Home > Khai Thị Phật Học > Tu-Chanh-Can
Tứ Chánh Cần
Thượng Tọa Thích Phổ Huân


Nghĩa là bốn điều chánh pháp nên chuyên cần học hỏi tu tập:

1 Chuyên cần học hỏi ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh

2 Chuyên cần học hỏi dứt trừ những điều ác đã phát sanh

3 Chuyên cần học hỏi làm phát khởi những điều thiện chưa phát sanh

4 Chuyên cần học hỏi tiếp tục phát khởi những điều thiện đã phát sanh

1 Chuyên cần học hỏi ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh.

Bạn thấy sao khi nghe qua điều thứ nhứt này? Quả thật rõ ràng nói lên đời sống con người luôn bạo động, luôn tạo khổ chính mình và mọi vật chung quanh. Nếu không, tại sao điều trên dạy phải ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh! Nhưng đâu phải ai cũng ác! Vâng, chẳng hạn bạn và tôi không ác đây! Có chắc rằng tôi và bạn không ác chăng? Bạn tưởng không hại người là không ác à! Hoặc chỉ sống đơn độc một mình ở nhà, không giao du với ai là không bao giờ phạm ác?

Thiết nghĩ, ta cũng nên tìm hiểu sự thể cái gì là ác, hoặc làm sao gây ác?

Tiêu chuẩn nói về thiện hay ác, quả thật hơi rắc rối; vì nó tùy thuộc vào quan niệm tư tưởng sống của một số người. Nếu như số người này có thế lực có kiến thức, họ sẽ dành phần quyết định về mình, như thế các quan niệm nhân sinh, luân lý, đạo đức phổ quát, sẽ được công bố từ họ mà ra.

Thưa, việc này có thể đúng, tuy nhiên cũng chưa hoàn toàn, vì phải căn cứ vào kết quả thiện ác, hay nói theo nhà Phật là hãy xem quả báo nhân quả ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai để xét nghiệm, để chứng kiến, để cảm nhận chính mình, đó mới thật đúng. Tất nhiên nói đến nhân quả vẫn là một phát kiến tư duy hiện thực của con người trên trái đất này. Nhưng phát kiến đó đã không bị lung lạc, sai lầm, từ vô thỉ đến nay, cho nên nó phải đúng. Chúng ta xin được sám hối gọi Thế Tôn cũng là con người, để thấy vấn đề rõ hơn. Vâng, đó chính là con người Tất Đạt Đa đã phát kiến tư duy điều học nhân quả, đúng theo hiện thực sinh hoạt thế gian, và nền triết lý uyên thâm nhân quả đó, là do Ngài tự thân chứng nghiệm. Ngài tiêu biểu cho một người đã am tường nhất về điều ác, điều thiện, nên tự thân tu hành chuyển hóa tất cả điều ác để trở thành toàn thiện mà được xưng tụng là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.

Vậy thì xác nhận điều ác, điều bất thiện ở đây, phải được hiểu là một quả báo ảnh hưởng đến người và vật mới thật là đúng. Hay xin được nói một cách khẳng định, không sợ chủ quan rằng, chỉ có căn cứ theo giáo lý giải thoát mới thật sự hiểu được việc ác việc thiện là chi.

Như thế vấn đề nhận định một hành nghiệp tạo ác của một người, hay một nhóm người, không thể đúng nếu họ chưa thấy được giáo lý giải thoát của Như Lai. Tuy nhiên cũng có người chưa hiểu giáo lý Như Lai, vẫn tránh được điều ác trong suốt cuộc đời của họ. Hình ảnh đầu tiên ta thấy người này phải là người thương vật, do thương vật nên họ chẳng bao giờ ăn mạng súc sanh. Họ đã thương vật, đương nhiên với người phải còn hơn nữa, cho nên cuộc sống lại dành nhiều thời gian công tác xã hội đem đến niềm an ủi, chia buồn, mang vui cho nhiều người. Có thể nói họ sống vì người nhiều hơn vì mình một cách cụ thể, mà chung quanh họ từ gia đình đến bạn bè đều thấy. Đó là hạng người không làm ác, lại chẳng biết giáo lý giải thoát của Như Lai.

Nhưng thưa bạn, chúng ta có thể đoán họ phải là chư vị Bồ Tát thị hiện ẩn mình qua lớp phàm nhân bình dị, mới có thể làm được những hành vi như vậy, chứ thật ra khó ai trong đời mà không tạo ác.

Căn cứ theo mười điều thiện của nhà Phật: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc ác, không tham muốn, không giận dữ và không si mê. Bạn nghĩ xem, bạn và tôi có thể làm được ít nhiều từ mười điều trên, hay có thể không phạm một điều nào trong mười điều? Trong mười điều thiện như vậy bảy điều trước, bạn và tôi có thể làm được, nhưng ba điều sau, không tham, không sân, không si, thì xin thưa, có lẽ phải trải qua nhiều đời tích lũy công đức phước báo mới hoàn chỉnh được. Công đức phước báo đó là gì? Là phải tu hành thanh tịnh theo hạnh xả ly, thanh tịnh của bậc xuất gia, chứ không là những phước báo đơn giản cúng dường Tam Bảo, làm việc từ thiện; những phước báo này chỉ là phước báo gieo duyên bên ngoài Tam Bảo, tuy vẫn được nhưng phải mất nhiều kiếp mới trừ được phiền trược trong tâm đó là tham, sân, si. Việc đây mà người học Phật đã hiểu lý do tại sao sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma đã cho việc làm của Vua Lương Võ Đế chẳng có công đức gì, ý nghĩa là vậy.

Thật phải không tham, không sân, không si, mới đúng là không làm ác. Người ta có thể giấu nhẹm trong tâm, chẳng cho nó hiện ra ngoài đến giờ phút cuối cuộc đời; nhưng không vì vậy, mà họ đã được gọi là không tham không sân không si. Chỉ vì còn mang ý tưởng hoài niệm cố ém vào tâm vào thức, để rồi vụt phát động niệm đời sau.

Trong khi Bồ Tát sống nơi xa hoa vật chất chẳng có tánh tham; thậm chí vẫn sinh hoạt hưởng thụ như người mà chưa bao giờ móng tâm tham muốn; còn chúng ta cố gắng tránh đi vật chất xa hoa, nhưng lòng vẫn còn vương vấn nuối tiếc, và nuối tiếc đến đời sau.

Cho nên phải thật liễu nghĩa, phải hiểu tường tận, phải ý thức và thực hành mới được. Có người sống như tham, nhưng không tham, sống như sân, nhưng không sân, và sống như ngu si, khờ dại nhưng chẳng bao giờ si mê, khờ dại, nếu không nói họ là những người sáng suốt và khôn ngoan nhất.

Vậy chắc bạn và tôi phải biết, họ tham cái gì? Họ tham tu, tham làm thiện, tham quán chiếu thanh tịnh tâm; và họ sân cái gì? Họ sân cho chính họ đã không thể tu hành chứng quả trong tiền kiếp, để bây giờ phải chậm tu chậm chứng, nên họ chỉ sân vì những chướng ngại có tác động hư hại tâm từ, tâm bi trong đời nay, chứ không phải cái sân tổn hại làm khổ chúng sanh hay khổ chính họ. Cuối cùng họ si, là si mê đeo đuổi cho bằng được một đời tu, một đời chứng quả ngay trong hiện tại, nhưng họ không bao giờ chấp chặt si mê ham tu đến quên thân của họ; nên họ si mà liễu được các pháp như huyễn, do đó người đời không thể hiểu họ, lại tưởng lầm họ ngu si khờ khạo!

Thế thì phải hiểu, việc ác không phải đơn giản như thế gian bình phẩm. Và người hiểu rõ việc ác phải là người tin hiểu được mười điều thiện; nhưng chỉ tin hiểu thôi, người này vẫn còn làm ác, chỉ khi nào thực hành sống thực với mười điều thiện, bấy giờ mới gọi là không còn ác nữa.

Thế thì nơi điều đầu tiên, dạy ta phải chuyên cần tinh tấn ngăn chặn những điều ác chưa phát sinh, đây là một việc thực tế nhận chân ra điều ác. Và cũng thực tế thấy rằng, tâm tưởng con người là nơi xuất phát mọi hành động ảnh hưởng đời sống chúng ta. Do đó tu Phật phải tu ngay điều này trước hết, để tránh được quả báo mà nguyên nhân là từ ý niệm hãy còn mang trong đầu. Chư vị Bồ Tát đã thực hành thành tựu điều phục tâm; điều phục ngay khi ý vừa phát khởi móng niệm; như thế mà ta nghe Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả là vậy.

Phàm nhân chúng ta phải đợi kết quả hiện bày mới sám hối lo sợ, nhưng chẳng biết rằng kết quả khổ đau đó chỉ sanh ra được, khi hành nghiệp nhân ác đã làm; mà hành nghiệp ác là những móng niệm thật nhỏ, thật tinh tế, mà ta đã từng xem thường khi móng khởi trong tâm.

Vậy thì người tu Phật phải lo xa và thực tế nhứt là ngăn chặn ngay điều ác chưa phát sanh.

2 Chuyên cần học hỏi dứt trừ những điều ác đã phát sanh.

Khi ý thức hiểu được thế nào là việc ác, chúng ta thấy rằng không một ai lại có thể tránh được việc ác trong đời này, và chuyện không biết về đời trước phạm ác ra sao quả thật là kinh hãi.

Nhìn vào đời sống sinh hoạt loài người, bạn nghĩ xem có nghề nghiệp nào lại không gây ác?

Những nghề nghiệp tay chân, có thể thấy được việc tạo ác rõ hơn, dù là vô tình cũng gọi là ác. Nhưng gây ác là gây thế nào? Thưa bạn đó là xúc phạm đến thế giới các loài chúng sanh khác. Nếu chúng ta sợ thế giới chúng ta bị đe dọa, bị hư hoại, thì loài vật khác cũng lo lắng sợ hãi y như chúng ta.

Nhưng sợ hãi của loài vật có lẽ càng ngày càng tăng chứ không giảm. Sự thật đó, bạn và tôi dư biết, đó là hiện trạng đã và đang xảy ra nguy cơ diệt chủng các loài thú hoang hiện nay. Như hổ, loài động vật này chưa phải gọi là loài thú hiếm, vậy mà thế giới hiện nay chỉ còn rất ít.

Việc sát sanh hại vật khai thác làm sản phẩm tiêu dụng cho con người, điều này đã quá rõ ràng không cần phải bàn thêm; nhưng còn nhiều việc khác, chẳng phải vì miếng ăn, chẳng phải vì tiêu khiển giải trí. Đó là việc đi lại trong sinh hoạt hằng ngày, và thậm chí cả một đời sống gọi là tu hành cũng còn mang nghiệp ác. Chúng ta muốn nói đến những siêu sinh vật, như vi trùng trong nước, và các loài vật nhỏ nhít đang ở dưới chân, dưới nền nhà, trên con đường nhỏ, đường lớn mà ta đã hằng giờ hằng ngày thường xuyên dẫm đạp. Những loài vật nhỏ này, bộ không phải là loài hữu tình, hữu giác hay sao?

Nếu như không có đấng Đại Giác dạy bảo tội sát sanh là tội đánh mất hạt giống từ bi, thì loài người chúng ta còn lạm dụng việc sát hại loài vật đến chừng nào. Và như thế chẳng tính loài vật lớn, chỉ loài vật nhỏ mà ta vô tình sát hại, cũng đủ cho ta phải đền trả đến muôn kiếp luân hồi trong sinh tử. Có lẽ không ít người vẫn còn nghi ngờ, việc vô tình làm chết chúng sanh, có tội hay không tội?

Thưa bạn, thật ra không nhất định nói rằng có tội, hay không tội, khi con vật bị mình vô tình giết chết. Chẳng hạn tôi ném một hòn đá khi đang dọn đất làm việc, không ngờ ném trúng vào đầu con bò, trúng ngay yếu huyệt trên đầu, con bò chết liền tức khắc. Hành động làm chết con bò như vậy có phải tôi cố ý gây ra? Tất nhiên là không. Lại vài thí dụ nữa; vì tôi là nhà nông phải sống bằng nghề trồng trọt, cuốc đất, cấy cầy nên khi dọn đất dọn cỏ, chẳng để ý việc làm kinh động giết đi một số côn trùng dưới đất. Một số chết vì lưỡi cuốc của tôi, một số may mắn thoát chết nhưng lại bị phơi mình trên đất, làm mồi cho chim chóc mổ ăn. Việc nữa, bạn tôi không phải nghề nông, anh ấy làm việc trong hãng xưởng chuyên chế các chất hóa học, sản xuất hàng loạt loại thuốc diệt sâu bọ, côn trùng, chuột gián... Anh đâu bao giờ quan tâm việc anh làm là sát sanh hại vật. Tôi không biết anh có phải là Phật tử hay không, nhưng thế nào cũng có những người đang học Phật vô tình làm việc tương tự như anh.

Bạn thấy đó, cái vô tình của tôi giết con bò trên còn có thể hợp lý, nhưng không phải cho là chuyện tuyệt nhiên không tội. Và nếu quả thật không tội, thì ít ra từ đây về sau, tôi phải ý thức việc ném đá như vậy là không đúng; bởi vì lỡ hòn đá không làm chết con bò mà là con người, thì sao? Chắc bạn lại cũng nói không tội!

Thưa bạn, theo tôi nghĩ không thể nào không tội, chỉ là hoặc nhẹ hoặc nặng thôi; hay có thể đúng hơn tội đó là tội vô tình vậy. Và tội đó làm ta phải nhớ không thể không ý thức khi làm một việc gì, có thể làm chấn động thế giới chung quanh.

Chúng ta cũng nên nghĩ thêm, nếu việc thí dụ trên hoàn toàn cho vô tội vì vô tình, vậy thì ai cũng tự cho mình vô tình sau khi đã lỡ gây đủ thứ chuyện, và như thế thật tội nghiệp cho con người và vạn vật chung quanh ta.

Anh nông dân khi hành động tổn thương giết hại loài côn trùng, bấy giờ anh chưa ý thức, nhưng khi anh hiểu thế nào là sự khổ đau của loài vật nhỏ nhít dưới chân, thì chắc chắn anh phải xúc động buồn phiền vì nghề nghiệp của anh. Sự xúc động đó cũng đã nói lên phản ứng của việc anh làm rồi.

Vậy thì vấn đề nguyên vì hoàn cảnh sống ta mới làm, chứ không phải tự ý vô cớ hành động. Nhưng bạn và tôi lại nghĩ, tội nghiệp cho anh nông dân chọn làm nghề nông phải chịu tội vô tình hay cố ý, trong khi những người thọ hưởng thực phẩm lúa gạo do anh làm ra lại chẳng bị tội!

Thật ra quả báo gây tội không đơn giản chỉ nói bấy nhiêu mà được, và đương nhiên hiểu giản lược tội chỉ tác thành khi hành động có tác ý. Nhưng sự tác ý lại là một điều phức tạp, liên hệ xoay vần theo dòng nhân quả kéo dài đăng đẳng trong cuộc luân hồi vay trả bất tận của chúng sanh; cho nên nếu nhận định theo cái nhìn của người chưa chứng đạo đắc quả, thì sự việc khó thể nào hiểu rõ được.

Vừa rồi chúng ta có nói căn cứ vào mười điều thiện, thì khó có ai mà không gây tội trong đời sống này; vậy rõ ràng người ngồi hưởng thụ những đồ dùng phẩm vật do người khác tạo ra chắc chắn phải đồng phận gây quả tạo nhân. Điều này thuận với luật nhân quả tương quan, có cái này mới có cái kia và ngược lại; như thế rõ ràng là nhân quả, vì bạn dùng tôi mới làm, hay vì bạn làm tôi mới dùng.

Vậy chúng ta phải ý thức từng việc làm, và việc làm phải là một sự suy xét nỗ lực tránh ác với khả năng cố gắng hết sức của mình. Và ngay điều thứ hai của Tứ Chánh Cần là phải dừng ngay điều ác đã phát sanh.

Người cư sĩ tu Phật, hay người bình thường ở thế gian vẫn có thể làm được việc này. Thứ nhất họ làm với tâm niệm vì đời sống nhu cầu của con người, để cố gắng biểu hiện qua đời sống cá nhân, như không phung phí lạm dụng trong hành động công việc của mình. Thứ hai họ cố gắng làm thiện, giúp người thương vật, tác động này sẽ bù lại những tác hại từ công việc của mình gây ra. Chỉ như thế, ngoài ra ta không còn cách nào hơn. Bởi vì, hãy lấy hình ảnh người xuất gia tu Phật, là biểu tượng một đời sống tương đối không gây tội; thế mà vẫn thấy không thể tránh được dòng liên hệ nhân quả nghiệp báo, ảnh hưởng đến môi trường chung quanh. Tỉ dụï, một vị Thầy chọn một khu rừng khai lập đạo tràng, và việc tiến hành xây cất trước nhất là phải phát cây, san đất; việc làm này đã gây ra không biết bao nhiêu tác hại cho chúng sanh cư ngụ tại vùng đất này. Thế thì nếu vị Thầy đó không tu, không chứng được ít nhất là an lạc cho mình, thì tác hại mà vị đó làm ra, phải chịu quả báo thật lớn. Và đương nhiên ngược lại nếu vị thầy đó chứng đạo, thành tựu độ sanh, giúp được nhiều cư dân tựu về tu Phật, thì oan gia oan trái của các loài sinh vật côn trùng nơi đây, chẳng những không oán hờn lại còn thừa hưởng được phước lực nghiệp lành gieo duyên với Phật, vì lời khai thị và cầu nguyện của bậc chân tu tất phải cứu độ được loài chúng sanh kia.

Thế thì kết luận rằng, tất cả mọi người khi biết được điều ác, nguyện sẽ ngăn ngừa từ đây bằng cách luôn sống ý thức, và việc ác đã lỡ sanh phải dứt trừ không cho tái phạm, như thế là thực hiện được điều chuyên cần thứ hai.

3 Chuyên cần học hỏi làm phát khởi những điều thiện chưa phát sanh

Tiếp theo hai điều trên, điều thứ ba là chuyên cần học hỏi làm phát khởi những điều thiện chưa phát sanh; điều này là phương cách ngăn ngừa dứt ác hợp lý kết quả nhất. Bởi vì bạn không thể ngăn ngừa và dứt ác, bằng cách thụ động ngồi chờ ác nghiệp hiện lên mới tìm cách đối phó. Chỉ có đối phó với điều ác, bằng cách làm ngược lại, là phải tạo thiện hành thiện, mới dứt trừ được ác.

Như chúng ta biết vài điều thiện căn bản đã nói qua; vậy ta chỉ còn cách là làm cho chúng phát khởi.

Cũng như hai điều trên, phải hành động ngay khi chúng còn trong tâm, đến khi chúng xuất hiện ta mới giải quyết được. Chỉ khác là hai điều trên phải được chuyên cần ngăn ngừa và chấm dứt; còn hai điều sau ngược lại, phải chuyên cần làm phát khởi để tiếp tục phát huy.

Nhưng nói dễ chứ thực hành thì chưa chắc. Khuynh hướng tham sống của con người do nghiệp ái sanh ra nên hay thuận theo điều ham muốn; từ ham muốn sinh ra chấp ngã, từ chấp ngã sinh ra sở hữu, tăng trưởng tánh tham. Như thế muốn nghĩ về thiện, tức đã đi ngược tánh tham chấp này. Thế thì tưởng là dễ, thật không phải dễ nếu không nói là khó.

Thường người thế gian chưa học Phật, nghĩ rằng làm phước giúp người, thương vật phóng sanh, cho đến ăn chay đi chùa lễ Phật là điều thiện. Bạn nghĩ sao?

Vâng đó là thiện. Nhưng thưa bạn, thiện dẫn sanh quả thế gian hay xuất thế gian, đó là vấn đề được quan tâm nhất ở đây.

Tuy nhiên theo lý nhân quả, một người thiện hành theo pháp thế gian vẫn gieo trồng được duyên giải thoát, nếu họ biết đầu tư vào tâm sự cầu giải thoát. Nói như vậy ta thấy ý thức được điều thiện hướng đến giải thoát là điều quan trọng, nếu không dù ta có làm thiện đến muôn tỉ kiếp vẫn còn mãi trong thế gian và những từng trời cõi dục mà thôi. Ý thức thiện hướng đến giải thoát, cũng là những hành động bình thường của những người làm thiện, duy chỉ hiểu rằng điều mình làm đây, xin được làm với tâm phương tiện tạm sống giải quyết nhu cầu thường nhựt qua ngày, chứ không cầu gì hơn, ngoài việc quyết tâm cầu mong đời sau học Phật tu Phật để được giải thoát.

Sự cầu mong không phải là một điều cầu khẩn mơ hồ, mê tín; sự cầu mong là sự luyện tâm khắc ghi ý chí không phai, cho đến sẽ thực hành trong tương lai. Tất nhiên sự cầu mong chỉ có hiệu lực tác dụng khi việc thiện luôn được thực hành trong đời sống.

So với điều thiện bình thường của thế gian, chẳng thể ra ngoài tính thiện cảm xúc vì thương người, vì dư tiền lắm của, hoặc cũng có thể vì muốn được tiếng tăm. Thiện như thế hầu như mọi người đều làm được, nhưng thiện vì mong được giải thoát luân hồi, điều này rất lạ với thế gian. Lạ nhưng cũng chẳng lạ, chỉ vì họ chưa học Phật mà thôi. Chưa học Phật nên còn bản ngã, còn ngã sinh ra chấp pháp chấp ngã, do đó tất cả việc làm thường vì bản ngã sinh ra. Người làm thiện hướng về giải thoát cũng vẫn từ bản ngã, nhưng lại tâm nguyện chuyển hành động thiện đến giải thoát vô ngã. Sự có thể chuyển được, tất phải hiểu rằng các pháp giả tạm vô thường; và như thế chẳng khác người thế gian làm thiện, nhưng kết quả lại là giải thoát tương lai.

Điều thứ ba nơi đây, bạn và tôi phải biết, chuyên cần học hỏi phát khởi điều thiện, tức là luôn ý thức theo dõi tâm thiện của mình.

Bây giờ thử tìm hiểu việc làm phải thế nào, để hành động thiện được tiếp diễn phát triển mãi.

4 Chuyên cần học hỏi tiếp tục phát khởi những điều thiện đã phát sanh

Trở lại căn cứ vào mười điều thiện làm tiêu chuẩn; chúng ta thấy ba nghiệp thân khẩu ý tạo ra mười điều thiện như: thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng có bốn: không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói độc ác. Ý có ba: không tham, không sân, không si.

Mười điều thiện này đối với thế gian, đây là một việc không phải dễ làm, nhưng người ta vẫn đã và đang làm để mong được tiếng thơm, tiếng tốt, có phải không? Chẳng hạn ai lại muốn nói dối, nói thêu dệt, nói hai chiều, nói độc ác; phạm phải điều này, người ta sẽ mất hạnh phúc ngay trong gia đình, lại ảnh hưởng đến cả sinh hoạt đời sống; do đó người ta phải cố làm sao cho mọi người xem trọng tư cách cá nhân mình, bằng cách sửa đổi ngôn từ ý ngữ.

Tuy nhiên dù người thế gian có cố gắng cũng khó làm trọn, vì đa số thường phạm nghiệp sát sanh, và nhất là tham, sân, si. Dù vậy nếu ta thông cảm chỉ nhìn nhận mức độ tạo nghiệp cố ý ác tâm mới là phạm tội, thì người ta chỉ còn kẹt lại si mê mà thôi, tức là phạm về phần Ý.

Tôi xin được chủ quan thưa như vầy; tham lớn tất nhiên chẳng ai dám dù rất muốn, nhưng tham vừa phải thì hầu như ai cũng tham. Hơn nữa dù sao một vài khía cạnh góc độ, tham cũng tạo ra động lực cạnh tranh sáng tạo đưa xã hội văn minh tiến bộ hơn. Như vậy nếu quả thật tham ít, biết chừng mực, ta có thể cho là chẳng có sao. Sân cũng thế, chẳng ai muốn phạm bao giờ, và hầu như ai cũng sợ nó, thường hay hối tiếc việc mình đã sân, cho nên sân cũng là việc ngoài ý muốn, hay vô tình, có thể cảm thông được phần nào, chỉ còn mức độ nhẹ thôi. Còn nghiệp sát thì họ chỉ phạm vào tội gián tiếp, nên cũng cho còn có cơ hội hóa giải từ từ.

Thế thì chỉ còn si. Và si cái gì vậy?

Trước hết bạn và tôi hiểu rằng si là đi ngược lại sự sáng suốt định tĩnh về một vấn đề gì. Nhưng ở đây chúng ta đang nói về pháp giải thoát, tất nhiên si phải là việc không nhận ra Phật pháp; mà Phật pháp là chân lý sống, là điều đưa con người trở về lại tánh thể an tịnh hạnh phúc bình an nhất. Vấn đề hạnh phúc này lại chẳng lạ gì cái mà con người đang lặn hụp đi tìm ở thế giới bên ngoài, tuy nhiên bởi vì nó khó thể tìm thấy ở thế giới động, nên người ta không dễ nhìn ra thôi. Chỉ khi con người rơi vào đau khổ tinh thần, họ mới chịu quay về tìm kiếm, nhưng vì chưa quen, không quen quán sát tự tâm, thành ra không thể đạt được sự tìm kiếm định tâm này.

Đôi khi người ta tưởng, sáng suốt hiểu biết về sinh hoạt thế gian, không thể nào gọi là si mê được. Nhưng người ta lại quên, sinh hoạt thế gian cứu cánh cũng để phục vụ nhu cầu thỏa mãn hạnh phúc ấm no cho con người. Nhưng lại thưa rằng thế gian đã chẳng có hạnh phúc lâu dài qua các thứ mà con người đang ra công tạo dựng, cũng bởi vì nhu cầu của lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Do đó trí thức sáng suốt của thế gian không diệt được tham, không ngưng được chiến tranh tàn phá từ xưa đến nay và sẽ còn mãi mãi. Vậy trí thức sáng suốt đó là thế nào? Và nhu cầu hạnh phúc đó ra sao? Nếu nhu cầu hạnh phúc đó chỉ đơn thuần là những sản phẩm, thì người nhiều sản phẩm nhất chắc phải hạnh phúc lắm! Nhưng không, người càng nhiều sản phẩm, nếu không nói người đó có thể càng khổ! Chỉ có người không si mê, tức sống theo cái nhìn của đạo giải thoát, rằng các pháp do duyên sinh, cũng do duyên diệt người này mới thật sự hạnh phúc. Đó là giáo lý giải thoát dạy như vậy, nếu không hiểu, si mê vẫn là si mê dù người ta có trí thức cao đến thế nào; và thậm chí ngay cả người đang gọi mình là tu Phật vẫn còn si mê nếu chấp chặt bản ngã và pháp đang tu!

Như thế si mê là nhìn sai hiện tượng thế giới chung quanh để đưa đến sự bám víu đau khổ. Nói rõ hơn si mê chính yếu là si về ngã và pháp. Đó là si mê chấp chặt thân thể của mình cho là thật, và khiến cho các thứ vật chất phải dính mắc theo.

Trở lại việc thế gian dù tránh được phần nào những điều bất thiện, nhưng vẫn còn kẹt si mê vừa kể! Thế thì cũng là hoài công; bởi vì dù tránh được việc ác qua thân, khẩu, và phần nào của ý tham, sân, nhưng nghiệp si chưa dứt trừ, để nhận rõ các pháp là giả, là huyễn mộng, con người chỉ là dòng chảy bất tận của tâm thức, thì vẫn còn mãi trong luân hồi đau khổ mà thôi. Rồi sợ một kiếp nào đó không còn nhận định ra được những điều bất thiện, phải lâm vào nghiệp ác, bấy giờ muôn kiếp khó mà quay lại như thuở ban đầu đã hiểu. Vậy điều cuối cùng của Bốn Pháp Chánh Cần ở đây, nhắc ta rằng sau khi đã hiểu được thế nào là ác, là thiện, tất phải gia công luôn luôn thực hành quán sát cho đến nhắm mắt mới thôi; như thế người hành được vậy đã chẳng không còn si mê ngã pháp, mà còn đạt được thánh trí chứng đạo giải thoát theo con đường Phật dạy.