tù, cuộc sống lao tù sẽ ảnh hưởng dường nào đến cuộc sống của anh.
Tôi tin rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính; có thể làm thiện, có thể gây ác, thật ra chỉ trong một niệm mà thôi. Làm thiện, gây ác đều tùy vào nhân duyên mà biến hóa, giống như nước có thể chở thuyền, mà cũng có thể lật úp thuyền. Người có thể tùy theo nhân duyên mà làm việc thiện lớn, thành Phật, an lạc vô ưu, cũng có thể tùy theo nhân duyên không tốt mà giết người cướp của, mà chịu khổ vô cùng. Tôi thường quán sát ý nghĩ, tư duy của mình, nhận ra rằng chính mình có khi cũng có những ý nghĩ rất xấu, có khi cũng có những tư duy rất tốt. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài từng nói với đệ tử: trong đời quá khứ xa xưa, Ngài đã từng làm ác, đọa đia ngục chịu khổ, nhưng sau đó Ngài tu tập từ bi và trí tuệ mà được thành Phật. Cho nên từ ánh sáng xa xưa mà nhìn, từ mỗi ý nghĩa mà quán sát thì thật ra không có người nào là người hoàn toàn tốt, cũng không có người nào là người hoàn toàn xấu.
Tôi nghĩ đến lời nguyện của Đức Phật A Di Đà: dù là người đã từng gây việc ác rất nặng, thậm chí đến lúc lâm chung mới có cơ hội nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà, chỉ cần người ấy chịu hồi tâm, chí thành niệm mười tiếng “A Di Đà Phật” thì Đức Phật cũng đến tiếp dẫn người này đến nước Cực Lạc của Ngài, đến chỗ an lạc và đến chỗ nhân duyên tốt lành mà tu học đạo Bồ Tát, giống như trọ học mà nhận được sự giáo dục và đãi ngộ tốt như vậy.
Tôi rất xúc động vì lòng từ bi thanh tịnh vô cùng của Đức Phật A Di Đà. Đôi mắt của đức Phật nhìn thấy ánh sáng của Phật tính bị che giấu trong tội lỗi, trần ai mà tìm cách tạo nhân duyên tốt nhất cho mọi người, để chúng ta khai mở cái Phật tính bị vùi lấp.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ xem chiếu bóng, thấy kẻ xấu bị bắt, bị thất bại, thì mỗi người đều vỗ tay. Sau khi lớn lên, tôi có cơ hội xem kinh Phật, theo như kinh dạy, mới biết thì ra chính tôi cũng là người xấu, nhưng chỉ là một người xấu gặp may mà thôi. May mà khi tôi khởi ý niệm xấu thì Phật lực che chở tôi, may mắn không có nhân duyên khiến tôi thực hiện hành động trong khi tôi khởi lên con mắt tâm xấu xa, thì may được sự chỉ dạy của tất cả Phật Bồ Tát, cha mẹ, sư trưởng hiện ra trong tâm tôi, ngăn cản tôi, cho nên tôi may mắn không gây tai nạn gì, không có cơ hội khiến tôi cầm súng đi đánh nhau, thế thôi.
Cho nên khi đối mặt với người bị trúng đạn, tức kẻ cầm đầu băng đảng xã hội đen, lòng tôi vẫn niệm Phật cho anh. Nghĩ lại thật hổ thẹn vì mình đã tiếp nhận cam lồ của Phật pháp, mà không hề tích cực báo ân, khiến mọi người trong xã hội đều có thể chung hưởng Phật pháp, khỏi bị những tai nạn không đáng có. Thật ra, bấy giờ tôi cảm thấy thương xót vì anh sắp chịu nhiều đau khổ về thân tâm. Nhưng vì tôi không biết phải làm sao để giúp đỡ anh, chỉ có thể trong lòng cầu xin Đức Phật A Di Đà và chư Bồ Tát từ bi, đứng bên cạnh anh mà phóng ánh sáng thanh tịnh, dùng bàn tay mềm mại từ bi mà chữa trị, và tạo nhân duyên cứu độ cho anh.Không biết mấy ngày đã trôi qua, một buổi tối nọ tôi trực tại phòng bệnh, đang chờ bảng báo cáo kiểm tra bệnh nhân, tôi ngồi ở trạm của y tá để thực hiện khóa công phu tối. Có một số đồng sự, bác sĩ, y tá rất từ bi, họ biết tôi có thói quen thực hiện các khóa công phu sáng, tối, có lúc tự động, tự nguyện hộ trì tôi, giúp đỡ tôi một số việc nhỏ nhặt, không gấp rút, để tôi có một khoảng thời gian ngắn mà tụng kinh, niệm Phật, để an định cái tâm rối loạn của mình và cũng để hồi hướng cho các bệnh nhân, cầu Phật, Bồ Tát gia hộ. Do lòng từ bi của các đồng sự, nên dù bận rộn bao nhiêu tôi cũng có thể thực hiện các khóa công phu sáng, tối mà không bị gián đoạn. Tối hôm ấy tôi ngồi tụng kinh niệm Phật ở trạm y tá; khi đang chắp tay niệm xong bài hồi hướng thì trong lòng cũng thầm cầu nguyện cho người bệnh bị đạn kia. Vì anh là người bệnh ngoại khoa, tôi không trực tiếp đến săn sóc anh được. Y viện đã phân định người của khoa nào thì đảm trách khoa ấy. Phòng bệnh này gồm nội, ngoại khoa hỗn hợp, nhưng nếu không phải là trường hợp đặc biệt, thì chúng tôi không được tự tiện, vượt quyền mà khám bệnh nhân của khoa khác. Khi tôi niệm Phật xong và mở mắt ra, thì đúng vào lúc tôi nhìn thấy người bệnh ấy. Giường của anh ta đối diện với trạm y tá, dường như anh ta đưa tay phác một cử chỉ đặc biệt, tôi nhìn lại cho rõ, chính anh ta đang vẫy tay gọi. Tôi hỏi: “Anh gọi tôi ư?” anh gật đầu, tôi lại hỏi: “Có việc gì cần tôi giúp chăng?”, anh nói: “Cô đến khám bệnh giúp tôi!” Vì vết thương đau đớn nên anh nói rất khó nhọc, quả là Đức Phật A Di Đà hộ trì, tôi mới có cơ hội giúp đỡ anh, do đó tôi bèn lấy bảng ghi bệnh của anh mà xem kỹ, kiểm tra lại ống nhựa đang được tháp cho anh, nghe kỹ tiếng hơi thở của anh. Xem ra anh đã có phần nào khôi phục, có điều ngày đêm đều phải tháp ống và phải ngồi, cho nên rất khốn khổ.
Vì tôi có một lời nguyện: Tôi làm việc tại y viện chỉ cần có cơ duyên khám bệnh nhân là tôi đều mong họ có thể niệm Phật, ít ra là niệm một tiếng A Di Đà Phật cũng là tốt. Vì mong ước này, mà tôi phải chịu rất nhiều ánh mắt kỳ lạ và những nụ cười chế nhạo, nhưng tôi vẫn tiếp tục dùng cách này để đề tỉnh mình niệm Phật, đề tỉnh mình cũng là khích lệ người khác. Có điều là chính anh ta nhờ tôi khám bệnh cho anh, khiến tôi thêm phần hổ thẹn và ân hận.
Tôi đem bảng báo cáo bệnh tình của anh mà giải thích cho anh nghe; trong ống nhựa tháp cho anh còn có một ít nước máu và chất dơ chảy ra. Tôi nói: “Nếu như tâm tình anh bình tĩnh thì vết thương sẽ khôi phục rất nhanh. Vì tâm người ta bình tĩnh thì năng lượng sẽ không bị hao tổn, thân thể có thể tập trung năng lượng cho việc phục hồi”. Anh nhíu mày nói: “Khổ quá, thật là khó chịu, lòng tôi rất rối loạn!” tôi an ủi anh: “Thật ra, nếu tôi và anh đều bị thương mà phải tháp ống nhựa, phải ngồi suốt ngày đêm thì cũng rất khổ sở, rất rối loạn. Nay anh đã rất nhẫn nại thật là khó được vậy! Tôi là Phật giáo đồ, khi tâm tôi rất khổ, rất rối loạn, tôi cảm thấy niệm A Di Đà Phật thì có hiệu quả, khiến tâm linh rất bình tĩnh. Rất nhiều bệnh nhân cũng đã thử làm như vậy và kết quả rất tốt. Anh có muốn thử không?” Anh ta lại nhíu mày nhìn tôi, không hề có ý bác bỏ. Bấy giờ là lúc không có ai gọi tôi, tôi vẫn tiếp tục trò chuyện cùng anh. Tôi nói: “Đức Phật A Di Đà giống như mặt trăng chiếu sáng trong đêm tối. Người ta nói: “ngàn sông có nước ngàn sông trăng, vạn dặm không mây vạn dặm tạnh! Aùnh sáng của Đức Phật chiếu sáng tâm chúng ta cũng như vậy. Tâm của Đức Phật thì từ bi và bình đẳng. Dù là biển lớn dù là sông nhỏ, hay thau rửa mặt, khe nước đều có thể hiện bóng trăng.
A Di Đà Phật là tên của một đức Phật, Hán âm là “A Di Đà”, nghĩa là Vô lượng, “Phật” là đấng giác ngộ, gộp lại thành “Vô lượng Giác ngộ”nghĩa là trong vô hạn cảnh ngộ đâu cũng đều giác ngộ. Sự vô lượng của A Di Đà bao hàm cả ánh sáng vô lượng, thọ mạng vô lượng, cũng bao hàm mọi công đức, mọi trang nghiêm tốt lành trong thời gian và trong không gian.”Trước hết tôi đem danh hiệu A Di Đà Phật mà nói cho anh biết, xem như bài học vỡ lòng.vì đời người rất vô thường nhân duyên cũng rất biến hóa, có lẽ tôi và anh trên đời này chỉ có nhân duyên nói chuyện một lần này mà thôi, có lẽ từ đây về sau chúng tôi không còn gặp mặt nhau nữa, cho nên lúc anh đang khổ nhất, tôi mong muốn sẽ trao cho anh lễ vật lớn nhất, tốt nhất là Đức Phật A Di Đà. Đương nhiên có thể anh không tiếp nhận mà giao trả lại cho tôi, đấy cũng là chuyện thường tình. Có điều, một khi người ta nghe đọc danh hiệu Phật, thì giống như ăn phải một dùi kim cương, không thể nào tiêu mất được; có được hạt giống Phật thì sẽ nở hoa kết trái, bất kể đó là chuyện rất lâu về sau. Cho nên, dù người nghe có trừng mắt hay cười nhạo tôi, tôi cũng rất vui mà làm như vậy.
Anh ta rất từ bi, phong độ cũng rất tốt. Anh hoàn toàn không khịt mũi mà cười nhạo tôi, trái lại anh biểu lộ thái độ chân thật và bất ngờ. Tôi nghĩ rằng những người cầm đầu băng đảng xã hội đen đều có năng lực, lại có khí phách nghĩa hiệp, nếu trong một niệm tâm mà hồi quang phản chiếu, thì họ cũng có thể giúp đỡ người khác mà không tiếc sinh mạng, thực hành đạo Bồ Tát; hơn nữa, dũng khí, nghị lực của họ vẫn luôn vượt hơn rất nhiều người. Cho nên tôi rất cảm khái mà nói với anh: “Theo trực giác của tôi, anh là người rất có lòng nghĩa hiệp, nay chỉ vì nhân duyên không tốt, mới bị trúng đạn thọ thương mà phải chịu khổ ở đây. Nhưng đứng trên mặt khác mà nói, thì đây cũng là một nhân duyên tốt; vì trong sự thể nghiệm lần này, anh càng hiểu hơn nỗi thống khổ, bức thiết của người ta, và đời người là vô thường. Hiểu được chính mình tức là hiểu được người khác. Với lòng nghĩa hiệp và dũng cảm của anh, nếu thể nghiệm nỗi khổ của mình là thể nghiệm Phật pháp, rồi khéo phát huy thì chắc chắn anh có thể thành tựu sự từ bi, trang nghiêm giống như đức Phật vậy.”
Tôi lại nói với anh: “Anh có thấy bảng nghạch ở trong chùa Phật có ghi “Đại Hùng Bảo Điện” chăng? “Đại Hùng” tức là đại anh hùng. Đức Phật là bậc anh hùng vĩ đại nhất, Ngài là bậc từ bi nhất, trí tuệ nhất. Đại anh hùng chính là có thể vượt qua chính mình, có thể an nhiên cam chịu những gì mà người bình thường không thể cam chịu được. Tôi tin rằng anh có thể trở thành đại anh hùng!”
Nói xong tôi liền lấy ra tượng Tây phương Tam Thánh mà tôi luôn cất giữ trong đảy và giới thiệu cùng anh ta: “Tượng này là do thầy tôi là Pháp sư Sám Vân vẽ, mỗi khi tâm tôi bị rối loạn, tôi liền thích chiêm ngưỡng đôi mắt từ bi của Đức Phật; xin tặng anh tượng Phật cao quí này, khi nào anh cảm thấy không thoải mái thì hãy trầm tĩnh nhìn vào đôi mắt của Đức Phật A Di Đà, lòng trầm tĩnh niệm Phật, đôi mắt Đức Phật rất từ bi, giống như lúc nào cũng an ủi chúng ta. Nếu như rũ mắt mà niệm Phật thì giống như Đức Phật vậy. Vị đứng bên trái Đức Phật A Di Đà này là Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài luôn quan sát mà nghe tiếng gọi của chúng sinh, tìm âm thanh mà cứu khổ. Ơû đâu có khổ thì Bồ Tát liền cứu ngay. “Cứu khổ, cứu nạn” chính là chí nguyện của Bồ Tát. Anh xem Bồ Tát Quan Thế Âm đang cầm cành liễu mềm và bình nước cam lồ thanh tịnh, anh, tôi cùng tất cả chúng sinh đều như nhau, vốn đều có một hạt bảo châu Phật tính, chỉ vì chúng ta trôi lăn trên thế giới này quá lâu, mặt trên của hạt bảo châu bị nhuốm nhiều bùn đất, tro bụi. Nếu như có nước cam lồ thanh tịnh rửa sạch tro bụi thì có thể khôi phục sự sáng sủa của hạt bảo châu thanh tịnh. Nhìn tượng Phật tức là tạo cho chúng ta sự đề tỉnh tốt đẹp nhất, nhắc nhở chúng ta hãy khôi phục sự sáng sủa của hạt bảo châu, nhắc nhở chúng ta hãy từ bi.
Anh có muốn thử niệm Phật chăng? Niệm Phật không những ngay đây được bình tĩnh, khiến thân thể khôi phục sảng khoái, mà còn mỗi niệm đều khôi phục sự sáng sủa của bản tính chúng ta, mỗi niệm đều có thể cải tạo vận mệnh chúng ta. Càng niệm Phật thì tâm càng không có bụi trần, tiền đồ càng sáng sủa. Đời chúng ta đều phải chấm dứt, sau này khi cuộc đời chấm dứt, chỉ cần chúng ta nguyện đến thế giới của Đức Phật A Di Đà mà nguyện A Di Đà Phật thì đức Phật sẽ đến tiếp dẫn chúng ta.”
Nói xong, tôi đưa tràng hạt và tượng Đức Phật cho anh ta. Bấy giờ tôi thật cảm ân anh ta đã không từ chối tôi, sau khi nhận anh lại còn lần từng hạt châu mà niệm A Di Đà Phật. Tôi quay về phía anh mà kính cẩn chắp tay, cơ hồ muốn rơi nước mắt, quả thật anh có thiện căn thâm hậu hơn tôi nhiều, chỉ vì nhân duyên kết hợp rối ren, phức tạp mà thôi. Tôi tin rằng Đức Phật từ bi sẽ không quên anh, sẽ không bỏ anh.
Tối hôm ấy vì có bệnh nhân khác cần được săn sóc, cho nên tôi chỉ nói chuyện với anh chừng ấy mà thôi, tự anh ngồi mà chân thành niệm Phật. Hôm sau trong lúc giao ban, cô y tá săn sóc anh đã lớn tiếng cảm thán: “Ốùi chà! Đã chuyển biến một trăm tám mươi độ! Cái anh chàng kia hôm nay thật lễ phép, không còn kiểu như kêu la bộ hạ, lại nói với tôi: A Di Đà Phật! Cảm ơn”, quả là khiến tôi vừa được sủng ái vừa phải kinh sợ!”
Cô y tá ấy còn quay đầu về phía tôi mà nói: “Ồ! Niệm A Di Đà Phật thật hữu dụng, pháp lực của Đức Phật A Di Đà thật vô biên!” tôi nghe xong thì rất cảm động mà cũng rất hổ thẹn, vì tôi đã nghe Phật pháp từ rất lâu mà chưa cải biến được cá tính, tánh tình như anh. Anh quả thật là một người hiếm có. Cầm súng đi đánh nhau không gọi là dũng cảm; có thể chiến thắng tự mình, mới thật là bậc anh hùng dũng khí! Tôi chân thành kính phục dũng khí của anh!
Câu chuyện này cũng khiến tôi thấu hiểu điều mà Đại sư Ngẫu Ích nói, công đức của danh hiệu Đức Phật A Di Đà quả thực có thể xúc động hạt mầm thiện của người thế gian, có thể khơi dậy kho báu mà chúng ta vốn có. Hôm sau nữa, khi chúng tôi kiểm tra phòng, tôi bỗng nhìn thấy tượng Phật mà tôi tặng cho anh ta, được dán bằng băng keo ở gần giường nằm của một người bệnh kế phòng anh, tại một vị trí mà lúc nào người bệnh cũng dễ nhìn thấy, tôi cảm thấy kỳ lạ. Sau đó, tôi đến khám bệnh cho anh, và thấy có một giường trống. Anh nói với tôi: “người bệnh ở giường này đã chuyển sang phòng bên kia. Tôi thấy người này lại bị nặng hơn, lại đau khổ hơn tôi, nên tôi đã đem tượng Phật và tràng hạt gửi qua giường kia cho người ấy. Tôi khuyên người ấy niệm Phật và tôi cũng niệm Phật cho người ấy.” Anh hỏi tôi: “Cô có thể cho tôi một tràng hạt khác không?” lần này tôi cảm động đến nỗi phải lấy tràng hạt gồm 108 hạt mà chính tôi dùng trong lúc công phu tụng niệm mà trao cho anh.
Nghĩ lại thật đáng hổ thẹn, tôi đây đã hai mươi năm có duyên nghe Phật pháp, nhưng thời gian mười mấy hai mươi năm đã luống qua, tôi vẫn chưa được như anh, có dũng khí tích cực “Biết là làm ngay”, chỉ trong một đêm đã cải biến mình, lại còn có thể giúp đỡ người khác ngay. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng, lấy kinh nghiệm làm thủ lãnh của anh trong quá khứ, giả như trong lòng chuyển biến một niệm, lấy từ bi, trí tuệ của Phật pháp mà làm bước tiến trong đời, thì nhất định sẽ rất thành tựu. Tôi thật không nỡ nhìn anh vào tù! Anh đã có thể hàng phục sự nóng giận và phiền não của mình, hôm qua cầm súng đánh nhau, hôm nay đã có thể từ bi chăm lo người bệnh ở giường phòng bên. Có thể nói, quả thật bây giờ đây nhà tù không cần thiết đối với anh! Bệnh tình của anh rất chóng khỏi, nên từ phòng đặc biệt anh chuyển sang phòng bệnh thông thường. Sau khi anh rời phòng đặc biệt, tôi không còn thấy mặt và nói chuyện với anh nữa.
Cách đó một hôm, tôi leo lên cầu thang để đến tầng mười xem điện não, khi đi ngang qua phòng bệnh ngoại khoa ở tầng năm, đang vội vàng lên cửa cầu thang tôi bỗng thấy hai bóng người đang đi ở hành lang phía trước, một người mặc đồng phục cảnh sát, một người mang còng ở chân, tay cầm một chuỗi tràng hạt dài. Tôi ngoái nhìn theo thấy tay anh đang lần hạt, lần từng hạt, từng hạt rất bình ổn, bước chân anh cũng bình tĩnh và an định.
Tôi ở phía sau lưng anh, chắp tay cung kính hướng về anh mà không hkỏi rơi lệ, tôi thấy như dưới chân anh đã có những đóa hoa sen thanh tịnh. Chiếc còng ở chân anh cũng không còn cần thiết nữa, tâm của anh đang yên tịnh niệm Phật tức là đã giải thoát khỏi sự phẫn nộ của việc cầm súng đánh nhau. Sợi dây bên trong tràng hạt niệm Phật tuy mềm mại, nhưng ngăn cản việc tái phạm sai lầm còn kiên cố hơn sắt thép! Tôi không biết sau này tòa án sẽ phán xét anh thế nào, cũng không biết anh sẽ đi đến đâu, chỉ thấy đàng sau, anh đang cầm tràng hạt, đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh; nhưng tôi tin rằng dù anh đi đến đâu, chỉ cần nhớ niệm Phật thì Phật và Bồ Tát sẽ âm thầm hộ niệm anh.
Đối với người đã có thể hồi quang phản chiếu, dùng việc niệm Phật để thanh tịnh tự tâm, thì dù là nhà tù cũng có thể làm đạo trường tinh tấn tu hành. Thân thể tuy bị giam cầm, nhưng giả như tâm có thể niệm Phật thì có thể mọi bất mãn, buồn giận trong quá khứ đều được vượt qua mà đến sự tự do chân chính. Ngược lại dù ở chỗ phong cảnh đẹp đẽ mà tâm luôn bị phiền não, thị phi trong qua khứ, bị các thứ lời ra tiếng vào của người khác ràng buộc, thì quả thật cũng giống như nỗi thống khổ của người bị giam trong nhà tù, không được tự do!
Nhà tù thật ra cũng là do mình tự tạo, cũng là phải tự mình vượt khỏi vậy! Niệm Phật khiến tâm được tự do!
TRẺ THƠ BIẾN THÀNH DI ĐÀ CON MUỐN GIỐNG NHƯ ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Tôi có một chị bạn, con chị mới đi vườn trẻ. Đứa bé rất dễ thương, tính tình rất nhân từ. Eõm xem các loài vật nhỏ trong nhà như bạn tốt của em. Em thường xin ông, bà đừng dẫm chết những con gián yêu quí. Một hôm, ông em không để ý đến lời yêu cầu của em, đã đạp chết mấy con gián ở trong phòng tắm, không ngờ bé gái này khóc rống lên: “con gián chỉ ra tản bộ, vì sao ông đạp nó chết? Cha mẹ nó, ông bà gián của nhà nó đều sẽ đau lòng mà chết!”nói xong, bé gái lại khóc mãi giống như mất đi người bạn thân thiết.
Ong bà em không biết phải làm sao, chỉ còn cách an ủi em: “ói chà! Đừng la khóc nữa! Đừng la khóc nữa!” em nghe liền nghiêm nghị nói: “Chẳng lẽ cháu chết đi, ông bà lại không đau lòng sao?” mọi người nghe xong liền ngẩn ngơ không đáp được. Thật vậy! Họ nghĩ: “Đúng thế, nếu một hôm nào cháu bé dễ thương của chúng ta đang đi trên đường bị một người tài xế cố ý lái xe cán chết nó, cán giẹp nó, chẳng lẽ chúng ta không đau lòng sao?”. Mẹ nó rất lấy làm lạ mà kể chuyện lại với tôi, đưa bé này sao lại có thể nói ra những lời như thế? Ngay cả chính chị ấy cũng không ngờ tới, còn tôi thì nghe xong cũng cảm thấy không thể nghĩ bàn được. Phật pháp cũng dạy, cái tinh thần “đồng thể đại bi”, phát xuất từ một đứa bé gái lớn tuổi, quả thật khiến cho người ta phải khâm phục.
Em bé có thể hiểu được nỗi đau đớn của một con vật nhỏ, giống như tự thân em chịu đau đớn, quả không phải là đơn giản vậy!
Em bé này nghe được danh hiệu của Đức Phật A Di Đà liền rất mừng rỡ, nhảy nhót! Và rất kỳ diệu là em sùng bái Đức Phật A Di Đà, tâm tâm niệm niệm, trong lòng liền nghĩ tới học tập đức Phật A Di Đà.
Mẹ em mới học Phật không lâu, thấy con mình như vậy thì tự than mình không bằng con. Ví như khi em ăn cơm, thấy đĩa đồ ăn nào cũng hỏi; thấy cá em liền hỏi: “Đức Phật A Di Đà có ăn cá không?” Mẹ em bảo: “Không!” Em bèn nói: “Đức Phật A Di Đà không ăn thì con cũng không ăn”. Bà nghe thấy thế liền trố mắt nhìn em, em cười rất dễ thương mà nói: “cháu muốn như Đức Phật A Di Đà, Đức Phật A Di Đà ăn, cháu mới ăn”. Rất nhiều người lớn không biết rằng học Phật chính là phải học tập giống như đức Phật A Di Đà.
Điều kỳ diệu hơn là: trên xe buýt chở em đến vườn trẻ, em lại dạy các bạn trên xe xướng A Di Đà Phật; ăn điểm tâm tại vườn trẻ, em chắp tay mời Đức Phật Di Đà ăn trước, em lại còn niệm: “Cúng dường Phật, cúng dường Phật, cúng dường Tăng, cúng dường hết thảy chúng sinh”. Các bạn toàn lớp đều học theo em, cô giáo rất lấy làm lạ nên hỏi mẹ em, chính mẹ em cũng rất lấy làm lạ, vì sao có một số việc chính chị cũng không biết, làm sao có thể dạy em được? Quả thật, mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, trẻ em cũng có Phật tánh, có sự tu hành và thói quen của đời trước, hoàn toàn không phải là trong đời này mà dạy được. Khi nhìn em ngủ tôi thấy tay em nắm tràng hạt, sau đó mới mở miệng lầm thầm niệm Phật. Thấy thế tôi bội phục em sát đất và rất hổ thẹn, vì bấy giờ tôi đây cũng không làm như thế được. Nếu tôi cầm tràng hạt niệm Phật rồi ngủ đi đến khi tràng hạt rơi xuống giường phát ra âm thanh, tôi mới tỉnh lại, rồi lượm tràng hạt lên rồi tiếp tục niệm, còn em thì trong khi ngủ cũng có thể “Phật không rời tâm, tâm không rời Phật”, chân thành mà tưởng niệm Phật như vậy, chân tâm hoan hỉ giống như Đức Phật A Di Đà. Tinh thần của em quả là bậc thầy của tôi. Thấy em bé này, tôi không khỏi đứng lên kính lễ.
NGƯỜI PHỤ NỮ BÌNH THƯỜNG TRỞ THÀNH ĐỨC QUÁN THẾ ÂM NIỆM PHẬT THUẦN HÓA BẠO LỰC, CỨU KHỔ, CỨU NẠN
Tôi có một chị bạn, thường cùng tôi đi chùa. Đặc biệt ở chị là sự trầm mặc và sự linh hoạt. Hễ có ai nói chuyện với chị trong một buổi chiều thì sẽ sảng khoái đến hơn cả năm. Tôi giao thiệp với chị đã rất lâu, biết được niềm tin vững vàng của chị, đó là học theo Bồ Tát Quán Thế Âm mà đi đến đâu cũng giúp đỡ người ta, khiến người ta an vui và có lòng tin. Khi một người chân thành với nguyện vọng của mình thì thỉnh thoảng có cái sức mạnh không thể nghĩ bàn. Chị bạn này cũng đã trãi qua một sự việc như vậy.
Có lần, một người bạn của chị vừa dời đến ở một chung cư mới, rất nhiều người đến chúc mừng, chị cũng đến. Chung cư ấy còn rất nhiều phòng trống chưa có người ở. Trong khi mọi người ngồi bàn chuyện gẫu, chị nói chị có cảm giác có người đang cầu cứu chị, khiến chị rất bứt rứt, ngồi không yên cứ niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, lại nói với chúng bạn: “các vị cứ ngồi đây, tôi phải lên lầu xem sao!” nói xong chị liền vội vàng chạy lên lầu chót của chung cư.
Quả thực, Bồ Tát Quán Thế Âm Đại từ Đại bi cứu giúp! Chị vừa chạy tới lầu chót thì thấy một tên côn đồ đang ôm chặt một em nữ sinh trung cấp, trói và bịt mồm em, sắp làm điều vô lễ. Cô gái đang rất sợ hãi, có thể đang cầu xin Bồ Tát giúp đỡ. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc thì bạn tôi kịp chạy đến.
A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Chị tràn đầy chính khí, lại oai phong lẫm liệt mà niệm Phật. Chị hoàn toàn quên mình chỉ là một cô gái bình thường không có võ nghệ, nhưng tấm lòng đại bi và dũng khí của Bồ Tát tràn đầy tâm chị, chị hoàn toàn không sợ hãi trước kẻ “dùng bạo lực ôm chặt một nữ sinh lên lầu chót”, cũng hoàn toàn không sợ đối phương làm tổn thương mình. Chị cứ việc thể hiện chính khí oai phong mà niệm Phật. Phật lực giúp đỡ, chị hoàn toàn không dùng vũ khí mà vẫn có thể bắt giữ và giáo huấn tên côn đồ. Sau đó lại cởi trói cho cô gái và an ủi cô.
Bạn bè không biết chị chạy lên lầu để làm gì, sau đó mọi người đều theo chị, đến nơi mới biết chị đang dũng cảm thực hiện lời nguyện hàng ngày trước Bồ Tát. Sức cảm ứng của tâm linh thật không thể nghĩ bàn. Niệm Phật không những tiêu tai miễn nạn, mà còn có thể cứu khổ, cứu nạn. Lần này không những chị cứu được cô gái kia, mà còn cứu cho kẻ đầu óc ngu tối nọ khỏi phạm tội và khỏi chịu ác báo về sau.
Phần lớn các bạn gái chúng ta không đủ sức đảm nhận sự việc như thế. Nếu vạn nhất gặp trường hợp ấy thì chúng ta sẽ hoảng hốt, thất thế chứ đừng nói chi đến việc cứu người, và bắt giữ, giáo huấn kẻ dùng võ lực toan phạm tội. Thật ra chị bạn tôi cũng chỉ là một cô gái bình thường, không có võ nghệ chỉ nhờ niệm Phật mà có được lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn, và trí tuệ oai dũng. Mọi người đưa cô gái ấy về nhà an toàn, cha mẹ cô cảm kích không nói nên lời, rối rít cảm ơn, cảm tạ Bồ Tát cứu giúp.
TẠO SÁT BIẾN THÀNH TẠO SINH “PHÓNG SINH” THÌ KHUYẾN KHÍCH TẠO SINH HƠN LÀ “ĂN CÁ”
Thường thường dưới giường hoặc dưới bàn của bệnh nhân đều có một cái nồi nho nhỏ hoặc than nhỏ đựng cá lóc, cá chép còn sống để làm thức ăn cho người bệnh. Mỗi lần đi kiểm tra phòng tôi đều nghe tiếng cá quẫy.
Có lần tôi đến khám bệnh cho một cô gái 21 tuổi bị ung thư vú, cô là một tín đồ Cơ Đốc giáo. Mới chừng ấy tuổi mà đã mang bệnh ung thư vú, các vị có thể tưởng tượng cô khổ biết bao. Mỗi lần nằm trên sàng kiểm tra, hai tay cô cứ cứng đơ, lạnh cóng. Một hôm bước vào phòng bệnh, tôi nghe dưới giường có tiếng quẫy động, tôi rất xúc động nói với cô: “tôi nghe dưới giường cô có người kêu cứu chúng ta!” Cô nghe xong trố mắt nhìn tôi. Tôi hỏi: “khi cô mắc bệnh này, nhất định cô rất mong có người cứu cô, phải không nào?” Cô gật đầu. Tôi nói: “mấy con cá lóc dưới giường cô đang nghĩ chúng sắp bị người ta bỏ vào nồi nóng, sẽ mất mạng, cảm giác của chúng cũng giống như tâm trạng của cô bây giờ vậy. Cô có muốn làm đấng Christ của chúng không? Cô xem chúng đang cầu khẩn cô đấy, hãy xem đi!”. Chúng tôi cùng nhìn mấy con cá, mí mắt cô đỏ lên, ngấn lệ. Tôi nói: “nếu cô phát tâm cứu chúng thì trong khi cô gặp khốn khó tự nhiên sẽ có người đến cứu cô.” Cô vui vẻ đồng ý phóng sanh bọn cá. Mấy con cá kia vui vẻ được sống, khiến nỗi lòng ảo não của cô cũng khởi lên một sinh cơ xán lạn!
Có lần tôi nói với các bệnh nhân: “Các vị bán cho tôi thau cá sống này được chăng?” Các bệnh nhân thường đáp: “Thưa bác sĩ! Cô muốn ăn thì xin tặng cô vậy!” Tôi nói: “Tôi ăn chay, không ăn cá, tôi muốn mua mớ cá này để phóng sinh, đem công đức của việc phóng sinh này mà hồi hướng cho các vị, cầu Phật bảo hộ để các vị giống như lũ cá này, được phóng thích, được khỏe mạnh trở lại, được cuộc sống mới, mai mốt về nhà đoàn tụ gia đình, không phải chịu đau đớn, khổ sở nữa!”
Phần lớn các bệnh nhân đã qua cửa sinh tử, đã chịu khổ sở thì mới vừa nghe đến đã hiểu được rằng ta cũng giống như mấy con cá kia, cá cũng giống như ta, từ đó lấy lòng so lòng mà phát khởi từ bi. Một niệm từ bi giống như gió xuân ấm áp, như sương mai ngọt ngào. Cảm xúc và tâm ý của người bệnh phóng sanh cho cá, lại có thể làm sung mãn sinh mạng của họ, khích lệ sinh cơ của họ.
CỰC KHỔ TRỞ THÀNH CỰC LẠC CHƯƠNG ĐẶC BIỆT VỀ BỒ TÁT HOAN HỶ
Chúng ta từng có một chuyên đề (băng từ và sách) giới thiệu người thật, việc thật về Bồ Tát hoan hỷ. Có người cho rằng: “Bồ Tát hoan hỷ đại khái là do có chồng thiện lành, con hiếu thảo, gia đình tốt đẹp, kinh tế như ý, cho nên mới hàng ngày hoan hỷ. Nếu như người ấy gặp nghịch cảnh thì có lẽ không hoan hỷ được!” thực ra thì ngược lại, sự hoan hỷ của chị có được là do từ việc chân thành niệm Phật trong lúc đau khổ nhất, cho nên mới thật là quý báu. Qúa trình của cuộc đời chị chính là điển hình của sự nguy khốn trở thành hoa sen báu.
Mười mấy năm trước tôi quen biết chị, gặp chị bên giường bệnh của y viện. Bấy giờ chị mang vẻ mặt buồn bã thẫn thờ, mang đứa con gái 15 tuổi bị ung thư vào thời kỳ cuối, từ làng quê ở Nam bộ, bôn ba đến Đài Trung để xin chữa trị tại y viện. Chị hoàn toàn không có người thân thích, ngơ ngác không biết phải làm sao, lại thêm ói mửa vì say xe, mặt mày tái nhợt, tiều tụy. Chị nói với tôi: “Tôi dùng xe đạp chở đứa con bị bệnh nặng, đi từ đường ruộng trong làng, không biết phải đi tới đâu để xin chữa bệnh, ngơ ngác như mất hồn ” nói xong đôi mắt chị đầy lệ của người từ mẫu trước số phận của đứa con.
Khi con chị mới nhập viện, có lần chị vô nhà tắmthì đúng lúc bà cụ nằm ở giường bên kia sắp té xuống đất mà không có ai đỡ. Đứa con gái bà thấy thế, nhưng chính em đang được truyền dịch, không cử động được nên vội kêu lên: “Má ”. Chị ở trong nhà tắm nghe được ngỡ con mình có chuyện gì nguy biến, liền vội chạy ra, nhưng vì chị qua sợ hãi nên đôi chân chị nhũn ra, chị mới ra đến cửa phòng tắm liền khuỵu xuống, hai đầu gối bị vỡ. Đó là tâm cảnh của chị khi chưa học Phật.
Mũi, họng con gái chị bị sưng, lại nữa, theo sơ chẩn thì bệnh đã nhập tới tủy sống và não bộ, hạch cổ cũng sưng to. Đã thế gia cảnh chị lại rất khốn quẫn. Nhà vốn trồng dưa hấu, nhưng không hiểu sao năm ấy, cả đám ruộng chẳng có lấy một trái dưa nào; lạ hơn nữa là gà vịt nuôi trong nhà cứ lần hồi chết sạch. Để trả tiền thuốc men chữa trị, ắt chị phải bán hết ruộng vườn, nếu không thì phải vay nợ, kinh tế thật khốn đốn chị trãi qua cảnh khổ này, mà nếu người khác thì đã oán trời trách người, nhưng chị không hề có lời than vãn nào, đi đâu chị cũng cảm ơn, giữ lòng thiện lành. Bấy giờ tôi phát hiện rằng đối với đứa con bệnh khổ này, có lúc chị cũng rơm rớm nước mắt, nhưng sau đó chị liền tỏ ra vui vẻ, kiên định và từ ái mà an ủi con mình.
Bấy giờ bác sĩ chủ trị quyết định đặc biệt trị liệu hóa học, truyền dịch cho em liên tục bảy ngày, bảy đêm. Rất nhiều người lớn trãi qua sự trị liệu này đều phải ói mửa, khổ sở khôn xiết, huống chi là một em bé! Em bé nhỏ tuổi như thế mà phải xa nhà, xa quê đến y viện khác lạ, lại thấy giường bệnh bên cạnh có nhiều người bị bệnh nặng và lần thứ nhất phải truyền dịch quả là đáng sợ. Em phải mở mắt lớn chịu đựng bảy ngày, bảy đêm không dám nhắm mắt ngủ.
Bấy giờ, tôi kể chuyện cho mẹ con chị nghe, khuyên họ yên tâm mà niệm Phật. Có thể do căn lành đời trước sâu dày, mẹ con chị nghe được liền rất tin tưởng không nghi ngờ, và bắt đầu thành tâm niệm Phật. Người mẹ (sau này là Bồ Tát hoan hỷ) trong lúc đang khổ sở nhất, đã đem toàn tâm toàn lực chuyên chú vào câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, một lòng giúp con niệm Phật. Do thương yêu con vô cùng, chị quên mình, quên thân, quên mệt mà ngủ, không nghỉ để niệm Phật bên giường bệnh, niệm suốt bảy ngày bảy đêm, tinh tấn và dũng mãnh còn hơn chúng tôi niệm Phật ở chùa. Về sau chị nói với tôi: “bấy giờ khổ cực gì tôi cũng đều quên hết, cũng không cảm thấy thân mình ở đâu, chỉ còn lại một câu “A Di Đà Phật”. Chị nhờ vào bốn chữ ấy mà thoát khỏi “nước Cực Khổ”!
Chồng chị là công nhân xi măng, hằng ngày khi hết giờ làm việc thì đáp xe lửa từ Nam bộ, rồi đổi xe đến Đài Trung săn sóc đứa con gái đang nằm bệnh viện. Mỗi tối ông ngồi ngủ trên một cái ghế dài. Đến khi trời còn chưa sáng, ông rời y viện để chuẩn bị đáp xe đi làm; ngày nào cũng như vậy. Ông cũng đã từng vì mệt quá mà ngủ quên trên xe, khi tỉnh ra thì mới biết là qua khỏi trạm, đành phải quay về lúc ấy tôi là bác sĩ thường trực, nữa đêm đi khám bệnh nhân. Mỗi khi đi qua phòng bệnh bé gái ấy, tôi đều vô cùng cảm động khi thấy hai vợ chồng thương yêu, săn sóc con mình trong gian khổ. Bao nhiêu lần nhìn thấy người cha mệt mỏi, ngày nào, đêm cũng đến, sáng thì đi, tôi thành tâm kính lễ hình bóng của ông. Nét mặt của ông trong gian khổ mà vẫn thuần hậu, thật tha, ø chất phác, quả thật đã thấy tôi vừa tôn kính, vừa chua xót.
Bồ Tát hoan hỷ kể lại: năm ấy khi chị đưa con xuất viện về nhà, gặp lúc gió bão. Về đến nhà chị thấy nhà đã bị tróc mái, nhiều chỗ bị gió cuốn bay mất, may nhờ các thân hữu giúp đỡ, đem gạch đá dằn cột lại, mới giữ được mái nhà, nhưng vẫn không tránh khỏi mưa dột, nước đọng mấy đứa con quá sợ mưa to gió lớn, phải ngồi dưới đất, tình cảnh thật đáng thương. Đứa con vừa mới xuất viện về nhà chưa yên, chị còn phải lo đêm nay không biết cả nhà phải trú thân ở chỗ nào, thật là “nhà dột mà gặp mưa suốt đêm!” Điều đáng quý là chị không có nước mắt như mưa rơi, lòng tin cũng không bị gió cuốn! Mưa suốt đêm chị niệm Phật như mưa tuôn, niệm như hạt lớn, hạt nhỏ rơi xuống mâm ngọc; gió mạnh thổi, chị niệm Phật còn mạnh hơn, an định hơn gió, lấy tâm niệm như hư không, không sợ gió.
Chị không phải ở trong thuận cảnh mà niệm Phật, chị ở trong khốn cảnh “nhà hư gió thổi, mưa dột, con bệnh, gà vịt đều chết hết, ruộng vườn không thu hoặch được, con cái đều sợ hãi, không chỗ an thân; khổ đến cực điểm, dũng mãnh nêu Phật hiệu, giao tất cả cho Đức Phật A Di Đà. Vào lúc sức người hoàn toàn không làm gì được, chị toàn tâm tin cậy Đức Phật A Di Đà mà niệm Phật hết sức chân thành, hết sức khẩn thiết!”
Như trên đã nói rõ ràng công đức niệm Phật thì không thể nghĩ bàn. Chị đã phá bỏ các khổ đau mà thoát nhiên bừng tỏ, liễu mờ hoa sáng một làng đây! Chương “Đại Thế chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông” có ghi: “Nếu lòng chúng sinh niệm Phật, nhớ Phật, tương lai trước mắt nhất định thấy Phật, đến Phật không xa, không nhờ phương tiện, tự được tâm khai, như người nhiễm hương thân có hương khí, như thế gọi là hương quang trang nghiêm.” Tôi nhận thấy Bồ Tát Hoan Hỷ đã được tâm khai, trong chỗ khổ cùng cực, đã dụng tâm niệm Phật, lấy tâm chuyển cảnh, tâm khai vận khai, cuộc sống vui vẻ. Chị nói: “Đức Phật A Di Đà đã giúp tôi khai phát trí tuệ, mở rộng cửa tâm, chuyển đổi ưu sầu, phiền não đang có thành sự hoan hỷ và sức mạnh!” Một phụ nữ nông dân không biết chữ mà nói ra lời như thế, có được công phu thực tiễn như thế, quả thực khiến tôi thâm tâm tôn kính, tự than mình không bằng được.
Mười mấy năm trước, khi ân sư Sám Công (pháp sư thượng Sám Hạ Vân) là chủ nhiệm Học hội Sinh Viên Trai Giới, tôi mời mẹ con chị lên núi tùy hỷ tham gia. Mẹ con chị chính thức qui y cửa Phật; sau khi được sư phụ khai thị, chị sám hối rất khẩn thiết về việc trước đây do không biết, chị đã giết rất nhiều gà vịt. Chị ứa nước mắt nói: khi chị trông thấy con gái chị bệnh nặng, sau khi trị liệu phóng xạ, da cổ em bầm đen, rách lột, khi nuốt rất khó khăn, chị mới hiểu rõ con dao của mình ngày trước đã làm đau đớn cổ gà.
Sau đó, chị vẫn khư khư nắm lấy câu A Di Đà Phật mà thể hiện sự vô lường quang minh của câu A Di Đà Phật ấy. Làm ruộng chị cũng niệm, nhổ cỏ chị cũng niệm, dọn dẹp nhà cửa chị cũng niệm, nấu cơm cũng niệm, phơi lúa cũng niệm, ho hen cũng niệm, buồn cũng niệm, khổ cũng niệm, ngày cũng niệm, đêm cũng niệm. Dần dần ánh sáng phật, âm thanh Phật tràn đầy lòng chị, vẻ tươi cười, hoan hỷ tràn đầy mặt chị. Cảnh giới thuận, nghịch chị cũng hoan hỷ niệm Phật, cười hà hà.
Vào năm con gái của chị được 17 tuổi, em đoán biết thời của mình sắp đến mọi thứ thật tốt để vãng sanh Tây Phương. Sau khi xuất viện em lo làm lụng để dành tiền. Trước khi vãng sanh, em còn lo sắm trước tặng vật cho tưnø g người trong gia đình. Em mua một giường mới cho cha mẹ, đối với người anh thích uống nước mát, em gửi cho một tủ lạnh, em còn cho các chị của em một tủ sách. Vào buổi chiều hôm em vãng sanh, em còn hăng hái giúp người cô cắt lúa; tối đến em bảo với người nhà rằng em muốn gội đầu thay quần áo. Hoan hỷ Bồ Tát cảm thấy em có vẻ khác lạ, liền gọi chồng cùng chị hộ niệm cho em, em vẫn giống như đang ngủ mà mỉm cười, an nhiên vãng sinh. Tám giờ sau, thân thể em vẫn mềm mại, sắc mặt như người đang sống. Sau đó có chư Tăng Ni và Phật tử tới hộ niệm cho em. Người anh cả của em vốn thương tiếc em gái mình thông minh, lanh lợi như thế mà vãng sanh sớm, đau đớn như muốn đấm ngực dậm chân mà than khóc; nhưng Bồ Tát hoan hỷ vẫn thường rất kiên cường, vẫn vuốt mặt, lau mắt cho con gái mà khuyên: “An định niệm Phật, hoan hỷ giúp đỡ chị em thì được sinh vào thế giới an lạc của Đức Phật.”
Sau đó, đứa con gái út của Bồ Tát Hoan Hỷ nằm mơ thấy chị mình theo Bồ Tát Quán Thế Âm mà bay đi. Bấy giờ người con trai trưởng của Bồ Tát Hoan Hỷ sắp thi vào đại học, nhưng bận việc nhà không có thời giờ chuẩn bị, nằm mộng thấy Bồ Tát dẫn em đến Đại học Phùng Giáp mà nói: “Đây chính là trường của con”. Sau đó trường treo bảng kết quả, quả nhiên em được trúng tuyển Đại học Phùng Giáp! Trong làng có người khác cũng nằm mộng thấy cảm ứng của việc em vãng sanh Tây Phương.
Qua những điềm ứng lành của việc con gái chị vãng sinh, Bồ Tát hoan hỷ lại càng kiên định niệm Phật, không những niệm ra cái ánh sáng từ bi, mà còn niệm ra ánh sáng hoan hỷ, ánh sáng, trí tuệ, ánh sáng giải thoát, không những chị giải thoát được những sầu khổ của chính mình, chị còn biến sự thiếu sót của sinh mạng thành một đóa sen quí. Còn hơn nữa, chị đem thân tâm mình mà giữ gìn, thương yêu giúp đỡ toàn thế giới, phát tâm biến xã hội hỗn loạn thành Hải hội liên trì.
Chị hưởng ứng lời kêu gọi của Pháp sư Chứng Nghiêm (hội Từ tế công đức), không những chị hoan hỷ đem đất của mình làm nơi thu góp các vật liệu, mà cái khó đáng quý nữa là hầu như mỗi đêm chị đều làm công tác nghĩa vụ tại chỗ, thu góp đến mười một, mười hai giờ khuya. Nếu chồng chị không bảo chị ngừng thì chị quên mất thời gian, bỏ ngủ quên ăn mà làm mãi. Ngày qua ngày, năm qua năm, chị vẫn tươi vui mà tiếp tục công việc! Chị vừa niệm Phật, vừa phân loại phế liệu! Nhặt một cái lon, chị niệm một tiếng A Di Đà Phật, xem những cái lon hư bỏ, chất cao như núi ấy là những đóa hoa sen, xem chỗ thu góp phế liệu ấy là Hải hội Liên Trì, cùng với tâm của Phật và Bồ Tát gặp gỡ nhau trong mình, tự mình đạt được niềm vui trong âm thanh của Phật. Đây quả là đạo trường hiếm có trên đời, là khóa lễ buổi tối tốt đẹp hiếm có! Chẳng những chị vì muốn xây dựng y viện cho hội từ tế, mà biến đồø phế liệu thành vàng ròng để cống hiến vô điều kiện, chị còn nhằm cải biến tương lai của thế giới.
Chị cười mà nói: “trong khi tôi xử lý đống phế liệu như núi ấy, tôi cũng xử lý những phế liệu trong tâm tôi!” Thì ra hàng ngày chị đều công phu dụng tâm! Không những chị thu góp các vật phế liệu (phế liệu biến thành vàng ròng), chị cũng thu hồi phế liệu tâm linh (phiền não biến thành Bồ Đề). Hàng ngày chị mượn công việc mà luyện tâm, chị luyện được tín tâm và định lực, nghị lực kim cương tại chỗ thu góp phế liệu. Chị cũng từ trong chỗ bùn lầy của: sinh, già, bệnh, chết, yêu thương mà phải xa lìa của cuộc đời mà tạo ra những đóa sen vàng siêu thoát, thâu góp được sự hoan hỷ và trí tuệ vô hạn.
Chị vốn là một phụ nữ nông dân không biết chữ, cũng chưa hề đọc kinh Phật, một hôm chị nói với tôi rằng khi niệm Phật, chị nghe âm nhạc rất kỳ diệu từ trong không trung truyền đến. Chị hỏi tôi: “Vậy là sao?” chị bảo nghe như thế thì càng thích niệm phật, càng niệm càng hoan hỷ. Tôi nghĩ đến sự miêu tả trong kinh, nhạc trời vang lừng không trung; trăm ngàn thứ nhạc được tấu lên cùng lúc, tự nhiên sinh khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tôi cảm thấy rất hổ thẹn, có khi nghe tiếng niệm Phật êm tai mà vẫn còn nghĩ bậy, hiềm đông, hiềm tây, hiềm cao, hiềm thấp, còn chị thì lượm lon sắt trong phế liệu mà niệm Phật, dùng âm thanh lon chạm nhau mà thành tiếng chuông, tiếng mõ, lại có thể đem cái tâm thanh tịnh hoan hỷ mà nghe, càng thích thú niệm Phật tưởng như có nhạc trời vang không trung
Một hôm chồng chị giận dỗi vì chuyện bên ngoài, khi về nhà vẫn còn bực dọc. Chị rất hồn nhiên vui vẻ nói với chồng: “Anh có chuyện gì không vui, hãy nói cho em nghe, em sẽ mở cửa lòng cho anh” chồng chị nói: “Tôi gặp chuyện rất vô lý, giận tức ngực.” Chị nói: “Nếu anh nuốt xuống được thì niệm Phật mà nuốt cơn giận xuống, biến thành tiếng cười mà cười ra, thì sẽ không còn tức ngực nữa.” Chồng chị hỏi: “Nếu nuốt không được thì sao?” chị đáp: “Nếu nuốt không được thì nhổ ra, hít sâu vào rồi thở mạnh mà khạc cơn giận ra, khiến cho nó ngao du sơn thủy.” Chồng chị cười mà khen: “Làm sao em biết mà nói như thế?” Chị đáp: “Chúng ta niệm Phật, Đức Phật A Di Đà sẽ giúp chúng ta mở mang trí tuệ”.
Tôi thường cảm thán rất nhiều vợ chồng học thức rất cao, mà khi đối đáp thì mang đao nóng giận, cả hai bên đều tổn thương, giận dỗi! Còn vợ chồng chị là những người nông dân chất phác, tuy không có học lực, nhưng nói chuyện thì lại rất học vấn, rất có “trí tuệ”! Đồng thời cũng đầy ôn hòa, nhã nhặn và thành thực, thật vậy, “thực lực” thì quí hơn “học lực”!
Mười mấy năm trước, khi còn là bác sĩ, bên giường bệnh, tôi chỉ cho chị lạy Phật. Chúng tôi cùng tập lạy trong phòng bệnh của y viện, không ngờ học xong, chị cứ thế mà lạy suốt mười mấy năm không hề gián đoạn, bận cũng lạy, mệt cũng lạy, khổ cũng lạy, vui cũng lạy. Con dâu của chị sanh liên tiếp ba đức con. Hằng ngày chị phải mang ba đứa bé, ôm đứa nhỏ nhất chưa đầy tháng tuổi mà lạy, cõng đứa thứ hai mà lạy, nách đứa lớn mà lạy, vừa cõng, vừa ẳm, vừa nách cháu mà liên tục lạy Di Đà một trăm lạy, hồi hướng chúng sinh. Có khi chúng ta tự nhấc thân mình cũng không chuyển, chị thì “một người lạy, bốn người lễ”. Khi chị cõng cháu mà sụp lạy, bỗng nhiên đứa bé đang cõng trên lưng nghịch ngợm tuột xuống, tất cả đều niệm Phật mà cười vui vẻ. Đây là Hải hội liên trì của nhi đồng, khiến người ta vừa cảm động vừa vui lòng.
Một hôm, đứa cháu gái lên hai của chị đi chơi trên đường, thấy bên đường có một cái lon nhôm bị vứt bỏ. Nó mừng rỡ lượm lên, quay đầu cười mà nói với tôi: “sư phụ! Trong này có một hoa sen!” Nó lại lầm thầm niệm A Di Đà Phật. Một hôm nó bất cẩn vứt đồ xuống đất, làm anh nó bị trượt té. Anh nó lồm cồm bò dậy mà bảo với chúng tôi: “Con bị trợt té, thật tức cười!” Bọn trẻ quen tai, quen mặt cũng học được ít nhiều ở Bồ Tát Hoan Hỷ mà hoan hỷ niệm Phật, cười ha ha đối mặt với những khổ đau, thất bại của cuộc đời, dùng cái tâm hoa sen chớm nở mà xử lý những rác rưởi, phế liệu của đời người, thâu lấy vật liệu. Nếu các bạn hỏi chúng nó lượm hoa sen (lon nhôm) để làm gì?, bọn trẻ đều nói: “Cứu người!” Tiếng “cứu người” do bọn trẻ phát ra, từ cái tâm thuần phác của trẻ con, khiến người lớn không khỏi phản tỉnh mà hổ thẹn.
Điều làm người ta ngạc nhiên nhất là dưới sự chỉ đạo của chị, cả làng bất kể lão bà bảy mươi tuổi, phụ nữ bốn năm mươi tuổi cho đến trẻ con, hầu như đều đồng thanh nói câu này: “khom lưng lượm cái lon, niệm một tiếng A Di Đà Phật là trồng một đóa hoa sen”. Bề ngoài thì đây là việc xử lý đồ phế thải vụn vặt, nhưng lại là dùng cái tâm, thanh tịnh nhất, cũng là muốn giúp đỡ thế giới bằng cái tâm từ bi vô tư. Quả thực là khỏi bùn dơ mà không bị nhuốm. Những người tham dự đều đáng được gọi là những hoa sen vi diệu thơm ngát ở chốn nhân gian!
Sau khi thân phụ của Bồ Tát Hoan Hỷ đã bảy mươi tuổi, ông còn ráng làm hai thuở ruộng nên cảm thấy mệt mỏi, mất sức, thường phải đến y viện để chích thuốc, nhưng chích vào, mắt bị sưng, tứ chi cũng bị sưng. Ông luôn lo buồn, bực bội không yên. Bồ Tát Hoan Hỷ biết rằng cha mình vì già nua trong lòng không có mục tiêu rõ rệt nên mới khổ; hằng ngày chị tận tâm an ủi cha già để ông vui vẻ. Sau khi Bồ tát Hoan Hỷ bắt đầu làm việc thiện, một hôm chị dùng các biểu lộ của trẻ con, đưa hai ngón tay ra mà hỏi cha: “Ba ba, hai cái này ba muốn chọn cái nào? Cha chị nói: “Con chỉ đưa hai ngón tay làm sao con biết cha chọn ngón nào?” Bồ Tát Hoan Hỷ cười mà nói: “một bên là cuộc sống đau khổ” Cha chị đáp: “Đương nhiên là phải chọn cuộc sống êm đẹp, ai mà chọn cuộc sống đau khổ!” Bồ Tát Hoan Hỷ nói: “Con muốn khuyên ba làm việc thiện, thu hồi phế liệu. Được thế thì ba khỏi cần chích thuốc mà cuộc sống vẫn sinh hoạt tốt đẹp, ba sẽ càng làm thiện càng hoan hỷ!” Cha chị nói: “Con muốn hại cha bị người ta cười là đồ lượm rác ư!” Bồ Tát Hoan Hỷ bèn giải thích cho cha nghe ý nghĩa của sự làm việc thiện, và việc đem rác rưởi biến thành vàng ròng, cả công việc xây dựng y viện để cứu người. Chị lại khuyến khích cha: “Nếu có ai cười cha thì họ không hiểu ý nghĩa trong đó, cha có thể giải thích cho họ nghe, họ hiểu thì họ sẽ không cười bậy, mà còn có thể cùng tham gia”. Lòng từ bi của cha chị rất sâu đậm, khi ông nghe đến việc tham gia cứu người, bảo hộ thế giới thì ông tiếp nhận. Bồ Tát hoan Hỷ rất sung sướng, khuyên cha: “Hễ lượm một lon thì niệm một tiếng A Di Đà Phật, niệm Phật mà làm việc thiện tức là làm thanh tịnh thế giới thân tâm của chúng ta, đồng thời hồi hướng thế giới Cực Lạc ở Tây Phương.” Vì lúc nhỏ chị rất hiếu thuận, cho nên cha mẹ chị đều vui vẻ chấp nhận đề nghị của chị, họ hăng hái tham gia công tác làm thanh tịnh thế giới của thân tâm này. Quả nhiên cha chị chuyên tâm tham gia cuộc sống từ “vì riêng” chuyển thành “vì chung”, từ lo lắng cho một thân, một nhà, biến thành vì cứu người mà công tác niệm Phật, giúp đỡ thế giới. Ông không còn phải cố gắng đem thân mình để canh tác hai thuở ruộng nữa, mà đem hiến một phần đất để làm nội thâu góp phế liệu; phần ruộng còn lại thì cho người khác thuê. Ông sẵn sàng buông bỏ xong thì cảm thấy rất thoải mái hoan hỷ. Tâm đã được khai sáng thì thân cũng mạnh khỏe, ông không cần phải chích thuốc nữa. Khi người ta hỏi ông, ông hăng hái vui vẻ nói: “Con gái tôi bảo tôi vừa làm vừa niệm Phật, càng làm càng thích thú vui vẻ!”
Hai vợ chồng trên bảy mươi tuổi ấy, ngày nào cũng tự đạp xe đến các cơ quan đoàn thể đển dọn rác, thu gom giấy vụn, ve chai, lon kim loại, tự chở về nhà mà phân loại, chất thành từng đống nhỏ. Đôi chân già yếu của người trên bảy mươi tuổi, bỏ sức mà đạp xe đi các đường ở thôn quê, mưa gió không ngăn trở được, ngày ngày liên tục không hề mệt mỏi, bước lên con đường vĩ đại thương giúp thế giới! Bồ Tát Hoan Hỷ nói với cha mẹ: “hằng ngày ba má thức dậy thật sớm, đối mặt với cả một đống phế liệu lớn, thì thấy đó là một đóa hoa sen lớn! Ba má vừa làm vừa niệm Phật, hoa sen nở càng lớn!” tâm tịnh thì thấy đất nước tịnh, rác rưởi cũng thấy thành hoa sen.
Mẹ của Bồ Tát hoan Hỷ tuy cả đời chịu lắm cực khổ nhưng vẫn mang vẻ tươi cười, vừa từ ái hoan hỷ, vừa kiên cường. Bà còn nói đùa rằng doanh trại quân đội, sân bay đều là “địa bàn” thu góp của bà! Các sĩ quan quân đội rất kính phục bà cụ phúng hiến vô tư này, thường phát tâm giúp đỡ bà buộc các đồ vật thu hồi, thấy bà dùng một chiếc xe nhỏ để chở nhiều đồ như thế bèn nói: “bà dùng một con dê nhỏ mà chở được một con trâu lớn!”
Một hôm Bồ Tát Hoan Hỷ đang đi trên đường, trông thấy phía trước có một cái xe đạp chở rất nhiều lon, lon chất ở phía sau xe nên chị không thấy người đạp xe. Chị vượt lên phía trước để nhìn, thì ra đó là mẹ chị! Trên mặt nhăn nheo của bà trần đầy nét tươi vui, trong bôn ba khổ nhọc, lòng vẫn thanh thản vô hạn! Bồ Tát Hoan Hỷ đỏ hoe đôi mắt nói với tôi rằng chị vừa cảm động vừa đau lòng, nhưng mẹ chị thì lại hăng hái vui vẻ, suốt cả đường vừa niệm Phật, vừa đạp xe!
Bên đường có một khe nước lớn, Bồ Tát Hoan Hỷ xin mẹ hãy coi chừng, nếu không sẽ bị té xuống khe. Mẹ chị nói một cách rất cương quyết: “Đức Phật A Di Đà nâng đỡ má! Mấy ngày trước má còn biểu diễn một màn đấy!” thì ra có rất nhiều người thường trông thấy bà khổ nhọc ngược xuôi chở các đồ vật thu góp thì ngỡ rằng là bị gạt. Bà giải thích rằng các vật liệu thu góp này được hội Từ tế công đức dùng để cứu người. Họ cười nhạo bà, một hôm bà chở rất nhiều đồ vật thu góp được, đi đến bên khe lớn ấy gặp đám người cười nhạo kia. Bỗng nhiên bà bị lật xe, mọi người đều kinh hãi thấy bà và xe đều sắp rơi xuống khe, nhưng bà cụ lớn tiếng niệm Phật A Di Đà. Trong chớp mắt dường như bà được nâng đỡ, được nhấc lên. Bà lướt qua bên kia khe mà an tọa. Kỳ diệu thay, chiếc xe đạp sắp rơi xuống khe như có một sức kéo kỳ lạ, vẫn đứng vững phía bên này khe mà không rơi xuống. Cả người lẫn xe đều không hề hấn gì. Sự việc này khiến người mục kích phải trố mắt há mồn. Bà nói: “Đức Phật A Di Đà đã nâng đỡ tôi!” những người kia thấy hiệu quả của việc niệm Phật thì cho rằng không thể nghĩ bàn. Tâm phục và rất cảm động, khẳng định sức mạnh của việc niệm Phật, công đức của việc hành thiện thì không được cười nhạo. Đức Phật A Di Đà không bỏ việc hóa độ người nào cả, khiến mọi người không còn cười nhạo nữa, mà dần dần tham gia hành thiện.
Xương đầu gối của mẹ Bồ tát Hoan hỷ đã bị thoái hóa, bác sĩ bảo phải thay thế bằng khớp nhân tạo, nhưng bà cụ chẳng màng tới. Bà chẳng lý gì tới thân xác mình, chỉ nhất tâm niệm Phật để phục vụ đại chúng. Tôi chưa từng thấy vị A La Hán phá bỏ thân kiến (không chấp thân thể là ta ngã) như nhà phật nói, nhưng trông thấy bà cụ này, tôi rất khâm phục, cho rằng thật hiếm có? Bà bị gãy một xương bàn tay, thế mà hôm đó bà dùng một tay kia để kéo về một máy gặt phế thải mà cười hà hà nói với tôi: “Tôi niệm ba tiếng A Di Đà Phật, xương bèn liền lại, không cảm thấy đau nữa!” Bà dùng một tay mà vẫn hăng hái vui vẻ, giống như xương gãy lại là điều vui (thật ra ai bị gãy xương cũng đau đớn đến phát khóc, ít ra thì cũng nhăn nhó mặt mày!).
Có lần, bắp chân của mẹ Bồ tát Hoan Hỷ bị đứt, một mảng da lớn bị lột ra, bà nói: “Tôi chỉ sợ bị thương, con cháu không chịu đểt tôi làm việc thiện, nên không dám nói ra; tự mình vội dán miếng da lại, dùng nước trà mà rửa, cười mà niệm Phật. Hôm sau khi trời chưa sáng tôi cứ thế mà đi gom phế liệu, hà hà, niệm Phật rất tốt, không bị sốt, không bị sưng, cũng không sao cả! Bấy giờ không ai trông thấy, chứ nếu không thì mọi người lại bảo tôi phải đến y viện để khâu da lại, lại bảo tôi phải nghỉ không nên đi làm việc thiện”. Tôi nhìn thấy vết sẹo trên chân bà, ít ra cũng phải khâu đến năm mươi mũi, thế mà bà vẫn hoan hỷ niệm Phật, thật là vì việc chung mà quên thân! Một bà cụ nhà quê không biết chữ mà có công phu niệm Phật như thế, tâm địa như thế, thật khiến tôi vừa chảy nước mắt, vừa đổ mồ hôi! Bà thể hiện tấm chân tình vui vẻ mà nói: “Đức Phật A Di Đà rất tốt! Đức Phật A Di Đà rất thương chúng ta! Khuôn mặt tràn đầy vẻ tươi vui chân chất, quả là một vị “Phật tử Cực Lạc” hạnh phúc!
Bồ Tát Hoan Hỷ, trên thì khích lệ cha mẹ, dưới thì đốc thúc con cháu, cả nhà bốn thế hệ, ngày lại ngày, năm lại năm, dùng tâm hoan hỷ, dùng chỗ thu gom phế liệu làm đạo trường, chứa chất lon chai, giấy vụn thành đống như núi. Trong khi chúng ta vứt bỏ bừa bãi lon chai, rác rưởi, xin đừng quên đằng sau có vị Bồ Tát vô tư cống hiến này, bằng cái tâm trồng hoa sen, thu góp và phân loại các thứ ấy cho ta, xin mọi người hãy tưởng nhớ tới cái tâm chịu đựng mệt nhọc để thương giúp thế giới của họ, cũng là phát khởi cái tâm như thế!
Có vài người khi phân loại các đồ phế thải đã thu góp, tình cờ thấy một số đồ dơ như tả lót, người lượm có khi vì quá mệt mỏi, than: “Ôi! Sao mà cả mấy thứ đồ dơ này cũng mang về làm gì chứ?” Bồ Tát Hoan Hỷ nói: “thu cả mấy cái tả lót này, chúng ta cũng phải hoan hỷ, chúng ta còn tập trung các thứ ấy lại mà gởi đi. Làm công việc thu góp này thì phải càng làm càng vui mới được.” Ngay cả khi thu tả lót, hoặc gặp người hiểu lầm thì cũng vui vẻ như thế mới thật là không có gì không vui, thật là người có trí tuệ nhập đạo như Đức Phật nói trong kinh Di Giáo (vui vẻ thọ nhận sự độc hại của lời nhục mạ giống như uống cam lồ).
Về mặt thực tế, Bồ Tát Hoan Hỷ đã mất đi đứa con gái yêu quí, nhưng vì chị niệm Phật, dùng tâm Phật mà yêu thương hết thảy mọi người, nên chị được hàng ngàn hàng vạn đứa con trai, đứa con gái yêu quí. Chị dùng tinh thần hoa thạch liên để biến đổi những đau khổ cùng cực trên đời thành những đóa hoa sen vi diệu của cõi Cực Lạc phương tây, biến nỗi đau đớn của những ngươi bi thảm thành sự cống hiến vui vẻ ngất trời. Chị kham nhẫn những điều mà người ta không kham nhẫn được. Chị thành tựu sự nghiệp vĩ đại của Bồ Tát! Nếu người người đều nắm được cái tinh thần của chị thì xã hội đen tối sẽ thành Hải hội Liên Trì!
QUÍ VỊ CÓ BIẾT ĐÓ LÀ THỊT CỦA AI KHÔNG?
Khi tôi thực tập tại khoa ngoại, mỗi ngày tôi đều phải sử dụng dao mỗ mấy lần. Mỗi lần giải phẫu, tôi đều phải cắt bỏ một số bộ phận hoặc một số phần của chúng trong cơ thể bệnh nhân, như cắt bỏ một phần dạ dày, cắt đi một khúc ruột, hoặc cắt bỏ túi mật, hoặc lấy tử cung đi, thậm chí cưa một chân, thậm chí dùng cưa điện mà cưa xương đầu gối Y viện sẽ đem một số phần cắt nhỏ để gửi đi kiểm tra, các phần còn lại thì không dùng làm gì, giao cho người chuyên môn xử lý.
Một hôm, tôi về nhà bằng cổng sau của y viện thì gặp người chuyên môn xử lý ấy, anh ta mang một túi ni lông lớn, bên trong đựng các thứ được cắt ra từ thân thể người ta, như bao tử, ruột, mật anh mang các thứ ấy mà ra cổng sau của y viện. Bên ngoài cổng sau của y viện chúng tôi có một quày bán thịt heo, anh giơ cái bao ấy lên mà đi ngang qua trước quày thịt, tôi thấy bỗng rợn người! Vì thật giống quá! Giả sử có người giở trò đùa đem dạ dày, ruột hoặc thận bị cắt của mình mà để vào quày thịt heo kia, lẫn lộn với bao tử, ruột và các thứ nội tạng heo, thì có thể các người cũng nhận không ra, đó là chưa kể mua về mà khen ăn rất ngon! Khi học năm thứ hai ở Đại học Y, chúng tôi phải nghiên cứu môn “Nhân thể giải phẫu học”, rất nhiều bạn đồng học tự nhiên không dám ăn thịt, vì sao? Thịt động vật và thịt người giống nhau quá! Khi chúng tôi giải phẫu tử thi, rồi sau đó đến quán ăn, trông thấy thịt, cho dù ai đó lúc bình thường vẫn thích ăn thịt thì đều không muốn ăn, cảm thấy thịt ở đây có bề ngoài và mùi vị y hệt với thịt của tử thi trên bàn giải phẫu.
Nếu chúng ta bị cắt thịt thì chúng ta sẽ đến rợn người, nhưng khi ăn thịt bị cắt của động vật thì chúng ta lại bảo: “Thơm thật! Ngon thật! Không ăn không được, không đủ dinh dưỡng.” Điều này khiến tôi nghĩ đến bài thơ:
Chớ có xem thường mạng chúng sanh
Cũng là xương cốt thịt da thành
Đem chính thân mình mà tự hỏi
Ai chụi đem dao cắt thịt mình.
Chúng ta không nên cho rằng sinh mạng của chúng sinh là nhỏ nhặt không đáng nói đến, không đáng tôn trọng. Da thịt xương cốt của chúng sanh đều giống của chúng ta, biết đau đớn, chúng ta hãy đặt và địa vị mình mà tự hỏi: Có ai dám cầm dao tự cắt thịt của mình cho người ta ăn không?
Có lúc người ta thật kỳ quặc, giả như biết được ai đó bị bệnh thì cho dù là người thân cũng không dám dùng chén đũa của người bệnh, thậm chí còn sợ ăn đồ thừa, sợ ăn nhầm một chút nước miếng của người ấy. Lại nữa, khi ăn chung với người ta thì thường quan trọng hóa quá đáng “đũa anh muỗng tôi”, mọi người cho rằng như thế là “đúng pháp vệ sinh”. Nếu người thân bị ung nhọt, phần lớn người ta đều không dám kê miệng hút lấy máu mủ của người ấy. Thế nhưng người ta lại bỏ vào mồm và nhai nuốt từng khối thi thể động vật mà người ta không biết chúng có mắc bệnh hay không, lại còn bỏ vào mồm nuốt nước thịt, nước máu (so với nước miếng thì nghiêm trọng hơn nhiều), rồi bảo ngon quá mà hoàn toàn không đắn đo. Thế phải chăng là phù hợp với “quan niệm vệ sinh” của mình đối với người? Có lẽ động vật sạch sẽ khỏe mạnh hơn người chăng!
Nhiều người ban đêm không dám đến phòng giải phẫu tử thi, cũng không dám một mình đến kho đông lạnh Tang Nghi Quán, bảo là sợ tử thi, mà không biết là trong tủ lạnh của nhà mình nhiều tử thi hơn, lại có cả đầu bị cắt, chân bị cắt.
Cũng có nhiều người ban đêm không dám một mình đến mồ mả bảo là sợ quỉ lộng, không biết rằng bụng mình cũng đã từng là mồ mả, nhà quỉ, lại còn tùy tiện chôn cất mà không xem phong thủy.
Trước đây có thầy Lâm Thế Mẫn là người rất vui vẻ, ông bảo chúng tôi: “Giả như các vị muốn khuyên người ta ăn chay, thì dứt khoát chớ nói: “Hộp cá anh ăn là quan tài của cá”, cũng chớ nói “Miếng dồi anh ăn, vốn là ruột chứa phân heo” (chắc hẳn nếu dùng “ống phân” mà chế biến thành thức ăn ngon thì anh sẽ không ăn thức ăn ấy) để khỏi khiến người ta phản cảm các đồng học cười vang nhà, cũng là trong tiếng cười mà giác tỉnh vậy A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật.
HUNG THỦ BIẾN THÀNH BỒ TÁT, TÔI KHÔNG DÁM LÀM KẺ ÁC NỮA
Tôi có một chị bạn vốn là tín đồ Cơ Đốc giáo. Chị lớn lên ở vùng ven biển, thường thích ăn đồ biển. Thậm chí chị còn lặn xuống biển để bắt cá, cá tôm thì phải đang còn sống chị mới thích ăn, chứ nấu khi chúng đã chết thì chị chê không ngon. Chị là người rất trầm tĩnh và nhiệt tâm, có lần chúng tôi muốn đi phóng sinh, chị phát tâm lái xe cho chúng tôi. Bấy giờ là lúc có vụ án Bạch Hiểu Yến đang gây sự chú ý của mọi người. Con gái của Bạch Băng Băng là Bạch Hiểu Yến bị bắt cóc, tử thi bị ném xuống nước, khi tìm thấy thì người ta phát hiện cô bị chặt một ngón tay. Tôi vốn không có thói quen đọc báo, chị bạn này xem báo thấy ảnh của Bạch Băng Băng đang khóc, chị rất cảm động nên nói với tôi rằng chị rất đồng tình với Bạch Hiểu Yến và Bạch Băng Băng, cho rằng hung thủ thật quá tàn nhẫn và đáng sợ.
Hôm ấy, chúng tôi đến bờ biển để phóng sinh cua. Dọc đường chị kể cho tôi nghe về vụ án này. Đến bờ biển chúng tôi mở dây cho từng con cua đang bị trói chặt và niệm Phật cho chúng đưa chúng về nhà dưới biển. Trong qúa trình bọn cua bị bắt, bị trói, chân cẳng bị gãy rơi xuống đáy giỏ. Trong khi chúng tôi cắt dây trói cho bọn cua, tôi hỏi chị bạn ấy: “chị xem, mấy con cua này bị bắt nhốt ở đây, chân cẳng bị gãy lìa có giống cô Bạch Hiểu Yến đáng thương chăng? Chị đọc báo thấy Bạch Băng Băng khóc lóc thảm thiết vì mất con, chị có biết mẹ của mấy con cua ở dưới biển cũng đang khóc lóc thảm thiết hay không?
Chị bạn nghe thế thì mở to hai mắt, rất xúc động liền nói với tôi: “Tôi không còn dám làm kẻ ác nữa!” từ hôm đó trở đi chị không những giới sát, phóng sinh mà từ đó ăn chay. Chị vốn là người “không ăn thịt thì đầu choáng váng” nhưng từ hôm ấy, hễ ngửi thấy mùi thịt thì chị không nhẫn tâm mà trái lại chị bị choáng váng đầu. Chỉ trong chớp mắt chị hiểu được nỗi khổ của bọn cua, cũng giống như nỗi khổ của Hiểu Yến đáng thương. Chị không còn lặn xuống nước bắt cá nữa! Trái lại chị khuyên các bạn trong hội bơi lặn nên ăn chay, phóng sinh, thả xuống biển cá tôm bị bắt. Trong chớp mắt, đối với mẹ của bọn cá tôm, chị từ kẻ ác biến thành Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn! Hằng năm chị vốn bị xuất huyết đường ruột, phải nằm viện để tiếp máu trị liệu, nhưng từ nay không phải thế nữa, chị đã được khỏe mạnh!
Rất nhiều người đã phí nhiều sức để thảo luận, để cho các động vật nào đó được sống thì đối với người, đối với sinh thái là có hại hay có lợi? Mặt khác, rất ít người dùng tâm kiểm điểm xem mình sống thì đối với loài người, xã hội và sinh thái là có hại hay có lợi? Mỗi bệnh nhân đến y viện đều mong muốn các bác sĩ dù thế nào cũng cứu mình, chữa lành mình; xưa nay không có người nào bảo bác sĩ: “nếu bác sĩ cho rằng tôi có ích cho xã hội thì hãy cứu tôi (để cho tôi được sống).” Lòng người là “ham sống sợ chết”, thì các động vật khác đâu có tâm nào ngoài tâm này? Bác sĩ đã không nên xét xem bệnh nhân là thiện ác, công tội, để rồi quyết định có cứu người ấy hay không, cũng không nên lấy sự thương ghét, vui giận chết hay sống. Cái tâm của người phóng sinh đâu khác gì tâm của bác sĩ? Chỉ là bác sĩ cứu người thì nên rành phương pháp chữa bệnh, vận dụng cả từ bi và trí tuệ; phóng sinh thì cũng rành về “đạo phóng sinh”. Đã không thể giao ước dự định mua, khiến người gây nghiệp kia cố ý đi bắt các động vật mà tăng nguy cơ cho chúng, thì cũng nên chú ý tìm cách cho an toàn, cho chúng đủ dưỡng khí để thở; trước hết phải hiểu rõ sinh vật được phóng sinh và địa điểm phóng sinh, xem hoàn cảnh có phù hợp hay không, làm sao để cho chúng được sống thoải mái. Điều quí là toan tính chu đáo cho chúng được thế thì việc thiện tuy nhỏ mà từ tâm thì rộng lớn, tràn ngập cả thời không.
Chúng tôi có một số kinh nghiệm về phóng sinh. Bọn ếch khi được thả thì quay lại chắp tay. Bọn cá thì tụ thành bầy, bơi quanh thuyền mà gật đầu; thậm chí khi trì chú Đại bi thì cá trong thùng để trên bờ nhảy vọt lên mà phóng xuống nước. Cư sĩ Tô Thiệu Hưng khi phóng sinh cua thì thấy cua dùng hai càng chắp lại mà cảm ơn. Như thế đủ biết chúng sinh biết “được phóng sinh”, cũng biết mang ơn, biết cảm ơn; các chúng sinh ấy hẳn cũng biết “bị bắt”, biết oán hận. Chúng sinh đều có Phật tính, cho nên đối với chúng sinh mà có một niệm “tâm cứu sống” thì nhân duyên sẽ khác biệt vô cùng.
Một niệm “tâm sát hại”, hay một niệm “tâm cứu sống” thì nhân duyên sẽ khác biệt vô cùng, quả báo cũng khác biệt vô cùng.
Một niệm “tâm sát hại” biến thành “tâm thả cho đi”, “tâm từ bi phóng sinh, kẻ ác biến thành Bồ Tát. Kẻ ác và Bồ Tát chỉ khác nhau một niệm mà thôi”.
Phóng sinh, ngoại trừ việc phóng sinh các động vật nhỏ, còn có cái điều quan trọng là phóng thả cho cái tâm từ bi của chúng ta được khởi sinh. Thế mà có nhiều người lại phản đối việc phóng sinh. Lý do của họ là “phóng thả các động vật kia thì sẽ có người tìm bắt chúng”. Thậm chí có người nói: “việc phóng sinh có ảnh hưởng tới sự cân bằng sinh thái.” Tôi chỉ muốn hỏi: nếu con của họ bị bắt cóc, có người phát hiện thì có nên đến cứu, giải thoát nó không? Hay là nghĩ rằng “giải thoát nó xong thì bọn xấu cũng bắt nó lại, vậy không nên giải thoát nó, cứ để cho nó bị giết”? hay là nên nghĩ: “số người trên thế giới đã quá nhiều, giải cứu một người bị bắt có thể ảnh hưởng đến quân bình sinh thái”? vạn nhất là người bị bắt cóc, bị giết là người nhà thân yêu của mình, thì sao? Nếu như con của chúng ta cần được cứu, cần được giải thoát thì tại sao các động vật khác không được cứu, không được giải thoát chứ? Chúng cũng biết đau, biết khổ, biết sợ chết vậy!
Trước đây có một người trẻ tuổi bị ung thư máu, một hôm, sau khi bạn anh đến thăm, anh khóc mà xám hối với tôi về một chuyện. Anh nói: “người bạn mập mạp vừa đến, trước đây thường phóng sinh, tôi thường cười, bảo anh ta là khờ dại, khờ dại vì có cá mà không ăn, lại phóng sinh làm gì! Hơn nữa, khi anh phóng sinh thì tôi đi theo sau mà câu, tự nhiên tôi cảm thấy mình rất thông minh, rất khoái chí, đem cá câu được về nhà, bỏ vô thùng, lại câu nữa. Tôi thấy cá lại mắc câu nữa thì cười nhạo mấy con cá ngu ấy! Nay tôi phải trị liệu hóa học, miệng bị lở, thậm chí răng còn bị lung lay, tôi mới biết rằng miệng mồm bị rách, té ra là khổ như thế này, rồi ân hận vì sao tôi lại có lang tâm như thế, khiến cho mấy con cá kia, con nào cũng bị lủng rách mồm miệng hai lần! Bây giờ có đánh chết tôi, tôi cũng không câu cá nữa anh bạn khờ dại kia lại đến thăm tôi, bây giờ tôi mới biết anh không ngốc, mà chính tôi mới là ngốc ” anh khóc đến rung cả thân, bảo tôi nên lấy những gì mà anh đã trãi qua để khuyên răn mọi người, không nên để cho chúng sinh chịu khổ, hầu tránh quả báo cho chính thân mình anh cũng là người tu hạnh Bồ Tát, tự thân đã chuiï khổ đau kịch liệt như thế, nên khuyên chúng ta
HIỂM NẠN BIẾN THÀNH BÌNH AN NIỆM PHẬT TRÁNH ĐƯỢC VỤ BOM NỔ
Giả như có người khuyên các vị: “Thế gian là vô thường, mạng người khó giữ, khi đi đường tốt nhất là các vị vừa đi vừa niệm Phật thì luôn được tai qua nạn khỏi.” Các vị nghe xong có thể trừng mắt nhìn người ấy, cho rằng điều người ấy nói là cũ rích. Ở đây tôi cũng không ngại kể lại một chuyện mà chính tôi đã trãi qua, đó là chuyện tôi đã gặp và thoát khỏi sự nguy hiểm của một vụ nổ, để khuyến khích và thức tỉnh mọi người khi đi đường hoặc lái xe đừng quên niệm Phật.
Trước kia tôi có đến tham bái Đại lão Hòa thượng Quảng Khâm, ngài có khuyên tôi nên “niệm Phật, niệm Phật, không giây phút nào rời Phật”. Thật đáng hổ thẹn, tâm tôi nhiều vọng tưởng nên không thực hiện được điều ngài dạy. Đang làm bác sĩ, công việc bận rộn, tôi cố gắng luyện tập, khi đi đường thì cứ mỗi bước niệm “A Di Đà Phật”. Sau khi đã nuôi dưỡng thành thói quen, cứ nhấc chân bước một bước thì trong lòng tôi tự động niệm một tiếng “A Di Đà Phật”. Đi đường theo cách như thế quả là đã cứu mạng tôi, khiến tôi tránh được một nạn lớn, tránh được quả bom tự chế nổ làm văng máu thịt!
Đó là một buổi tối thứ bảy, hồi tôi là bác sĩ nội khoa của y viện nguyễn Tông Hợp ở Cao Hùng. Thứ bảy nói chung là ngày cuối tuần nhàn hạ, nhưng lại là ngày bận rộn cần học tập. Vì viện thường mời một số giáo sư tài năng đến hội chẩn, đồng thời chỉ dẫn cho chúng tôi về lâm sàng. Tôi phải bận rộn cho tới hơn bảy giờ tối mới xong, bèn thu thập các thứ chuẩn bị về nhà, lòng nghĩ đến mẹ tôi có thể đang đói bụng chờ tôi về để ăn cơm, nên tôi vừa niệm “A Di Đf Phật” vừa bước lên thang lầu. Khi tôi đến cổng y viện, bỗng nhiên hai chân khựng lại, tôi rùng mình và niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Sau đó tôi tự động quay lui, tôi cũng không hiểu vì sao, đã quên cái gì. Cũng không! Bỗng nhiên tôi đọc thấy tối nay giáo sư Lưu Trinh Huy có buổi chẩn bệnh tại viện, giáo sư Lưu không những có tài năng y thuật, lại rất từ bi và nhiệt tâm chỉ dạy cho hàng hậu học. Tôi chợt nghĩ cần phải đến xem giáo sư Lưu chẩn bệnh để học hỏi thêm, ngõ hầu giúp đỡ bệnh nhân.
Thật ra, đó là lần đầu tiên tôi nghĩ nên đến xem giáo sư Lưu chẩn bệnh buổi tối, do đó tôi vừa niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, vừa đi đến nhà chẩn tế, đại khái đi chừng năm, sáu bước, hẳn chưa tới mười bước, bỗng tôi cảm thấy sau lưng có một ánh chớp rất mạnh, theo đó là một tiếng nổ dữ dội. Sự chấn động làm tôi đau trong ngực. Tôi tưởng rằng bình điện của trụ điện bên đường có vấn đề gì đó. Vì tôi không hiếu kỳ cho nên không quay đầu nhìn, cũng không để ý gì tới, cứ một mực niệm Phật mà đi đến nhà chẩn tế. Đột nhiên mọi người chấn động cả lên, có người la lớn: “Bom tự tạo nổ! Có người chết, có người bị thương!” đầu óc tôi rất đơn giản, thường chẳng có liên hệ gì với tạc đạn, vả lại bây giờ không có chiến tranh, làm sao có bom nổ được? Trong đầu óc tôi đại khái nghĩ rằng bọn trẻ làm thí nghiệm, dùng chất làm pháo mà gây nổ! Nhưng ngay lúc đó người tài xế taxi thường đậu xe chờ khách ở cổng y viện bị bom nổ bể bụng, ruột lòi ra ngoài. Anh rất đau đớn, ôm bụng xông vào y viện và ngã xuống, các y tá vội vàng cấp cứu cho anh. Rất nhiều bệnh nhân trên lầu y viện cũng chạy xuống. Họ không biết tại sao đất chấn động, đến cả vôi vữa trần nhà cũng bị chấn động rơi xuống! Ngày cuối tuần đang tốt đẹp như thế này, ai ngờ ngờ lại sinh ra sự việc thê thảm như thế.
Đức Phật dạy: “Thế gian vô thường, mạng người trong hơi thở”, quả không sai tí nào, vừa rồi nếu không vì niệm Phật mà được nhập vào ánh sáng của Phật, thì tất nhiên tôi phải theo nghiệp lực và nhân duyên vốn có của mình mà ra khỏi y viện, như thế thì không tránh khỏi bị vung vãi máu, thịt vì bom nổ! Vì quả bom nổ ở kế bên chỗ gởi xe bên cổng của y viện. Đây là vụ án Đài Phì” đã chấn động một thời. Tôi xưa nay vốn không có thói quen đọc báo, không biết rõ nội dung, chỉ nghe các bác sĩ đồng sự nói rằng công ty Đài Phì có một người trước kia là công binh cho nên ông ta biết làm bom, ông có điều bất hòa với đồng sự, trong lòng giận dỗi nên bất mãn làm mấy quả bom rồi nối dây nổ vào đèn xe hơi, khi mở máy và bật đèn thì bom nổ, sức mạnh đủ khiến người ta phải tan xương nát thịt.
Thế thì vì sao bom lại nổ ở cổng y viện của tôi? Vì lúc đầu đã có một nhân viên của Đài Phì bị thương ở một nơi khác đến nằm viện, người đồng sự bị oán thù kia đến y viện thăm người bị thương. Khi đến y viện, ông ta không ngờ xe của mình đã bị gài bom. Khi ông tới thì đang ban ngày, ông không mở đèn xe nên xe không bị nổ. Đén khi ông trở về thì trời đã tối ông mở máy và bật đèn xe, vừa mở đèn thì bom nổ, khiến đầu và thân ông văng đi hai nơi, đầu và tay chân đều bị vỡ nát.
Thân thể của chúng ta giống như bọt xà bông, lúc nào cũng có thể vỡ tan. Đời người giả tạm và hư ảo như thế, sao lại kết oán cừu cho khổ? Người hủy diệt người khác cũng mau chóng bị pháp luật trừng trị, nhân quả chẳng sai chút nào, cũng là tự mình làm, tự mình phải chịu. Quả là cái sinh mạng mà người ta tiếc nuối, quí trọng bị chôn vùi trong sự oán hận nhất thời.Phật dạy: chúng ta có phiền não vì tham ái, phẫn nộ, ngu si, cũng như “ba thứ thuốc độc”. Đáng tiếc là chúng ta thường hoan hy û tự chế tạo thuốc độc rồi uống thuốc độc mà chết. Phật và Bồ Tát đối với chúng sinh, dù thiện, dù ác đều thương yêu che chở như đứa con ruột của mình, gặp đứa con ngu dại, không chịu nghe lời khuyên dạy mà tự gây độc hại, Phật và Bồ Tát cũng chỉ chảy nước mắt, nỗ lực đến quên thân mà theo tìm nó, thậm chí đến địa ngục để cứu độ nó, mãi mãi không dứt bỏ sự khuyên dạy, cho đến khi nó muốn được giác ngộ, rời khổ được vui. lời Phật dạy khiến chúng ta cầu nguyện, chúc phước cho những đứa con như thế sớm được giác ngộ, rời khổ được vui. rất nhiều người than trách Phật và Bồ Tát không linh ứng, không từ bi, không cứu khổ, cứu nạn. Lại có rất nhiều người tự trách mình không tốt lành, thậm chí còn gây ra rất nhiều khổ nạn, gây phiền cho Phật và Bồ Tát phải mãi hoài khuyên dạy và cứu độ. Nếu đem cái tâm oán trách Phật mà oán trách mình rồi cải tiến thì khổ nạn tự tiêu trừ.
Tuy chúng ta thường thấy kinh Phật nói: “mạng người vô thường hơn sông núi, nay tuy còn khỏe mạnh cũng khó giữ gìn”. Thế mà chúng ta rất ít dụng tâm để hiểu, rồi khi bất hạnh phát sinh, chúng ta mới ân hận. Khi hai chân tôi khựng lại, không đi tới trước mà lại chuyển về phía sau, tuy tôi cảm thấy được sự rùng mình kỳ lạ, nhưng không dù chỉ một lát sau thì xẩy ra vụ nổ ấy! Tôi tính địa điểm và thời gian của vụ nổ thì biết rằng bấy giờ tôi cứ đi ra ngoài thì nhất định sẽ bị bom nổ mà chết, lại chết không toàn thân. Tôi tin chắc rằng mình được Phật lực gia hộ, vì trong khi đi tôi cứ niệm Phật theo từng bước, nên mới tránh khỏi một lần bị tai nạn lớn, nếu không thì tôi phải y theo nghiệp lực, vọng niệm của mình mà chụi quả báo, khổ nạn. Hoàn cảnh thọ dụng của chúng ta cũng như hình ảnh trên tivi, chính là do tâm chúng ta chọn đài, niệm Phật chính là chúng ta chọn con đường của Phật, không chọn Phật tức là chúng ta chọn các tiết mục tạp niệm, gồm cả phần tai nạn, nếu chúng ta mê mờ trong việc chọn đài mà xem phải phần tai nạn, thì không thể trách “điện đài Phật” không từ bi.
Lòng từ bi của Đức Phật thì bình đẳng, giống như làn sóng điện từ đầy khắp trong không gian. Nhưng giả như chúng ta không mở tivi, không chọn tần số cho đúng, thì thâu hình ảnh không được. Từ bi của Đức Phật cũng giống như ánh mặt trời chiếu khắp, nhưng trình độ mong muốn tiếp nhận và trình độ vận dụng của từng người không giống nhau. Nếu chúng ta dùng tấm vải đen của vọng tưởng và phiền não mà che đôi mắt thì không thấy được ánh sáng. Đầu óc chúng ta không ngừng suy nghĩ bậy bạ thì giống như tấm vải đen che mắt. Niệm Phật thì gỡ tấm vải đen phiền não ra được, hưởng thụ ánh sáng mặt trời chiếu rọi.
MA QUỶ BIẾN THÀNH PHẬT QUANG NIỆM PHẬT THÌ KHÔNG SỢ MA QUỶ
Một hôm, vào một buổi niệm Phật, có một người đến. Bà ta tự xưng hiểu được phong thủy, âm dương, lại bảo mình có thể trông thấy quỷ. Trông thấy mtj số bồn kiểng cúng Phật đặt trong Phật đường, bà lấy giọng quyền uy mà nói với mọi người: “Nơi đay ít người ở, lại trồng loại thực vật âm, người ta nhìn thấy thì bị phiền não, hơn nữa ma quỷ lại đến, tốt nhất là dời chúng đi.” Trong hội niệm Phật có người nhát gan và không có tín tâm, mới nghe mấy cây hoa cỏ ấy thuộc âm, lại có quỹ đến thì rất sợ hãi. Thì ra họ trông thấy mấy ngọn lá kia thì cảm thấy chúng rất xanh và mát, nhưng một khi có thêm tạp niệm về “thuộc âm” và “có quỷ”, thì biến thành sợ hãi! Tâm mọi người động loạn mà quên niệm Phật, chỉ muốn mau mau dời mấy cây ấy đi.
Trong đó có một vị sư phụ đề tỉnh mọi người rằng: “Các bồn kiểng này là do các cư sĩ phát tâm muốn cúng Phật, đã là cúng Phật tức là đồ vật thuộc về Đức Phật. Đức Phật là đáng quang minh nhất, cúng Phật là quang minh nhất, sao lại cố thể thuộc âm được chứ? Tâm của chúng ta niệm Phật thì Phật sẽ đến. Hễ Phật đến thì ngay cả quỷ cũng có thể được siêu độ mà an lạc. Người niệm Phật đối với ma quỷ cũng có tâm từ bi, việc gì phải sợ chứ? Chúng ta học Phật thì nên có tri kiến chính xác, không nên nhân vì nghe và tin một số luận điệu kỳ quái về âm dương mà tự tiện vượt quyền xử lý các đồ vật cúng Phật, tự tiện “vượt quyền” xử lý là cái “tâm kiêu mạn” rất nghiêm trọng, chứng tỏ không coi Đức Phật và thí chủ ra gì. Vì các đò vật mà các thí chủ mười phương cúng Phật được xem như làd đồ vật chung của chư Phật mười phương. Nếu tự tiện vượt quyền, xử dụng bừa bãi thì cũng bị xem như tại cơ quan làm việc mà tùy tiện tham ô lấy của chung làm của riêng, như thế là đắc tội với đại chúng, thí chủ mười phương cũng là xâm phạm (trộm) đồ vật chung của chư Phật ở mười phương.” Tuy vị sư phụ ấy khuyên nhủ như vậy, nhưng đám cư sĩ sợ ma quỷ kia lại thừa cơ sư phụ không nhìn thấy, vội đem dời các bồn kiểng. Họ định giao cho người bán cây kiểng xử lý. Mọi người nghe nói mấy cây ấy “thuộc âm” nên không ai dám mua, rốt cuộc mấy bồn kiểng được chở đi vứt bỏ nơi hoang vắng. Các cư sĩ ấy cho rằng như thế là trừ bỏ được ma quỷ.
Không biết mọi người nghe câu chuyện này có cảm nghĩ gì. Tại sao phải kể câu chuyện này ra đây? Chính là để kiểm thảo tín tâm và tri kiến của chúng ta về việc niệm Phật. Rất nhiều người tuy miệng niệm Phật, nhưng thật ra hoàn toàn không có nhận thức chính xác, cũng không có lòng tin.
Kinh Phật nói: Đức Phật a Di Đà là “Vô lượng Quang Minh”, sáng suốt vô hạn, có thể chiếu rọi những hắc ám vô biên, cũng có thể cứu độ vô số ma quỷ. Sự quang minh vô lượng của Đức Phật A Di Đà chính là cái năng lượng và trí tuệ vô cùng, có thể giải quyết mọi khổ nạn. Chúng ta niệm Phật, trước hết phải có nhận thức và tín tâmvô lượng quang minh này thì mới tương ứng với Phật lực. Nếu miệng niệm Phật mà nghe mấy bồn hoa thuộc âm thì sợ mà không dám đối mặt như thế chứng tỏ người ấy cho rắng sự quang minh của Đức Phật không bằng cái âm khí của mấy bồn hoa kia. Chính người ấy đã quan niệm sai lầm, nhìn Phật bằng con mắt ngu dại thì niệm Phật làm gì chứ? Đến cả trẻ con còn chưa sợ mấy bồn hoa kiểng kia, còn biết cách xử lý; nếu một người niệm Phật mà sợ thì trong lòng cho rằng Đức Phật A Di Đà không biết xử lý mấy bồn kiểng kia. Như thế là chứng tỏ người ấy cho rằng năng lực của Đức Phật không bằng năng lực của một đứa trẻ.
Nếu dùng quan niệm hoàn toàn sai lầm này và thái độ không tín tâm mà niệm Phật thì đương nhiên sẽ không tương ứng với chánh đạo của Đức Phật. Đây hoàn toàn không phải là Đức Phật A Di Đà không có sự quang minh và năng lực, mà chính là bạn không hướng về sự quang minh mà tin tưởng Phật lực, trái lại cam chịu để cho mấy chuyện hù dọa mình. Không chịu tin Phật, lại cam tâm tin vào mấy truyền thuyết vu vơ! Đấy là chính mình tương ứng với hắc ám, không tương ứng với quang minh.
Phật dạy: “Tất cả đều do tâm tạo.” Mấy bồn kiểng này thì:
Người đang có tâm tình vui vẻ nhìn thì mỗi ngọn lá đều đang mỉm cười;
Người trong lòng đang có Phật nhìn thì, mỗi ngọn lá đều là niệm Phật, nói pháp;
Chỉ có người trong lòng có tư tưởng đen tối, thì mới nhìn lá thành “âm”! người vô tri nghe tin câu nói quỷ hắc ám, thì cũng như bị trúng độc nghiêm trọng, nhìn thấy mấy bồn kiểng thì sợ, đó là dùng tâm mình mà tạo ra thế giới đáng sợ!
Thật ra “âm” và “dương” chỉ là một thứ quan niệm tương đối trong lòng kẻ phàm phu chúng ta. Nếu bảo lửa là thuộc dương, thế thì nước thuộc âm. Giả như bạn sợ những gì thuộc âm, thế thì đừng nên uống nước!
Người ta thường nói nam tính thuộc dương, nữ tính thuộc âm. Giả như những gì thuộc âm thì nên vứt bỏ đi, phải chăng cũng nên vứt bỏ phụ nữ đi?
Điện, cũng có điên dương, điện âm. Các loại pin, đồ điện đều có hai cực âm dương, nếu phải bỏ thứ thuộc âm đi, thì đồ điện mất đi một nửa.
Xưa người ta thường bảo trời thuộc dương, đất thuộc âm, thế nhưng hàng ngày chúng ta đạp trên đất thuộc âm mà cũng không sợ gì!
Theo lý luận của y học Trung Quốc, ngũ tạng, lục phủ của chúng ta thì lục phủ thuộc dương, ngũ tạng thuộc âm. Nếu thuộc âm là không may mắn, đáng sợ, nên bỏ đi, thế thì phải chăng ngũ tạng cũng nên vứt bỏ?
Quan niệm phàm phu cho rằng sống thuộc dương, chết thuộc âm, vì sợ chết nên người ta cũng sợ âm. Nhưng kỳ lạ hàng ngày chúng ta đem rất nhiều xác chết của gà, vịt, heo “thuộc âm mà chôn trong bụng lại không sợ ma quỷ quấy, cũng không cảm thấy âm khí quá nặng. Thế không phải là mâu thuẫn ư?
Thật ra mọi thứ trên thế gian, bất luận là thuộc âm hay thuộc dương, mỗi thứ đều có chỗ dùng, chỉ cần an tâm mà dùng cho khéo, âm dương hòa hợp thì không có gì trở ngại, hà tất phải sợ hãi. Có rất nhiều người quả thật là không hiểu ý nghĩa, chỉ mù quáng hùa theo người khác mà nói âm dương loạn cả lên, cứ bảo rằng thuộc âm thì xấu, thế chẳng là chúng ta tự tìm lấy phiền não ư? Chỉ cần quan niệm chính xác, rõ ràng khéo dùng, thì âm dương đều có thể thành tựu công đức, cần nhất là đừng hư vọng phân biệt mà sinh ra sợ hãi.
Thật ra, loại quan niệm sai lầm và tư tưởng sợ hãi đang ở trong tâm mình mới chính là “thuộc âm, đen tối”, cần phải triệt để loại bỏ! Cái phải loại bỏ không phải là cây kiểng, mà là cái quan niệm sai lầm, và cái tâm đen tối.
Chúng ta niệm Phật, tâm phải tương ứng vơi sự quang minh, phải hiểu rõ rằng dù thuộc âm, thuộc dương, niệm Phật thì đó là một vầng quang minh, đều có thể cùng nhận Phật quang phổ chiếu, đều có thể sinh hoạt tại thế giới thanh tịnh quang minh của Đức Phật, thế thì có gì đáng sợ chứ?
Kinh Phật có nói: một người tín tâm niệm Phật, mong muốn được sinh vào thế giới Cực Lạc ở Tây Phương thì chung quanh luôn luôn có 25 vị Bồ tát giống như Bồ Tát Quán Thế Âm đêm ngày hộ trì, chẳng những được bình an mà còn rất may mắn. Một vị Đại Bồ Tát có thể cứu độ vô số ma quỷ, huống chi 25 vị Đại Bồ Tát!
Kinh A DI Đà cũng nói: nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh A Di Đà mà có thể thọ trì, cho đến người nghe danh hiệu của chư Phật, thì chư Phật trong vũ trụ đều hộ trì cho người ấy. Cho nên nói, người niệm Phật thì được chư Phật, Bồ Tát lớp lớp vây quanh để hộ trì, được Phật quang chiếu rọi không ngừng.
Chư Phật ở mười phương đều bảo hộ người niệm Phật, đó là có đầy đủ quang minh và uy lực! Niệm Phật thì được nhiều Đức Phật và Bồ Tát hộ trì như thế, việc gì mà sợ mấy bồn kiểng, âm quỷ chứ? Nếu như người niệm Phật xem Phật và Bồ Tát không bằng cây kiểng, không bằng quỷ, thì đó chẳng là kỳ quái lắm sao?
Thật ra, quỷ cũng là một đường trong sáu nẻo luân hồi. Người không học Phật có thể không biết rằng sinh mạng của chúng ta luân chuyển trong sáu đường không giống nhau, sáu đường này có hình dáng, tướng mạo và phương thức tồn tại không giống nhau, cũng giống như màn hình của tivi có thể hiển lộ các tiết mục của các kênh không giống nhau, “sáu nẻo” tuy ở cùng một không gian, nhưng mỗi nẻo đều có không gian hoạt động của nó (độ số không gian không giống nhau), mỗi nẻo có kênh của nó. Mỗi nẻo đều do “sóng điện của tâm niệm” cảm ứng nên, các hình ảnh khổ vui được hiện ra không giống nhau. Sóng điện của tâm niệm càng thiện lương cao thượng thì hình ảnh của kênh cảm ứng càng an vui; sóng điện của tâm niệm càng xấu ác, tự tư thì hình ảnh của kênh cảm ứng càng đen tối, càng khổ đau.
Sáu nẻo là theo thứ tự “khổ, vui” mà nói. An vui, hưởng phước nhất là “thiên” đạo, kế đến là “nhân” đạo, thứ ba là “A tu la” đạo, thứ tư là “súc sinh” đạo, “quỷ” đạo được xếp hàng thứ năm, “địa ngục” là nẻo đau khổ nhất, giống như nỗi khổ của người tù vô thời hạn, chỉ toàn là khổ, không có vui.
Như trên đã nói, “quỷ” khổ hơn người, sinh sống khó khăn hơn người, thế giới của quỷ thì đen tối, quỷ thường chịu cái khổ đói khát, cho nên gọi là “ngạ quỷ đạo” (đường quỷ đói). Đương nhiên trong “quỷ” đạo cũng có phần phước báo (đời trước cũng có tu phước), như Thổ địa, Thành hoàng được người ta gọi là “thần”, thật ra là “quỷ thần”, cũng chính là quỷ có phần phước đức. Các chúng sinh này có một số thần thông nhỏ, nhưng thật ra họ so với người thì khổ hơn, cần được từ bi cứu giúp hơn. Cho nên, nhiều người cúng bái, cầu phước nơi quỷ thần, quả là điên đảo vậy. Phần lớn đó là phát xuất từ một thứ “tâm lý hối lộ”, “tâm thái ham tiện nghi”. Họ lấy bánh, gà vịt mà tống lễ, hy vọng quỷ thần ban tiền, ban phước.
Một ngôi miếu cổ ở Đài Nam có câu đối rất hay: “Thần linh há hối lộ được? Cầu tha tội nào ở việc đốt vàng bạc?”
Nếu quỷ thần linh nghiệm, chính trực, thì làm sao hối lộ được chứ!
Nếu chúng ta đã tạo nghiệp tội lỗi, thì nên từ trong tâm mà cải đổi, sám hối cải lỗi thì tiêu nghiệp, cần chi phải phí tiền mua giấy mà đốt. Cứ tiếp tục làm ác mà không hối cải thì tội lỗi có thể nào tiêu được chứ! Nếu quỷ có năng lực ban tiền, ban phước cho người, thì tự quỷ đã không bị luân lạc làm ngạ quỷ. Người cầu xin ở quỷ thần thì cũng giống như ông nhà giàu xin xin cơm áo nơi người bị nạn. Người sợ quỷ cũng giống như ông nhà giàu sợ người bị nạn đói khát khốn cùng, thật là không phải chút nào. Người bị nạn cũng không muốn người ta nhìn mình bằng ánh mắt sợ hãi và ghét bỏ, người bị nạn cũng chỉ muốn chúng ta lấy tâm so tâm mà tôn trọng họ, lấy tâm từ bi bình đẳng mà đối đãi họ, giúp đỡ họ, lấy chân lý Phật pháp mà dẫn dắt họ, vĩnh viễn thoát khỏi cái khổ luân hồi. Quỷ cũng như vậy, chỉ mong chúng ta chân thành tôn trọng, giúp đỡ. Họ cũng có tâm linh, có cảm thọ. Họ cũng rất sợ bị làm hại, bị bạc đãi. Họ không muốn chúng ta hối lộ, cúng lễ, họ cần chúng ta dùng sự niệm Phật chân thành, dùng công đức tu hành hồi hướng cho họ thoát khỏi đường quỷ, vãng sinh Tây Phương. Cho nên bình thường chúng ta đi ngang qua miếu quỷ thần, chúng ta chỉ cần chắp tay niệm A Di Đà Phật, khuyên nhau cùng niệm Phật, cầu Đức Phật A Di Đà cầu bi độ hóa họ, cùng tất cả chúng sinh khổ nạn, cùng sinh vào nước Phật, mãi mãi hưởng an lạc.
Nên hiểu, chúng sinh trong sáu nẻo (lục đạo) tâm luân hồi phải chịu sinh, già, bệnh, chết đau khổ vô cùng, là điều mà Phật không nỡ. Cho nên quỷ cũng là chúng sinh mà Đức Phật từ bi muốn cứu độ. Quỷ và chúng ta đều là “con Phật” (Phật tử), tất cả đều cùng sống tại không gian này, gặp gỡ nhau cũng là chuyện rất bình thường. Chúng ta gặp rất nhiều người lạ trên đường, há chẳng là bình thường sao? Hàng ngày chúng ta gặp rất nhiều kiến, gián, gà, vịt thuộc đường súc sinh (súc sinh đạo) há chẳng là rất bình thường sao? Thật ra, gặp quỷ và gặp chó là chuyện bình thường như nhau, việc gì phải sợ hãi! Chỉ cần tâm giữ từ bi, niệm Phật, dùng lễ mà đối đãi, đó là kết thiện duyên, kết Phật duyên. Dứt khoát không nên sinh khởi cái tâm niệm không tốt, như gây hại, ghét sợ để kết ác duyên. Quỷ cũng là “Phật tương lai”, có Phật tính, chúng ta nên dùng cái tâm “lễ kính chư Phật” mà tôn trọng họ, nhưng không cần phải hối lộ, cầu xin họ, cũng không cần phải đóng cửa tuyệt giao với họ. Lấy công đức chân thực mà hồi hướng cho họ rời khổ được vui mới là điều tốt nhất.
Chúng ta nên hiểu thêm một bước, do đâu mà đầu sinh làm “quỷ”? nếu hiểu rằng, chọn lựa một nẻo đường đầu sinh là do “sóng điện tâm niệm” bình thường của chúng ta quyết định, nếu chúng ta thường có nhiều tâm niệm thuộc loại nào đó, sóng điện của các tâm niệm ấy mạnh, thì đương nhiên cảm ứng đến một nẻo đường nào đó.
“Sóng điện của tâm tham” thì cảm ứng con đường “quỷ”. Người có tâm tham nặng, vào lúc lâm chung lại tham luyến thì sẽ đầu sinh vào đường quỷ mà làm quỷ. Làm quỷ thì khổ hơn làm người, làm súc sinh. Người không muốn làm quỷ thì bình thường nên chú ý không phóng chiếu tâm niệm của “tâm tham”, tham ăn, tham ngủ, tham danh, tham lợi, tham tiện nghi, tham được khen, tham sắc đẹp đều là phóng chiếu sóng điện “tham” (chuẩn bị cho sự làm quỷ). Chỉ cần chún ta khởi lên một tâm niệm “tham”, thì bất kể là tham thứ gì, thì đó là đang phóng chiếu sóng điện đến con đường quỷ. Các sóng điện này tích lũy nhiều, lúc lâm chung lại theo thói quen mà phản chiếu loại sóng điện này, tợ nhiên cảm ứng mà nhập vào đường quỷ. Cho nên chúng ta khởi tâm tham, thì cần phải biết rõ mà hồi tâm niệm Phật, cải biến nẻo đường đầu sinh.
Chúng ta nói đến một phương diện khác. Giả như trên các cây kiểng kia có âm quỷ, thì quỷ cũng biết hành động; chẳng lẽ vứt bỏ các cây kiểng ấy là vứt bỏ được quỷ ư? Nếu chúng ta không phát tâm từ bi đối với quỷ, mà chie muốn tống khứ họ thật xa, thì quỷ cũng sẽ ghét bỏ chúng ta. Điều này chúng ta lấy tâm so tâm thì hiểu rõ, nếu có người muốn tống khứ chúng ta, thì chúng ta cũng chẳng vui thích gì.
Lại nữa, nếu vì chính bạn sợ quỷ, không dám giữ mấy cây kiểng kia mà đem cho người khác, thì như thế không phải là “muốn đem quỷ cho người” sao, khiến người ta phải sợ hay sao? Như thế phải chăng là không có tâm từ bi? Trong lòng không có ánh sáng từ bi tức là hắc ám, như thế cũng như biến tâm của mình thành quỷ hắc ám. Khởi lên một niệm tâm không tốt, thì chính mình “thuộc âm” rồi!
Nếu chúng ta dùng tâm từ bi mà niệm Phật thì dù chung quanh có quỷ, quỷ cũng được Phật quang chiếu rọi, rời khổ được vui. nên biết rằng quỷ cũng có Phật tính, họ cũng có thể niệm Phật, chúng ta nên lấy lòng thành mà mong muốn quỷ cũng đượcthấm nhuần Phật pháp, qui y Tam Bảo, phát tâm Bồ Đề, thọ nhân sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà nương vào sức từ bi của Đức Phật mà vãng sinh thế giới Cực Lạc ở Tây Phương, vĩnh viễn an lạc, không còn chịu khổ nữa, rồi cứ thế tu hành cho đến khi thành Phật. Lại nữa, quỷ cũng tôn kính, hộ trì cho người niệm Phật. Chúng ta niệm Phật, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, quỷ cũng được lợi ích, phát thiện tâm bảo hộ chúng ta.
Cho nên dù có quỷ hay không có quỷ, bất kể gặp âm hay gặp dương, đều nên lấy tín tâm niệm Phật, không nên đem tín tâm quí báu của chúng ta mà tin vào mtj số quan niệm bất hợp lý và hắc ám, như thế là rất lãng phí cuộc đời, vô cớ mà tin vào chuyện âm dương kỳ quái rồi chịu sự trói buộc phiền toái, lại tự sinh ra sợ hãi, tự dệt mộng quỷ, há không oan uổng sao?
Trong sách sử ký có ghi một bài về Tống Cảnh Công nhừ ba câu nói thiện (tam đại thiện niệm) mà kéo dài tuổi thọ thêm 21 năm. Năm ấy “Ty tinh” (quan xem tướng sao, nghiên cứu thiên văn) của nước Tống xem tướng sao thấy bất lợi cho nhà vua, có điềm báo nhà vua sẽ mất, cho nên Tống Cảnh Công rất ưu sầu. Quan Y tinh là Tử Vi kiến nghị rằng, có thể “làm phép” khiến tai ương chuyển sang tể tướng. Nhưng Tống Cảnh Công nghe xong thì không có chút tâm niệm tự tư nào, trái lại ông bảo: tể tướng cũng như tay chân của ta vậy, sao có thể làm hại ông ta chứ? Ông muốn tự mình chịu vận nguy. Quan Ty tinh lại kiến nghị rằng có thể làm phép chuyển tai ương đến nhân dân. Tống Cảnh Công tuy tử nạn trước mắt, vẫn giữ lòng nhân từ, ông liền nói: “Vua vì nhân dân mà tồn tại, trách nhiệm là bảo hộ nhân dân, sao lại có thể gieo họa cho nhân dân chứ?” Ông nguyện một mình chịu nạn, Quan Ty tinh lại kiến nghị rằng có thể chuyển tai họa sang mùa màng. Tông Cảnh Công vẫn một lòng nhân từ nói: “Nhân dân nhừ mùa màng mà sống, nếu nhà nông không được mùa thì nhân dân sẽ khốn khổ”. Ông không đành lòng để nhân dân khốn khổ, ông quyết định một mình chịu nạn. Tống Cảnh Công đối mặt với vận chết của mình mà vẫn một lòng từ bi kiên định như thế, sóng điện của sức tâm này rất lớn mạnh. Quan Ty tinh nghe xong rất cảm động, phán đoán rằng: “Trời cao nghe đất thấp, nhà vua có thể có lời vua tôi như thế, thì tướng sao sẽ chiếu cảm mà xê dịch đi” (sóng điện của tâm niệm có thể cải biến ảnh tướng). Chẳng bao lâu sau, quả nhiên tướng tinh di đông ba độ, theo phép tướng tinh, thì như thế là thọ thêm 21 năm. Chuyện này có ghi trong sách Lã Thị Xuân Thu và Tân Tự.
Có thể thấy được “vận mạng” thao túng tâm niệm của người ta. Sóng điện của một niệm lớn mạnh thì từ trường ắt cải biến lớn, ảnh tướng cũng sẽ sắp xếp, hiển hiện theo cách mới.
Nếu tống Cảnh Công lấy tâm tự tư mà giá họa cho người khác thì cho dù có thể làm phép chuyển họa, sóng điện của tâm niệm tự tư hại người của ông sẽ phản chiếu trở lại trên thân ông, là cho tai họa của ông càng mạnh hơn, càng nhanh hơn! Cho nên mọi người chớ xem thường công năng của ba ý niệm, ba câu nói, “tâm niệm” mới thật là nguồn gốc của “pháp thuật”! “tâm vương” có thể khiến vật đổi sao dời. Cho nên “cải vận”, không cần chi phải cầu người, chính tâm thành ý thì có thể cải vận. Niệm Phật, mỗi niệm đều là cải tạo vận mạng, cứ việc thành tâm mà niệm thì tự nhiên được quang minh cát tường. * Kiểm thảo lại mấy truyền thuyết và quan niệm của thế tục
1. Vì sao phải mang lá cỏ để tránh tà?
Rất nhiều người niệm Phật thường không lấy tín tâm của mình mà tin Phật, tin chánh pháp, lại rất dễ tin mấy truyền thuyết thế tục, lại còn tin thâm can cố để khó cải biến, lay chuyển.Ví như: rất nhiều người tin rằng “cỏ” có thể trị tà, cho nên khi đến thăm người bệnh, đi trợ niệm giúp tang sự đều phải lén lút mang mấy ngọn lá trong túi, đề phòng phòng cái gì chính họ cũng không biết. Đại khái, điều này biểu thị cái sợ của người ấy, “những thứ thuộc âm”, sự tồn tại thuộc âm. Chúng ta hãy kiểm thảo xem. “Định đem mấy lá cỏ”, tâm lý là:
a) Chứng tỏ trong lòng có điều sợ hãi, sợ đi thăm bệnh, trợ niệm cho người chết, thì mình có điều gì đó bất lợi; sợ người bệnh, người chết có tà khí gì đó có thể gây hại cho mình. Điều này hiển nhiên là thái độ “bảo hộ tự ngã”, “ngã ái chấp”, không chân chính phát khởi lòng từ bi “lợi tha” (làm lợi ích cho người khác), tín tâm này thật yếu kém.
b) Chứng tỏ mình đối với “Phật”, đối với “công hiệu của việc niệm Phật” là không có tín tâm chân thực, tuy niệm Phật, nhưng thật ra lại sợ Phật “không chống nổi tà khí”. Trong tâm người ấy, “Phật” so với một ngọn lá cỏ thì nhỏ hơn, ít năng lực hơn, ít đáng tin cậy hơn. Cho nên người ấy mới cần lá cỏ để có cảm giác an toàn.
c) Chứng tỏ uy lực của sự tin vào “lá cỏ”, tất cả đều trông cậy vào mấy ngọn lá (thực ra một con chó con cũng có thể nuốt hết lá ấy!)
d) Chứng tỏ người ấy rất sợ quỷ, không phát khởi tâm từ bi cứu độ cho quỷ. Chỉ mù quáng cho rằng “quỷ rất hung dữ, rất tà vậy, có thể hại ta”, như thế là thiếu mất sự hiểu biết và khoan lượng đối với quỷ.
Chúng ta không nên coi thường “ý định mang lá cỏ theo để hộ thân”. Quan niệm và động tác nhỏ này, chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng là “không tin Phật, cũng biểu lộ sự chưa phát tâm Bồ Đề”, lại không tin vào công hiệu của sức mạnh niệm Phật của chính mình, cho nên mới cần truy, cần sự bảo hộ của thứ khác, của người khác ở bên ngoài. Như thế là không biết rằng “tà do tâm sinh, quỷ do tâm tạo”, một niệm tự tư, không từ bi trong tâm sức là tà. Sóng điện tâm niệm về sợ hãi, tham cầu sẽ cảm ứng mà hiện ra hình tướng quỷ. Sự tin tưởng mù quáng và không có lý trí cũng là tà. Nếu tín tâm niệm Phật, an trụ ở từ bi thì đâu có rảnh rổi mà sinh tà, tạo quỷ. Chúng ta có thể hiểu, trong sự quang minh mà mong tìm quỷ thì không thể được, chỉ có tại chỗ âm ám của tâm mà động niệm ảo tưởng thì mới thấy hình bóng quỷ chập chờn. Chỉ cần có quang minh thì không có hắc ám. Chính niệm mà niệm Phật thì không có ảo tưởng bậy bạ, quỷ cũng không sinh khởi được.
Chúng ta nên hiểu, thân của Đức Phật thì lớn cả hư không, cả pháp giới, năng lượng lan rộng khắp mọi nơi, đến không gian vô hạn. Tâm của chúng ta cũng lớn vô hạn, năng lượng vô cùng, rộng khắp thời không vô biên. Tín tâm của người học Phật phải nhằm tin rằng tự tâm mình có tiềm năng vô hạn, lại tin rằng Đức Phật khai mở tiềm năng vô hạn; tự tin mình và tin Đức Phật, lấy tín tâm lớn mạnh để phát khởi niệm lực. Một niệm này là sức mạnh vô hạn, chỉ tiếc rằng chúng ta thường hạn chế tâm mình vào trong một khối thịt nhỏ, giam trừ sức tâm thành một cục nho nhỏ, sợ đông, sợ tây, tưởng như mọi sự trên đời đều gây hại cho mình sợ người, sợ khó, sợ kiến, sợ tối, sợ quỷ, sợ chết lại lo được, lo mất. Cuộc đời chúng ta từ trước đến nay chưa “đạt được” cái gì một cách chân chính, hoặc “mất đi” cái gì, mà chỉ có một số quan niệm hư vọng tác quái mà thôi. Một đời sợ đông, sợ tây, cứ lo bảo hộ mình cũng không đạt được gì!
2. Có cần phải chọn ngày tốt, giờ tốt không?
Thường có rất nhiều người chọn ngày tốt, giờ tốt. Khai trương thì xem ngày tốt, giờ tốt, kết hôn thì chọn ngày tốt, giờ tốt, lại có người sinh đẻ cũng chọn ngày tốt, giờ tốt, không biết họ uống nước, tiểu tiện có cần chọn ngày tốt, giờ tốt không? Người có biện pháp thì cả đến khi chết cũng có thể chọn đúng ngày tốt, giờ tốt, phút tốt, giây tốt!
Ngạn ngữ Đài Loan có câu: “người tốt không có giờ xấu, người xấu không có ngày tốt”. Người tốt khéo dụng tâm, gặp xấu cũng hóa tốt, hòn đá ngăn chân cũng có thể được dùng làm hòn đá lót chân, cho nên người tốt không có giờ xấu. Người xấu thì không khéo dụng tâm, người khởi niệm ác thì nhân ác tự có quả ác, sóng điện phát ra không tốt thì hình ảnh đương nhiên không tốt được; cho nên người xấu không có ngày tốt. Cho nên chỉ cần chính tâm, thành ý mà làm điều tốt, không cần phải chọn ngày, giờ, ngày nào cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt. Nếu tự tư buông thả ác tâm mà làm người xấu, thì dù có xem sách lịch, tốn tiền nhờ người chọn, cũng không thể chọn được giờ tốt. Vì “giờ” không phải là cái gì được ấn định, chỉ do người xem dùng như thế nào thôi. Khéo dùng “giờ”, để có thể tích lũy công đức, thì tạo ra giờ tốt; không khéo dùng “giờ”, tức là làm sai, làm xấu, đương nhiên tự tạo “giờ xấu”.Rất nhiều người học Phật không tin “tâm pháp”, cứ theo quan niệm thế tục, cả đến niệm Phật cũng chọn ngày tốt, giờ tốt, mà không biết rằng một niệm lạy Phật tức là đại thiện, đại cát, cho dù gặp việc xấu, khởi tâm lạy Phật, tâm chuyển thì cảnh chuyển, xấu cũng biến thành tốt. “Giờ tốt” nên lạy Phật tự nhiên là đúng; “giờ xấu” không lạy Phật, có thay đổi được gì? Cho nên bất kể giờ nào, lạy Phật thì tốt.
3. Sự hỏi đáp kỳ dị về thuật phong thủy.
Gần đây có một vị chủ quản một đạo tràng đến hỏi một người tự xưng là biết xem phong thủy: “mấy ngày nay có người chôn gần đạo tràng, không biết như thế có ảnh hưởng gì đến phong thủy đạo tràng không?” theo ý câu hỏi thì cũng khá thì là bất an, lo lắng. Người kia đáp: “Chôn gần đạo tràng thì đạo tràng chống đỡ không nổi đâu!” Lại hỏi: “Vì sao thế?”
Người kia đáp: “Vì các thần hộ pháp của đạo tràng chỉ lo hộ Phật pháp mà thôi!”
Lời đáp như thế mà cũng khiến nhiều người tin là thật, không biết chúng ta nghĩ thế nào? a) Kiểm thảo vì sao lại hỏi
Trước hết, chúng ta thử kiểm thảo, vì sao lại sinh ra vấn đề như thế? Phải chăng cho rằng người chết chôn ở gần đó sẽ ảnh hưởng đến phong thủy của đạo tràng mình? Phải chăng cho rằng sức của Phật, Bồ Tát và người sống không bằng người chết? Nếu một người chết đi mà có ảnh hưởng không tốt đến đạo tràng của Phật, thì như thế Đức Phật không có năng lực, làm sao có thể độ cho vô số chúng sinh? (Không phải là Đức Phật không có năng lực, mà chính là tín tâm của mình không có năng lực) không hiểu về Phật lại không có tín tâm, quả là phải cần kiểm thảo lại tất cả, kiểm thảo mình vì sao lại có thể tin là Đức Phật không có năng lực như thế. (Thật ra không phải là Phật không có năng lực, mà chính là “tín tâm” và “tri kiến” của mình có vấn đề!)
b) Kiểm thảo lời đáp
Các thần hộ pháp bên cạnh đạo tràng rất nhiều, ánh sáng tốt lành tất nhiên chiếu rọi đến vong hồn các cư dân trong đó, vì sao lại có thể khiến người ta chịu không nổi, chống đỡ không được?
Phải biết rằng đạo tràng là rất quang minh, tốt lành nhất, Phật và Bồ Tát từ bi trí tuệ nhất; càng gần gũi học tập thì càng tiến đến sự thiện hảo tốt lành thì mới phải, chứ sao lại bảo, gần gũi đạo tràng là lại chịu không nổi? Nếu không phải là học sinh phạm quy thì việc gì phải sợ các giáo sư hiền lành và trường học tốt đẹp chứ? Nếu có người dân chính đáng, thì tại sao lại sợ cảnh sát là những người giúp dân chứ? Chúng ta nghe người ta bảo gì thì nên có lý trí, chớ vì nghe giọng điệu hùng hồn mà tin bừa “lời nói điên đảo”.
4. Niệm Phật có cần tin cả tướng số và phong thủy không?
Rất nhiều người niệm Phật thường tin cả tướng số, phong thủy, địa lý, thậm chí tin luôn cả những lời phịa đặt ngoài đường, rồi theo đó mà truyền bá. Loại “tin thêm” như vậy thật ra là niềm tin không chính đáng. Chúng ta không phủ nhận số mạng có thể tính toán được, nhưng tính toán như thế nào? Vì có “phép tắc nhân quả”, cho nên từ “nhân” trong quá khứ, có thể dự tính “quả” trong tương lai, cũng như người nông dân do sự gieo trồng, thời tiết mà dự tính việc thu hoạch. Nhưng cũng vì phép tắc nhân quả, cho nên số mạng có thể cải biến, cải biến nhân duyên thì có thể cải biến kết quả. Chúng ta niệm Phật tức là đang cải biến nguyên nhân; nguyên nhân chủ yếu nhất của vận mạng tức là “tâm niệm”, cải biến tâm niệm tức là cải biến ngôn ngữ, thái độ. Chúng ta chớ xem thường cải biến một câu trả lời và một thái độ thì vận mạng sẽ cải biến. Nếu không tin chúng ta có thể thí nghiệm. Khi cấp trên phê phán bạn, bằng thái độ thành khẩn, bạn nói: “xin lỗi, vậy là tôi sai, cảm ơn ông đã chỉ bảo, tôi sẽ nỗ lực cải tiến”; hoặc ngẩng đầu chu mồm bưcï bội mà nói: “Tôi đã làm hết sức, nếu không ông cứ tự làm thử xem, ông làm cũng không tốt gì đâu!” hai loại tâm niệm, ngôn ngữ không giống nhau, chỉ trong chớp mắt có thể quyết định hai vận mạng không giống nhau. Cho nên nói, mạng do tâm tạo, tướng theo tâm mà chuyển, cũng chính là vì có thể tạo, có thể chuyển, tu hành niệm Phật thì mới có ý nghĩa, nếu không thì tất cả đều là định số, không có chỗ nào để cải biến, thế thì tu hành thật là vô ích.
Một nơi có hoàn cảnh đẹp đẽ, phong tốt, thủy tốt, nếu người không có tâm công đức ở, vứt rác bừa bãi, làm ô nhiễm không khí, nguồn nước lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu thì chẳng bao lâu, phong thủy tốt đẹp sẽ bị phá hoại hết.
Trái lại, một nơi có phong thủy bình thường, nếu người có tâm công đức ở, hiểu biết cách giữ gìn bảo quản đất đai, chỗ nào cũng hành thiện tích đức, cảm hóa bốn bề lân cận, lâu ngày từ trường tất nhiên sẽ được cải biến, phong thủy cũng trở nên tốt.
Cho nên nói, đất phước thì người phước ở, người phước thì ở đất phước.
Một căn nhà trống dùng làm quán rượu, vũ trường và dùng để làm đạo tràng, do tâm cảnh ý niệm của người tham gia không giống nhau, nên sóng điện phát ra không giống nhau, đương nhiên từ trường không giống nhau, đó gọi là “phong thủy” có khác nhau. Còn truy cứu nguyên nhân của phong thủy thì chính là ý niệm của tâm người (sóng điện, từ trường). Cho nên không cần nhờ người xem phong thủy, tâm niện mà tốt đẹp, thì từ trường phong thủy cảm ứng tốt đẹp. Tâm niệm không tốt thì dù phong thủy có tốt, cũng rất mau bị phá hoại.
Thật ra, rất nhiều chùa chiền được xây dựng ở nơi phong thủy tốt nhất, nhưng nhiều người ở không được, họ muốn đến vui chơi ở những nơi bài bạc có phong thủy xấu nhất, có sắc tình đen tối, hoặc nơi không khí bị ô nhiễm nhất; họ không quen với phong thủy tốt.
Người đời phần lớn tin vào các thầy phong thủy, hễ “mai táng” thì nhất định phải chọn phong thủy, con cháu thì ích kỷ, mong các bậc tôn trưởng được chôn ở nơi phong thủy có lợi nhất cho mình, mà không quan tâm vong hồn rốt ráo có được an lạc giải thoát hay không. Mọi người đều tin rằng phong thủy của tổ tiên ảnh hưởng đến mình, rất ít người phản tỉnh kiểm thảo xem sự vận hành của tâm mình có ảnh hưởng đến tổ tiên hay không? Có khiến tổ tiên bị hổ thẹn hay không? Có khiến phong thủy trở thành hư hoại không? Mọi người chịu phí tiền mời người xem phong thủy mà lại không chịu “tu tâm” để cải biến phong thủy (không phải tốn tiền!) có khi chúng ta nói đùa: nếu phong thủy có ảnh hưởng quyết định và các thầy phong thủy có thể tìm được “phong thủy tốt” thì như thế các thầy phong thủy có thể theo ước muốn của mình mà làm vua, tổng thống hoặc đời đời đều có trạng nguyên giàu sang, phú quý, đức độ, tài năng thì mới đúng. Nhưng sự việc lại không như vậy! Điều này đáng được suy nghĩ kỹ.Có lần, tôi có hỏi những người quá coi trọng phong thủy: “khi phải mai táng di thể, các vị thường chú ý đến phong thủy, thời gian hạ huyệt, phương hướng mồ mả lại còn muốn xem có xung, sát hay không. Tôi xin hỏi: khi các vị ăn thịt, các vị có xem phong thủy không? Vì thịt tức là xác chết, chôn xác chết có sức ảnh hưởng lớn như thế thì khi chôn thịt trong bao tử cũng phải xem phong thủy có thỏa đáng hay không, nếu không thì lỡ ra giờ khắc không đúng, há chẳng phải bị xung sát hay sao?”
Tủ lạnh ở siêu thị, chợ bán thức ăn có nhiều “xác chết” như thế, người qua lại rộn rịp, sao lại không xung sát? Cũng chẳng có ai quan tâm đến cái phong thủy ấy có ảnh hưởng gì đến mình. Quả là xem trọng cái ăn thì quên đo phong thủy.
Hai vợ chồng cư sĩ họ Lâm nói với chúng tôi rằng có một thầy tướng số bảo họ rằng vào năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, giờ ấy, hãy mua 12 cây chổi về nhà quét đất, quét xong thì để chổi tại hướng ấy, sau đó vứt chổi xuống biển thì tiền bạc sẽ dồi dào như nước biển, và họ sẽ trở thành “người giàu nhất khu phố”. Họ nghe xong liền cười mà đáp: “Chúng tôi đã là kẻ giàu nhất khu phố, vì chúng tôi đã có Phật pháp.” Chúng tôi nói: “Tốt đấy các vị không chịu mua chổi quét như lời ông ta, nếu không thì nghe Phật pháp cũng vô ích!”
Hãy nghĩ xem nếu như phương pháp ấy có hiệu quả, thì há chẳng phải ông ta sẽ sớm trở thành người giàu nhất thế giới sao? Sự hữu hiệu duy nhất của phương pháp ấy đại khái là xúc tiến việc tiêu thụ chổi!
Ông thầy tướng số còn bảo vào giờ ấy, đi theo hướng ấy, đeo ở ngón thứ tư của bàn tay trái một chiếc nhẫn vàng ròng, mặt nhẫn là đá quý màu đen tuyền, như thế mới có thể tránh được xe cộ. Cũng may là cư sĩ họ Lâm có niềm tin chân chính: “tôi niệm A Di Đà Phật thì hữu hiệu hơn đeo nhẫn.” Vì tai nạn xe và “giác tính” hiện nay rất có quan hệ, nếu tâm niệm Phật rõ ràng minh bạch, quang minh, thanh tịnh thì hiển nhiên có thể xa rời tai họa. Nếu đeo nhẫn mà ngủ gật thì không thể an toàn! Nếu không giữ luật đi đường thì lại càng nguy hiểm!
Nhưng chúng tôi hỏi rất nhiều vị cư sĩ thì phần lớn họ không có niềm tin giống như cư sĩ họ Lâm, họ nghe thầy tướng số nói như vậy, sợ tai nạn xe cộ nên chịu tin mà đeo loại nhẫn ấy. Sự tin tưởng này của họ càng biểu lộ họ thiếu niềm tin chân chính đối với Phật pháp, cũng không hiểu ý nghĩa của vạn pháp chỉ do tâm tạo, lại càng chứng tỏ tầm họ cho rằng sức mạnh của việc niệm Phật không bằng sức mạnh của một chiếc nhẫn, uy lực của Đức Phật A Di Đà không bằng uy lực của thầy tướng số. Quả là xem thường Phật pháp!
* Trên đây có vẻ chỉ một số chuyện nhỏ: đeo nhẫn, vứt mấy bồn hoa kiểng, xem phong thủy phải chọn ngày tốt, nếu xét cái tâm lý nội tại thì thiếu tín tâm đối với Phật lại là một việc lớn ảnh hưởng đến vãng sanh, hãy cẩn thận kiểm thảo, phản tỉnh về “tín' và “Nguyện'.
BẠN THÍCH TƯƠNG ỨNG VỚI AI?
Có một loại chim không ưa thích những trái cây ngọt ngào, nhưng dòng nước thơm tho trên thế gian này, chúng chỉ thích ăn chuột chết hôi thối, mùi vị hôi thối này mới là thứ chúng mong muốn. Có một loài côn trùng là con thiêu thân, khoảng trời mênh mông, rừng cây đẹp đẽ chúng đều không ưa, chúng chỉ ưa xông vào trong lửa tự thiêu mà chết. Bạn có thấy không, cho dù phận hôi hám, đồ ăn hư thối, cá thịt ôi thiu, rác rưởi dơ bẩn, vẫn có nhiều trùng bọ sinh trưởng, lưu luyến hưởng thụ tại đó mà không chịu rời, đó là sở thích của chúng nó.
Giả như bạn bỏ một nắm đường vào trong vách tường, nhất định sẽ hấp dẫn rất nhiều kiến; giả như bạn bỏ một nắm muối thì không hấp dẫn chúng, vì kiến tương ứng với chất ngọt, cho nên đường hấp dẫn sự chú ý của lũ kiến, khiến chúng dán toàn thân trên bề mặt của nắm đường mà không chịu rời bỏ. Loại chim mà chúng ta vừa nói tới bị sự hấp dẫn của chuột chết thì tương ứng với chuột chết. Loài tương ứng ấy quyết định sự hành động, nơi đến và tương lai của chúng, còn loại thiêu thân kia thì bị sự hấp dẫn của lửa, chúng tương ứng với lửa, cho nên sẽ bay vào lửa mà bị thiêu chết.
Chúng ta có từng kiểm thảo xem sở thích của mình mà nghĩ xem chúng ta thường bị sự hấp dẫn nào chăng? Tức là chúng ta thường tương ứng với cái gì. Trong Phật giáo thường có câu: “Một niệm tương ứng với một niệm Phật”, tức là suốt ngày chúng ta có bao nhiêu ý nghĩ thực sự tương ứng với Phật, thực sự chịu sự hấp dẫn của Phật, hướng về Đức Phật A Di Đà?
Có lần, một người bạn tôi kể cho tôi nghe một câu chuyện rất oan uổng, hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Tôi nghe xong thì rất ngạc nhiên, phản ứng đầu tiên của tôi là muốn nói rõ sự thực cho người bạn ấy biết. Nhưng tôi nghĩ lại người ta đã cố ý nói như thế thì lòng anh ấy đã ghi khắc, nếu tôi nói sự thật để chứng minh rằng tôi đúng thì nhất định sẽ làm cho anh bạn ấy không vui, lại khiến anh ghi khắc thêm một điều nữa, cho nên tôi rất cố bảo mình im lặng, không nói. Sau khi anh bạn ra về, tôi liên tục lạy Phật, niệm Phật, nhưng thật lạ nước trong mắt cứ trào ra, vì lòng cảm thấy xốn xang! Thậm chí còn muốn lớn tiếng khóc, trong lòng vốn không chân chính niệm Phật, nhưng lại có âm thanh của tiếng khóc, trong lòng vốn không chân chính niệm Phật, lại có vẻ như cứ đi tìm người mà lý luận, mong đem sự việc giải thích cho rõ ràng. Bỗng nhiên tôi tự hỏi mình: “vì sao loại sự việc không đâu như thế này (giả tưởng) lại có thể hấp dẫn ta chứ? Sao không hấp dẫn ta đến bên Phật? Chẳng lẽ ta cam tâm làm một con chim ăn chuột chết sao? Loại tình trạng oan uổng này mà quay thành phim thì hẳn là một phim dở rất khó coi; chẳng lẽ loại phim này ta cũng phí tiền mua vé đến xem ư? Ta đâu cần phí sinh mạng mà nghĩ đến mấy thứ giả tưởng ảo ảnh ấy! Tại sao ta niệm Phật mà không chịu tương ứng với Phật, tương ứng với thế giới cực lạc? Sao không đến Tây Phương để hưởng thọ phong cảnh đẹp đẽ, mà lại lệch lạc nội tâm, lén lút chạy đi “tương ứng” với phàm phu? (Theo ngôn ngữ Đài Loan, chữ “tương ứng” có hai cách đọc và hai ý nghĩa không giống nhau; một là hỗ tương cảm ứng, tương thông, tương hợp; hai là tương tranh đối đáp, thường gọi là cãi cọ). Rốt lại ta thích tương ứng với Phật hay thích “tương ứng” (cãi cọ) với phàm phu. Nếu ta đua tranh cãi cọ với phàm phu, thế thì ta đã ưa thích, ta đã mang khẩu khí của thế giới Ta Bà, bị ảo tưởng mê hoặc! Ta sẽ không đến được thế giới Tây Phương mát mẻ! Và như thế, ta vẫn ở lại thế giới Ta Bà mà tranh cãi thì tốt hơn. Đấy là lý do khiến ta từ vô thủy đến nay không đến được thế giới Tây Phương, vì ta ưa thích ăn chuột chết hơn là ăn trái cây ngọt!”Sự ưa thích của bạn đương nhiên sẽ quyết định chỗ đến của bạn. Nếu bạn ưa thích trái đào ngon ngọt, thì tự nhiên bạn sẽ chuyên ăn trái cây ngọt; và như thế, một con chuột chết làm sao lôi kéo sự chú ý của bạn, khiená bạn phải đôn đáo này nọ chứ? Chuột chết đâu có thể khiến bạn thương tâm? Hỏi mình như thế thì sẽ rất buồn cười, mới rồi là sự việc thương tâm, nay trở thành chẳng có chút giá trị gì.
Nếu có vật gì đó mà bạn không thích, bạn đem cho người khác thì có quan trọng gì đâu? Nhất định bạn sẽ không tiếc nuối. Nếu trong lòng còn chút gì không xả bỏ được, thì như thế vẫn còn “ái” và “tham chấp”. Cái gọi là “thanh danh trong sạch”, giả như bạn không muốn bạn đem cho người khác thì quan hệ gì đâu. Nếu bạn còn có chút thương tiếc mà lo rằng người ta sẽ trách móc bạn thì bạn cảm thấy ấm ức, sợ người ta không biết sự thật. Sự thật thì phàm phu có thể không biết, chứ không lẽ Phật và Bồ Tát lại không biết? Nếu quả thực bạn tin rằng Đức Phật biết tất cả thì trong thế gian này làm gì có sự oan uổng chứ?
LỬA RỰC HÓA THÀNH SEN HỒNG CÂU CHUYỆN PHẤN ĐẤU CỦA CHỊ VƯƠNG
Tấm lòng và cách nghĩ của chúng ta có thể cải biến cuộc đời, cải biến sinh mạng, cũng có thể khiến chúng ta từ một kẻ phàm phu thống khổ, oán hận biến thành một vị Bồ Tát an vui hoan hỷ.
Giờ đây, tôi muốn giới thiệu với mọi người một chị bạn tên là Vương Tuyết Cầm. Năm 30 tuổi chị u xương phải chịu cưa mất hết một chân, hơn nữa bệnh này của chị thì y học xếp vào loại bệnh ác tính, bác sĩ cho rằng chị khó sống quá một năm nữa, nhưng trong mười năm nay chị vẫn có thể niệm Phật, vẫn có thể khuyến khích mọi người niệm Phật. Trước sau chị vẫn chịu 22 lần giải phẫu, không những chỉ cắt đi một chân mà còn phải cắt đi một lá phổi. Nhưng điều khiến tôi hết sức cảm động là sau khi cưa hết một chân, chị nói với tôi: “Tôi rất may mắn, vì bị mất đi một chân tôi mới có cơ hội nghe Phật pháp. Giả như không nghe được Phật pháp thì tôi không biết phải tạo thêm bao nhiêu nghiệp, sau này sẽ chịu bao nhiêu khổ.”
Hồi xưa, trong Thiền tông có một vị tổ là Đại sư Huệ Khả. Vì muốn cầu Phật pháp với Tổ sư Đạt Ma, ngài không tiếc chặt đứt một cánh tay của mình. Nay tôi nghe có người bị cưa một chân mới được nghe Phật pháp, tôi rất cảm ơn, thậm chí còn thấy mình gặp may, khiến tôi hổ thẹn vì mình được học Phật, được nghe Phật pháp mà không thể phát được cái tâm giống như chị ấy.
Chị ấy nói với tôi, chị là một người có cá tính mạnh mẽ, thậm chí có thể nói là “rất hung hãn”. Nếu nổi giận có thể chị ném đá vào người ta. Khi chị chưa bị bệnh, ngày nào chị cũng bận bịu kiếm tiền. Nếu có khuyên chị niệm Phật thì chị trả lời: “Có ngu mới niệm Phật, không có tiền thì niệm Phật gì chứ?” Đến khi sinh bệnh chị mới biết rằng dù có tiền cũng không đủ dùng, không những thế, có thể nói tiền không thể giảm bớt nổi khổ vì bệnh, dù có nhiều tiền cũng không giúp người ta nghĩ ra cách gì để ngủ một giấc cho ngon, dù có nhiều tiền cũng không có cách gì để giải tỏa ý niệm tự tử.
Khi chị vừa mới biết mình bị ung thư xương, bác sĩ hỏi chị: “chị có biết chị bị ung thư xương chăng?” chị nói: “tôi biết, nhưng từ trước đến nay, tôi chưa hề nghĩ rằng tôi bị bệnh ung thư xương này!” ai mà biết được cảnh khổ như thế này lại đến với thân mình chứ? Chị không nghĩ ra, trong khi phòng bệnh không có ai, chị cầm con dao cắt trái cây định tự sát, thì lúc ấy cô y tá mở cửa bước vào, thấy thế liền hỏi: “cô định làm gì đó?” chị không biết làm sao, chị nói: “có gì đâu tôi muốn cắt trái cây”. Nhưng cô y tá cũng biết chị muốn làm gì, vì bệnh nhân quá đau đớn, muốn tự sát cho xong, điều này khó tránh khỏi. Chị chưa từng nghe Phật pháp, cho nên tư tưởng chỉ dừng lại ở một cách nghĩ, chị nghĩ: “Bị bệnh nằm trên giường, một xu cũng không kiếm được, thân thể không thể hoạt động tự do được thì có sống cũng không có ý nghĩa gì!”.
Sau đó chị ra khỏi y viện ấy, nhưng lại bị đưa vào một y viện khác, trong khoảng mấy tháng vì quá buồn khổ, cho nên khối u phát triển rất nhanh, chị lại phải giải phẫu lần nữa.
Lần nọ, đại động mạch của chân chị bị vỡ, máu chảy thật nhiều, tuôn tràn không cầm lại được, người ta phải bất đắc dĩ cưa chân chị! Quý vị nghĩ xem: một phụ nữ vừa trẻ vừa đẹp thì thử hỏi có ai có đủ bình tĩnh để tiếp nhận một sự thật tàn nhẫn và phải làm người thiếu mất một chân? Nỗi khổ trong lòng chị chúng ta có thể hiểu được.
May thay bên cạnh chị có một cô y tá có học Phật ở Lâm Ức Phân biết được bệnh tình của chị, nên từ bi khuyến khích chị học Phật. Khi chị đi trị liệu cho khỏe trở lại thì gặp Lão Hòa Thượng Quảng Hóa cũng đang được điều trị tại y viện. Chị thấy lão Pháp sư đi đứng cũng khó khăn, phải chống gậy. Tuy vậy mà lão Pháp sư vẫn đầy đủ phong thái trang nghiêm của bậc tu hành, hoàn toàn không phải vì đi khập khiễng mà sinh phiền não. Chị bỗng nghĩ: “Hoàn toàn không phải chỉ mình ta bị què chân! Lão Pháp sư tu hành như thế cũng phải chống gậy”, cho nên chỉ thỉnh giáo Lão Pháp sư.
Lão Pháp sư kể chuyện của chính ngài cho chị nghe: hồi chưa xuất gia, ngài phục vụ trong quân đội, ngài rất thích ăn thịt, đến đâu ngài cũng tìm gà vịt để ăn. Về sau, có lần ngài nhìn thấy bọn gà vịt, thậm chí cả chó ngựa đến đòi mạng, sắp hàng từ trên núi đến trạm xe dưới núi. Ngài biết rằng trước đây mình đã sai lầm, vì ham ăn ngon mà không nghĩ đến nỗi khổ của các động vật bị chết, vì vị ngon của chiếc lưỡi dài chưa đến ba tấc của ngài mà ngài chẳng tiếc gây sợ hãi chết chóc cho các động vật. Lão Pháp sư bảo rằng ngày nào ngài chịu khổ là do báo ứng nhân quả. Biết đó là nhân quả thì phải hoan hỷ mà trả nợ, sám hối, sửa đổi lỗi lầm mà chịu khổ, chịu khổ đến khi trả xong nợ gọi là “chịu khổ cho hết khổ”. Một lần chịu khổ thì có thể mất đi một phần cái khổ do mình gây ra. Lão Pháp sư còn bảo chị niệm Phật, tụng kinh để chuyển biến nghiệp lực, dùng sức công đức của việc niệm Phật tụng kinh để giải hóa mọi tội nghiệp. Sức niệm Phật giống như hơi nóng của mặt trời, tội nghiệp giống như băng tuyết. Mặt trời có thể chiếu và làm băng tuyết chảy mà biến thành “nước công đức”. Tâm niệm Phật càng chân thành thì giống như nhiệt độ của ánh sáng càng tăng, băng tuyết càng mau tan thành băng tuyết, các tội lỗi nặng nề, khổ ải vốn có, nhờ sức của “tâm” niệm Phật và sức của “Phật” mà tiêu tan rất nhanh chóng, rất dễ dàng! Nếu ta càng hoan hỷ cam tâm trả nợ, người đòi nợ thấy thế sẽ an tâm vui vẻ; nếu ta càng không bằng lòng, không vui vẻ tra û nợ, người đòi nợ thấy thế càng giận càng nóng nảy! Chúng ta có thể tự hiểu, nếu người ta thiếu tiền chúng ta, đáng lẽ là phải trả cho chúng ta thì người ta lại bảo trả nợ thật cay đắng và không muốn trả, như vậy chúng ta nghĩ thế nào? Có thể chúng ta cảm thấy người ấy thật vô lý và quyết đòi người ấy phải trả đủ vốn lại thêm cả tiền lời. Trái lại, nếu người ấy rất nỗ lực, rất vui vẻ muốn sớm trả nợ cho chúng ta, thì phải chăng chúng ta phải tìm cách bức bách người ấy? Trong lối suy nghĩ của chúng sinh tức là “tâm chuyenå động tâm”, cũng chính là tâm niệm của chúng ta ảnh hưởng đến người khác, làm chuyển động tâm niệm của người khác, tâm của người khác cũng có thể chuyển động tâm của chúng ta. Cho nên chúng ta nên dùng tâm tốt, tâm hoan hỷ từ bi mà làm sinh khởi tâm từ bi hoan hỷ của mọi người.
Trong thời gian cùng với Lão Pháp sư chữa trị phục hồi sức khỏe, chị Vương Tuyết Cầm được Lão sư khai thị, lại thấy Lão Pháp sư trong lúc đang khổ vì bệnh mà vẫn “không nỡ nhìn chúng sinh khổ, không nỡ nhìn thanh giáo bị suy tàn”, luôn luôn nổ lực, hoằng pháp. Lòng từ bi, sự tín nguyện của Pháp sư là hành động thực tế hơn bất cứ ngôn ngữ nào, đã có sức làm chị cảm động chị mới làm lắng xuống nỗi bất bình, bực bội vì cái chân què của chị.
Chị nỗ lực phấn đấu để rời giường bệnh, ngồi trên xe lăn, lại phấn đấu rời khỏi xe lăn, tự mình chống gậy đứng lên, bước ra cửa, lại bắt đầu làm mọi công việc của gia đình, thậm chí có thể giúp đỡ chăm sóc bà và mẹ đã già lại đang bệnh. Lần đầu chị cố gắng đi chợ mua thức ăn, bị người ta cười nhạo cái chân què của chị, chị không chịu được, phải khóc mà trở về nhà! Nhưng điều đáng quý là chị không dừng lại ở chỗ bi thương khóc lóc, chị lại dũng cảm đưnmgs lên mà ra đi! Khi chị bị người ta dùng lời châm chọc, chị quyết tâm trồng một đóa sen, không vì thế mà khổ sở, trí tuệ của chị lại phát sinh, chị nắm lấy từng cảnh ngộ mà người khó chịu đựng được để tự mình sám hối nghiệp chướng, đồng thời khuyên người ta hành thiện, niệm Phật.
Có lần, chị gặp một em nhỏ trong chợ, em hỏi chị: “Dì Ơi, sao dì thiếu mất một chân?” chị nhân cơ hội đó mà khuyến hóa em: “vì dì làm quá nhiều điều không tốt, cho nên bị báo ứng mà thiếu mất một chân. Vậy em chớ làm điều không tốt, nên hiếu thuận với cha mẹ, cố gắng học hành.” Chị còn khuyên em nên niệm “A Di Đà Phật”.
Trước kia có người nghe nói ăn rết thì có thể trị được bệnh ung thư, bèn có hảo ỹ khuyên chị ăn rết, hy vọng chị dễ lành bệnh. Chúng ta đều biết, dùng rết làm thuốc thì trước hết phải cắt hết chân rết. Một hôm chị nhìn thấy con rết bị cắt chân thì rất cảm động. “Đây há chẳng giống ta sao? Một chân bị mổ mười mấy lần, kết quả là phải bị cưa!” Nỗi đau của con rết cũng giống nỗi đau của chị, nỗi đau của chị cũng giống nỗi đau của con rết. Chúng ta không nên xem tính mạng của chúng sinh khác là nhỏ bé mà không xem trọng, chúng cũng có xương thịt, da như chúng ta. Người xưa có bài thơ:
Chớ bảo quần sinh tánh mạng nhỏ
Cũng là xương thịt, cũng là da
Khuyên ai chớ hại chim trên ngọn
Trong tổ chim con gọi mẹ về.
Khuyên mọi người không nên hại chim nhỏ trên cành, vì chim nhỏ cũng có con ở trong tổ đang chờ mẹ về chị Vương hiểu được điều ấy, nên chị không dùng loại thuốc rết kia, chị quyết trả nợ nghiệp mà không chịu bệnh khổ, chớ không đành làm hại rết, vì quả báo rốt cuộc rồi cũng sẽ đến với chính chị. Thật ra, dù có ăn rết hoặc ăn các loại cá thịt khác cũng không thể bảo đảm chị không bị bệnh khổ mà sống thọ trăm tuổi, cần gì phải gia hại nhau trên đường luân hồi chứ!
Chị đã trãi qua trăm ngàn khổ đau, rồi bỗng sinh khởi tâm bi mẫn, khiến chị chống gậy chịu đựng những cơn đau ngực, khó thở, tim đập nhanh sau khi phẫu thuật phổi, tinh thần vẫn vững vàng, đến thăm những bệnh nhân bị ung thư như chị, đem những kinh nghiệm của chính mình mà khích lệ họ. Thậm chí chị còn tự mình nấu trái táo đỏ, mang thức ăn điểm tâm đến y viện cho các đồng bệnh, khuyên mọi người hãy nêu cao lòng tin, dũng khí mà niệm Phật, phá bỏ mọi khó khăn. Có lúc nhân viên y tá trong y viện gặp phải những người bệnh quá sa sút tinh thần, sợ hãi không thể hợp tác với họ, họ cũng nhờ chị giúp đỡ. Có lần họ nhờ chị khuyên một người bệnh sau khi mổ sợ đau mà không chịu bước xuống giường để đi đứng hoạt động, chị liền chống gậy đến, người bệnh ấy thấy chị đến thì nói: “tội nghiệp, què chân mà cũng đi!” chị nghe xong bèn khéo léo đáp: “Tội nghiệp có chân mà không đi được!” sau đó chị kiên nhẫn khuyến khích người bệnh đi đứng hoạt động. Người bệnh thấy có người khổ hơn mình mà như thế, lại từ bi đến khuyến mình, hổ thẹn mà phấn chấn lên. So với chị, trên thế giới này quả không ít người “tuy có chân mà không đi theo con đường tốt”, cũng có rất nhiều người đáng thương “tuy có chân mà không chịu đi”!
Không những chị chống gậy đến giúp đỡ người khác, chị còn cố gắng chống gậy đi nghe Kinh, nghe Pháp, ở nhà với một chân chị làm việc để kiếm tiền, sang băng Phật pháp gởi cho người khác. Điều đáng qúy là chị nghĩ: “chẳng lẽ ta chỉ có một chân mà không lạy Phật được ư? Ta không tin thế! Nhất định ta sẽ luyện tập!” mới đầu, chị nhân lúc đêm khuya vắng người, chị bò đến và dùng một chân mà cố gắng lạy Phật. Lúc đầu vì quá yếu sức sau cuộc giải phẫu và trị liệu hoá học, mới lạy có ba lạy chị đã thở dốc, đầu choáng váng cơ hồ đứng không nổi, nhưng ngày nào chị cũng cố gắng như thế. Sau đó chồng chị rất từ bi, ngày nào cũng giúp chị luyện tập, dần dần chị kéo dài được thời gian và số lần lạy Phật. Khi tôi thấy chị bỏ gậy, dùng một chân mà đứng vững vàng, chắp tay và quỳ xuống, đầu mặt chạm chân mà lễ Phật, thì quả thực tôi không ngăn được những giọt lệ vui mừng, kính phục tán thán
Vì để cảm tạ lòng từ bi của Đức Phật A Di Đà, cảm tạ ân huệ mà chúng tôi từ thuở nhỏ đã thọ nhận, chúng tôi mong muốn được bái sơn. Do đó chị càng cố gắng luyện tập. Không dùng gậy làm sao mà bái sơn được? Đó là đảnh lễ lạy xuống, sau khi đứng lên, dùng một chân nhảy tới trước một bước, rồi lại lạy xuống. Chúng tôi cười mà nói: “hai người chúng ta tuy có thể ngã nghiêng nhưng lại hưởng được lạc thú ngã nghiêng trong lòng Đức Phật Di Đà, ngã trên mặt đất bảy báu mịn màng của thế giới Cực Lạc, đó cũng là một điều hạnh phúc; bái sơn mà bị té ngã, cũng là ngã nơi cõi tịnh của Đức Phật A Di Đà, cũng như đứa bé tuột trước ngực, nằm trong lòng mẹ. Chỉ cần đầy đủ lòng tin và cảm anâ, thì đường đi có gập ghềnh khó khăn cũng sẽ biến thành ngọt ngào đẹp đẽ.” Nói xong chúng tôi cùng nhau bái sơn. Chị không cầm gậy, dùng một chân mà lạy, chí thành đảnh lễ một lạy, dùng một chân mà đứng lên, nhảy tới trước mặt một bước, rồi lại lạy xuống. Chị lạy rất thích thú, nhưng vì đường núi càng lúc càng lên cao, có đoạn gập ghềnh hiểm trở, chị phải dùng một chân nhảy tới trước thật là khó khăn, phải té ngã! Các vị lạy phía sau thấy chị lạy cố gắng, chân thành như vậy thì cảm động đến phát khóc! Pháp sư đạo trường thấy chị ngã, không chịu được liền chạy tới đỡ chị đứng lên. Chị vẫn rất kiên cường, rất vui vẻ mà tiếp tục lạy cho đến đỉnh núi, đem công đức bái sơn mà hồi hướng cho tất cả chúng sinh rời khổ được vui, đồng thời hồi hướng cho tất cả các bệnh nhân mắc chứng bệnh ung thư có được sức mạnh dũng cảm, kiên cường, an lạc!
Chị Vương có hai đứa con, một trai một gái, đang học tiểu học. Một hôm chị đến trường để tham gia hội phụ huynh, bạn đồng học của đứa bé cười chế nhạo chị, đồng thời cũng cười nhạo con chị: “Hà hà Hà, mẹ bạn què chân!” Đứa bé bị cười nhạo ấy lấy làm khổ sở, về nhà thì buồn bã chuyển sang giận dỗi, bảo chị lần sau đừng đến trường khiến cho nó bị mất mặt! Nỗi khổ này chị cũng có thể niệm Phật, an tâm mà qua được. Sau đó tôi biết được mới khuyên con chị: “Mẹ của cháu là Bồ Tát (cư sĩ Phật tử), tuy bị thiếu một chân, nhưng mẹ cháu lại dũng cảm bước ra giúp đỡ người khác, mẹ cháu còn vĩ đại hơn những người có đầy đủ hai chân mà không biết vận dụng cho tốt. Cháu nên trân quý người mẹ vĩ đại của cháu. Mẹ cháu phải chống gậy mà vẫn có thể chăm sóc cháu, đến trường lo lắng cho cháu. Mẹ cháu đáng tôn kính hơn rất nhiều người mẹ không làm tròn trách nhiệm. Sau này mẹ cháu đến trường, cháu có thể tự hào giới thiệu với các bạn đồng học: “Đây là người mẹ dũng cảm, vĩ đại, từ bi của tôi!”, cháu chớ vì mẹ cháu què chân mà có ý nghĩ không tốt!”
Có người cười nhạo chị: “Đức Phật của các chị vốn không bảo hộ chị, nếu không như thế thì sao chị bị què chân?” Chị đáp: “Đức Phật rất từ bi, dù tôi đã tạo nghiệp mà bị què chân, ngài cũng vẫn tiếp nhận tôi, hoan nghinh tôi, hộ trì tôi.”
Chị còn bảo tôi, chị rất cảm tạ mẹ và chồng, không bài xích người phụ nữ cụt chân như chị, mà lại càng chăm sóc chị nhiều hơn. Tôi đã từng thấy nhiều gia đình, vì chăm sóc người bệnh quá lâu mà sinh lòng buồn chán, cho nên tôi rất tôn kính gia đình chị, đã có đức tính tốt đẹp, săn sóc chị trãi qua 22 lần mổ mà vẫn thành khẩn, từ ái, kiên trì. Giả như bạn đã từng đứng ngoài phòng mổ chờ người thân đang được mổ thì bạn mới có thể hiểu được cái cảm giác của con kiến trong nồi nóng, sự sốt ruột chờ bác sĩ tuyên bố và nỗi bàng hoàng sợ hãi của lúc sinh ly tử biệt, tâm linh bị ray rứt biết dường nào!
Người chồng đáng kính của chị trãi qua hai mươi lần chị bị mổ cũng không oán trời, trách người, mà chỉ nói với chị: “có lẽ đời trước chúng ta đều làm việc xấu, em là chủ mưu, anh là trợ thủ, cho nên đời này em phải chịu đau đớn vì bị mổ, anh cũng phải chịu khổ sở, lao đao. Tuy đó là một câu nói ngắn, nhưng là lời nói tin chắc nhân quả, cũng hàm chứa sự sám hối nghiệp chướng và thừa nhận “từ đời trước đến nay tất nhiên có nhiều sai trái”, không giống như nhiều người khác, hễ gặp hoàn cảnh khó khăn thì đều cảm thấy “mình rất lương thiện sao lại khổ thế này? Quả là trời không có mắt, Phật tổ không bảo hộ” đi đâu cũng oán trời, trách người, suốt ngày sầu khổ không dứt”. Thật ra nếu muốn biết đời trước thì hãy xem những gì mình phải chịu nhận trong đời này; nếu muốn biết tương lai của chúng ta, thì hãy xem những gì mình làm trong hiện tại. Chồng chị đã có suy nghĩ như thế, chính là hoan hỷ tiếp nhận, bình tĩnh cam tâm tiếp nhận, đó chính là có trí tuệ.
Sau khi họ tin Phật, cứ mỗi lần gặp lúc chị bị mổ, họ lại khẩn thiết niệm Phật, có lẽ là lúc bị vùi dập giữa biển lớn sinh tử, bốn bề mênh mông họ mới thể nghiệm được: Tronng lúc không có nơi tựa thì chỉ có Đức Phật A Di Đà là chỗ nương tựa của chúng ta, ánh sáng của cái tâm thành khẩn, tha thiết mới toả sáng lên. Chồng của chị đầy vẻ thành khẩn mà nói cho tôi biết: Tất cả đều là sự gia bị của Đức Phật và Bồ Tát. Anh đã hai lần đứng ngoài phòng phẫu thuật mà niệm Phật, anh đều cảm thấy sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.
Trãi qua bấy nhiêu lần phẫu thuật tinh thần chị vẫn phấn chấn. Thay vì dùng thời gian để làm việc cho mình, chị lại đi khuyến khích những bệnh nhân khác, khuyên bảo họ niệm Phật, không nên sát sinh. Những người lớn tuổi và những người thân không nhẫn tâm để chị phải mệt nhọc như thế, nên không muốn cho chị đi. Chị nói với tôi: “Tôi rất sám hối vì đã khiến cho các bậc trưởng bối phải nhọc lòng”, nhưng chị lại dõng dạc, quyết tâm nói: “Thực ra không có người mắc bệnh chăm sóc người bệnh, thì rất khó hiểu được sự cảm thọ thực tế của người bệnh. Tôi bị bệnh đã lâu, tự thân đã trãi qua bao nhiêu thống khổ, có lẽ kinh nghiệm này có thể an ủi, giúp đỡ một số người! Tôi rất may được học Phật, chỉ mong đem Phật pháp đã nghe được đến cho các đồng bệnh. Tuy trong đau khổ, tôi cũng có lòng buồn phiền rối loạn, niệm Phật cũng không niệm được, nhưng dù tôi chịu lắm khổ, lắm sầu như thế, tôi cũng quyết tu học”. Tôi tự bảo: “Đến nay mình vẫn chưa tu tập để hồi hướng cho sư phụ đã dẫn đạo Phật học. Do đó tôi bèn dằn tâm phiền não, cố gắng tu tập niệm Phật, tụng kinh. do nỗ lực như thế, tự nhiên tâm tôi trở nên bình tĩnh, không phiền, không khổ!” chị vốn muốn hồi hướng cảm tạ báo đáp sư trưởng, thiên tâm sinh khởi lại thêm niệm Phật, nên tự chị được bình tĩnh an lạc. Chị lại nói: “giờ đây tôi không cầu mong Phật, Bồ Tát bảo hộ cho tôi được khỏi bệnh, chỉ mong được Phật lực gia bị khiiến tôi có dũng khí, trí tuệ phá tan những khó khăn và giúp người khác phá tan những khó khăn.”
Thánh hiệu A Di Đà Phật tuy chỉ có bốn chữ, đâu có khó niệm, người người đều niệm được. Điều khó khăn là dù gặp phải những thử thách trong đời, vẫn đủ kiên trì mà niệm, hiểu được tâm đại bi của Đức Phật A Di Đà mà liên tục niệm! Từ trước đến nay chỉ có chúng ta là cô phụ bàn tay duỗi ra của Đức Phật A Di Đà, chứ Đức Phật A Di Đà không hề cô phụ chúng ta!
Cảnh nhà của vợ chồng chị không giàu có gì, sau khi chị bị cưa chân, chồng chị tìm cách dành một khoản tiền làm chân giả cho chị. Chị lại nói: “Giả như anh có đủ mười vạn thì hãy cho tôi tiền để tôi tự dùng.” Chị nói với tôi: “Giả có mười vạn thì tôi muốn bố thí hết, vì một chân kia cũng rất hữu dụng, tôi muốn đem cái chân kia để bố thí!” chị chỉ vào hai cây nạng mà nói: “Tôi không hề thiếu một chân, trái lại tôi còn có thêm một chân, tôi có thêm một chân Phật pháp!” Chị nói như thế sau khi khối u lan tới phổi chị và phải mổ, phải trị liệu hoá học. Nét mặt hồng hào và tươi cười của chị khiến cho người khỏe mạnh cũng không bì được chị.
Một vị Hoa kiều tại Mỹ Quốc (cũng là một bệnh nhân ung bướu) nghe câu nói ấy của chị Vương thì rất cảm động, liền rơi nước mắt mà nói: “Tôi muốn gửi cho chị ấy một chân (chân giả)!”, nhưng chị Vương vẫn bằng lòng với một chân, chị muốn đem tiền làm chân giả để bố thí.
Bố thí tiền bạc đã không dễ, bố thí một cái chân lại càng khó hơn! Phần lớn người đời vì muốn béo bở cho mình mà chặt chân của chúng sinh để ăn, chỉ muốn chúng sinh bố thí chân cho mình, chứ đâu muốn bố thí chân mình cho chúng sinh?
Chị nói: “Tuy không có tiền, nhưng sau khi tôi bị cưa một chân, gia đình tôi trở nên ấm áp hơn”. Ngoài niệm Phật thì ngay ở đời này cũng có thể sống trong không khí của thế giới tịnh độ cực lạc.
Để khuyến khích chị đọc kinh A Di Đà, tôi giao ước với chị: “Khi nào chị thuộc kinh A Di Đà, chúng tôi sẽ cùng chị đi bái sơn, hồi hướng cho những người bị bệnh ung bướu”. Do đó cả nhà chị đều giúp chị học thuộc kinh A Di Đà. Đứa con gái của chị đang học tiểu học khuyến khích chị: “Má, nếu má đọc thuộc kinh A di Đà không sai một chữ thì con sẽ thưởng cho má năm trăm đồng”. Thế là chị tay vừa làm, đồng thời học kinh hoặc niệm Phật, đến tối khi cả nhà trở về, chị đọc kinh cho mọi người nghe. Đến hôm chị đọc thuộc không sai chữ nào, chị nói: “cả nhà ta vui vẻ biết dường nào!” Trong khi chị đọc kinh, tay vẫn làm việc, kể cả tiền thưởng cộng được bốn nghìn, đem cúng dường Tam Bảo.
Trong khi chị mắc bệnh ung thư quan trọng như thế, cả nhà chị cùng hướng đến quang minh, vui vẻ sinh hoạt, quả không đơn giản. Chị nói: “Giả như ngày ngày tôi nằm trên giường rên la kêu khổ, người chăm sóc cũng rất bức xúc và khổ đau, dù đi học cũng không thể an tâm, sau đó cũng sẽ buồn phiền, cho nên tôi phải kiên cường, vui vẻ mà tự săn sóc mình để mọi người yên tâm mà có lòng tin!” Thật vậy, tự mình kiên cường vui vẻ chính là từ bi đối với người.Hầu như không một bệnh nhân ung bướu nào tránh được áp lực kinh tế. Có người biết tình trạng của chị, nên đề nghị chị cùng mở điểm trò chơi điện tử (nghe nói thu nhập rất cao). Chị bảo tôi: Chị muốn biết chồng chị nghĩ thế nào, bền cố ý hỏi ý kiến của anh ấy, kết quả khiến mọi người an tâm, chồng chị nghiêm nghị nói với chị: “Chúng ta là người niệm Phật, chính mình còn sợ trò chơi điện tử hấp dẫn, sao lại có thể làm hại con cái người khác!?” Tôi nghe xong liền không khỏi muốn chắp tay đảnh lễ họ, vì họ đang trong lúc chịu khổ nạn mà tâm địa vẫn an tịnh như thế, vẫn đi con đường cao khiết thơm tho như thế! Nhiều gia đình bị ung bướu mà lâm vào cảnh tăm tối, còn cả nhà chị thì nhân bệnh ung bướu mà hướng tới Phật, học Phật, biến lửa rực thành sen hồng thơm ngát, đáng làm tiêu bảng cho mọi người đang chịu khổ.
Có một bác sĩ đã hiểu rõ bệnh tình mười năm của chị, nên cảm khái nói: “Đây quả là hạng quốc bảo!” Lại có một bác sĩ nói với chị: “Đáng lẽ chị đã chết từ lâu, vì sao đến nay vẫn còn sống chứ?” Hơn nữa thể trọng của chị từ 34 kg tăng lên thành 50 kg, lại còn sống rất khoẻ mạnh. Bác sĩ hỏi chị: “Rốt cuộc chị uống thuốc gì?” Chị nói: “Tôi chẳng uống thuốc gì cả, tôi chỉ niệm A Di Đà Phật.”
Có người thấy chị chống hai cái nạng mà đi chợ, bèn nói với chị: “chị thiếu một chân mà còn đi mua thức ăn à?” Chị nói: “tôi có thêm một chân chứ không phải thiếu đi một chân!” Lại có người hỏi chị: “Vì sao chị có thể ra khỏi cửa?” Chị đáp: “Đại khái là do Đức Phật A Di Đà và sư phụ cho tôi sức lực!”
Trông thấy hình ảnh hai vợ chồng chị khắc phục mọi thứ gian nan, bất tiện, lại còn thương xót muốn cùng nhau giúp đỡ những người bệnh, tôi nghĩ đến tinh thần Bồ Tát “chỉ muốn chúng sinh được rời khổ, không mong cầu an lạc cho mình”.
Chúng ta rất muốn cùng với mọi người đang gặp khó khăn cùng thưởng thức hai bài thơ nhỏ này:
“ khi bạn đang khóc
Hãy biết tôi cũng đang nhỏ lệ
Khi bạn đang vui
Hãy biết tôi cũng đang hoan hỷ,
Bất kể lúc nào và ở đâu,
Trong tín tâm niệm Phật,
Chúng ta mãi bên nhau
Và bên Đức Phật, Bồ Tát.”
“Khi bạn đang một mình,
Chớ nghĩ mình cô đơn,
Hãy nghĩ có hai người;
Khi hai người chúng ta bên nhau
Hãy nghĩ có ba người,
Vị kia chính là Đức A Di Đà Phật,
Bạn đi đến đâu
Phật theo bạn đến đó ”
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát Bồ Đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc