Với y chánh (2) nơi Cực Lạc, nói đến Phật liền khắp gồm, với biển công đức của Phật chỉ cần nêu danh đã trọn. Kinh dạy: ‘Lời lẽ trị thế so với thật tướng chẳng có chống trái. Vạn đức hồng danh (3) há chẳng phải là thật tướng sao?
Từ chữ ‘Nhưng pháp trì danh này’ trở đi, trùng hiển một môn trì danh, nhiếp trọn tiểu, đại thừa giáo. Chẳng kể lợi căn, độn căn, đều có thể y theo tu hành. ‘Chánh định’ là ngoại trừ niệm Phật, đều gọi là tà định. ‘Chánh tư’: với cảnh được niệm, chánh trực suy xét, tìm cầu, suy nghĩ để loại hôn trầm. ‘Chánh tâm hạnh xứ’ tức là cảnh được tâm chánh định duyên vào, khác với cảnh sở thọ của vô minh tà. Còn gọi là điều trực định. Do chúng sanh cong vạy tán loạn, Phật dùng các môn tam muội sửa cho ngay cái cong vạy, nghiêm chánh lại cái tán loạn đó. ‘Tên chung của thiền quán’: như trong Trí Độ luận viết: ‘Hết thảy thiền định nhiếp tâm đều gọi tam muội’ là như vậy. ‘Tên riêng của một hạnh’ có hai cách giải thích: Một là nói một hạnh trong vạn hạnh, như trong các kinh hoặc dùng chơn như hải ấn đức tạng làm tam muội, hoặc như huyễn ngữ ngôn pháp giới làm tam muội. Hoặc hữu duyên hữu tướng, vô đắc, vô tranh v. v. . Hai là chỉ niệm Phật tam muội. Kinh Văn Thù Bát Nhã chép: ‘Phật bảo Văn Thù: Muốn nhập nhất hạnh tam muội, nên ở chốn thanh vắng, bỏ các loạn ý, chẳng lấy tướng mạo, buộc tâm vào một Phật, chuyên xưng danh hiệu của ngài, tùy theo phương vị của ngài, ngồi ngay ngắn hướng thẳng về đó, có thể với một đức Phật, niệm niệm tiếp nối, thời ngay trong niệm ấy có thể thấy quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật. Niệm công đức của một đức Phật, cùng với niệm công đức của vô lượng chư Phật chẳng là hai’. Nếu được nhất hạnh tam muội thời pháp môn trong các kinh thảy đều hiểu rõ.