Home > Khai Thị Phật Học > Song-Chet-Theo-The-Gian-Va-Xuat-The-Gian
Sống Chết Theo Thế Gian Và Xuất Thế Gian
Thượng Tọa Thích Phổ Huân


Thưa bạn, lại một chuyện tế nhị nữa rồi!

Nhưng làm sao hơn, bởi đó là sự thật, sự thật con người sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi sanh lại. Sự thật này bạn và tôi dư biết. Dư biết nhưng chưa chắc đã biết! Có khi biết đã muộn, hay chỉ biết có người chết, chứ mình thì chưa chết, nên chưa biết vậy!

Trong đạo Phật, Phật giáo Tây Tạng rất thực tế vấn đề chết sống này; cho nên hầu như sách luận viết về Phật pháp các vị Đại sư nào cũng đều đề cập đến việc chết. Đề cập nhiều đến nổi Chết gần như là một pháp môn; pháp môn chuẩn bị cho con đường tái sanh, hay cho con đường vãng sanh vào đất Thánh.

Phật giáo Trung Hoa, Việt Nam, Tích Lan, Thái Lan, Nhật Bổn cũng đề cập nhưng không nhiều, nếu có chỉ nhắc đến bằng cách hồi hướng nguyện đời sau, hay hãy thực tập đời này để có đời sau tốt hơn. Đó là cách tế nhị nói về cái chết, hay nói đúng hơn tế nhị này là phương tiện cho người sơ cơ vào đạo.

Nhưng thưa bạn, thế nào đi nữa việc tế nhị này cũng phải bàn đến, và thay vì nói sanh tử, ta lại nói sống chết cũng vậy thôi.

Bây giờ ta hãy bàn về quan niệm sống chết của thế gian trước, rồi sau sẽ đến xuất thế gian, tức là quan niệm theo giáo lý nhà Phật.

Thế gian rất ngại và kiêng kỵ nhắc đến vấn đề sống chết, bởi nó đau thương quá; nó làm con người phải ngừng lại cuộc vui đang hưởng; nó tang tóc chia ly và tàn nhẫn nữa; nhất là khi người ra đi còn quá trẻ, còn đầy nhiệt huyết. Cho nên không ai thích nhắc đến nó, kể cả việc nó sắp đến trên thân thể một người bệnh đang chờ giờ ra đi. Sự thật này đâu phải bây giờ, mà từ xưa đến nay, từ khi con người biết ý thức xa nhau là đau khổ. Rồi vì quá sợ, người ta còn nghĩ ra đặt cho nó nhiều tên, để bớt gọi thẳng từ ngữ “chết” được chừng nào tốt chừng ấy; như là qua đời, khuất bóng, quá vãng, ra đi, nhắm mắt, lìa trần v.v... Lại theo niềm tin phong tục tập quán vài nơi, người ta còn sợ người chết trở về kéo lôi người sống đi theo nữa. Như thế bất kể thế nào, không ai lại không sợ chết, vì đó là một sự đau đớn một sự chia ly, không bao giờ gặp lại. Cho nên có người dù thật già, dư biết mình sắp chết cũng không muốn tin là mình sắp chết, chỉ muốn chết khi không còn cách nào cứu chữa, hay phải thấy hài lòng một cái gì để lại, và giải quyết được cái gì. Nhưng thưa bạn làm gì được hài lòng, làm gì giải quyết hết được những gì mình muốn; vì đó là tánh tham sống hưởng lạc chẳng bao giờ thấy đủ của con người.

Tuy thế vẫn có trường hợp người ta thật sự muốn chết, muốn một cách tha thiết, đến nổi van xin; đó là lúc bệnh nặng hành hạ thân xác, đau đớn không còn chịu đựng được. Nhưng nếu cơn bệnh thuyên giảm có phần hồi phục, thì lập tức ý nghĩ muốn sống bắt đầu trở lại và không còn muốn chết nữa.

Xét cho cùng trong mọi tình huống, chia ly chết chóc là một biến cố lớn nhất trong đời sống thế gian; bởi vì thế gian là đối tượng của ý thức sống từ khi một chúng sanh ra đời, và ý thức rằng mình đang hiện hữu. Nên khi chết đi là biệt ly thế gian, mất đi tất cả, như thế ai không sợ. Thường chúng ta tưởng người già hiếm khi sợ chết, điều này chưa chắc, nếu người già này con cái đầy đủ, của cải thật nhiều; như vậy sự chết đi có nghĩa là vĩnh viễn không còn sum vầy hưởng thụ được nữa. Do nghĩ như thế dù già thế nào họ vẫn ham sống. Việc này cũng chẳng lạ, vì già trẻ đều tham muốn, sân, si như nhau, có khác chăng chỉ là cường độ nặng nhẹ thôi.

Vậy thì bạn và tôi thấy rằng, thế gian quan niệm về chết là một điều không nên bàn luận, vì không thể không đau buồn, vì tất cả đã mất đi trong thương tiếc, trong vô vọng đợi chờ. Nếu thế gian có bàn luận chăng, đó chỉ vì tình cảnh liên hệ đến cái chết hay đến người thân của kẻ ra đi, ngoài ra không nên nhắc đến tất cả chỉ làm buồn thêm.

Đến đây thử nói về quan niệm chết của người học Phật theo giáo lý giải thoát; và hy vọng rằng khi tìm hiểu sống chết theo nhà Phật, bạn và tôi sẽ thấy rõ vấn đề của thế gian hơn.

Giáo lý giải thoát từ buổi ban đầu trước khi Bồ Tát thành đạo, đã hiện rõ cảnh sanh, già, bệnh, chết là động cơ xuất thế cho Bồ Tát Tất Đạt Đa, điều này chẳng phải gì lạ; cho nên sau khi thành đạo chánh giác đề tài sinh tử luôn được Thế Tôn nhắc nhở cảnh tỉnh chúng sanh.

Học đạo giải thoát mà quên sinh tử, xem như quên đi tất cả giáo lý của Như Lai, vì sinh tử có nghĩa là vô thường, cho nên hiểu vô thường là hiểu sinh tử, rồi hiểu luôn giáo lý Như Lai chỉ là phương tiện, chẳng khác vô thường sinh diệt. Bởi vì chấp vào bất cứ điều gì, điều đó sẽ không còn là chân lý nữa. Dù rằng chân lý là chân lý không sinh không diệt, nhưng hiểu sai sẽ thành chấp chân lý. Ngược lại sinh tử là điều không quên, để nhắc nhở rằng tất cả sự vật thế gian, và cả ý niệm sinh khởi trong tâm đều là sinh tử. Bao giờ đạt được tự tại vấn đề không tham, sân, si, đạt được Giới, Định, Huệ Ba La Mật, chừng ấy mới vượt lên sinh tử, vượt lên tất cả cái vô thường của thế gian; và chẳng còn dính mắc bất cứ điều chi kể cả Niết Bàn.

Sống chết được nhìn theo giáo lý giải thoát, là một vòng luân hồi, một định lý vô thường theo hành nghiệp thay đổi chẳng ngừng của một chúng sanh chưa chứng đạo. Người chết nơi đây sẽ sanh về nơi kia, hay trở lại đây, điều đó chẳng khác gì nước bốc hơi rồi trở lại, lại tiếp tục bốc hơi, hoặc vượt xa hơn một tí. Nhưng dù trở lại có xa gần và biến dạng trong đục thế nào, nước vẫn mang tánh ướt.

Chúng sanh chết sống đủ mọi hình thức, chết già, chết trẻ, chết vui, chết buồn, chết không tiên liệu trước..., cũng chỉ là tiếp tục thay đổi theo hành nghiệp nhân quả thọ dụng mà thôi. Có điều đã chết bao nhiêu lần, quả thật không ai biết được, kể cả chư Bồ Tát lớn cũng không biết. Phải nói là thật nhiều, nhiều đến nổi Phật dạy, giả sử trong cuộc luân hồi, xương của một chúng sanh còn giữ nguyên lại từ vô thỉ kiếp đến nay, thì nó sẽ chất đống thành ngọn núi lớn. Và chắc rằng ngọn núi đó cứ mãi lớn ra nếu chưa biết đạo giải thoát.

Đạo giải thoát còn dạy cho ta biết, đâu phải chỉ cái chết của con người mới là quan trọng; đã là chết thì cái chết của bất cứ loài chúng sanh nào cũng đều quan trọng và đau thương. Có một loài chim hạc lớn, thường đi cặp với nhau, hễ một con bị nạn hay bệnh chết đi, thì chẳng bao lâu con kia cũng chết theo. Việc này cho thấy niềm đau sanh ly tử biệt của con vật đâu thua con người. Nhưng con người cứ lại nghĩ chỉ có mình là loài thông minh nhất mới cảm được niềm đau tử biệt. Trí thông minh của con người đành rằng quá siêu việt so với tất cả loài vật, nhưng nói về đau thương vui sướng, thiết nghĩ cảm thọ của tất cả phải là như nhau. Nếu ta cảm thấy khoái lạc với cảm thọ được an ủi vỗ về, được cảm giác ấm êm, thì con vật nó cũng y như ta vậy, và nếu ta sợ hãi mất mạng, con vật cũng sợ hãi không thua gì ta.

Giáo lý giải thoát nhìn rõ vấn đề này với tất cả chúng sanh, nên nói ngay đến vấn đề tham ái; trong tham ái gồm cả yêu thương và hưởng thụ. Hưởng thụ tình thương và hưởng thụ qua cảm giác, giác quan tiếp xúc từ mọi thứ. Sự hưởng thụ cảm nhận quay trở lại chính con người, là gìn giữ thân thể giác quan của mình, cho nên mình thương mình hơn hết. Thế thì mất cái hưởng thụ, là mất con người mình, điều này quả là khủng khiếp chứ còn gì? Cho nên càng tham, càng xác lập sự hưởng thụ trên thân thể và vật cảnh một cách kiên cố; từ đó ý nghĩ chết, là sự cướp đi tàn bạo thân thể vật chất của mình. Như thế vòng sinh tử bắt đầu di chuyển theo ý thức, bám víu, lo sợ mất người mất của khởi lên.

Nhưng chớ hiểu lầm, giáo pháp giải thoát là bi quan, cứ nghĩ về chết không màng việc sống. Chẳng phải vậy đâu! Bạn và tôi không thấy sao, đức Phật đâu có chết, đâu có vào Niết Bàn, Ngài vẫn còn mà; hiện Ngài đang có mặt gần hơn nửa quả địa cầu. Đó là ảnh tượng của Ngài được mọi người sáng tạo để chiêm ngưỡng. Có lẽ tượng ảnh kia còn kéo dài đến cả mấy chục ngàn năm nữa không chừng. Vì người ta kính mộ mong muốn cho nhiều thế hệ sau biết đến, để sống được như Ngài chứ không chết sớm như chúng ta, chỉ cao lắm là trăm tuổi, rồi không còn một ai nhắc đến. Cho nên người ta đã tạo tượng Ngài sừng sững lộ thiên hiện lên từ vách núi cao, chứ không phải chỉ là tác phẩm nhỏ nhoi tầm thường.

Quả thật người xưa đã diễn tả được điều sống chết thật cụ thể, qua cái nhìn theo giáo lý giải thoát của Như Lai, nghĩa là phải sống như Ngài và chết như Ngài. Sống tự tại vượt lên, chết tự tại vượt lên hơn nữa. Nhưng điều đó chẳng phải là của Ngài, mà nó là chân lý sống chết. Nhưng nói sống chết cũng là phương tiện theo thế gian, chứ đối với Như Lai, đối với bậc toàn giác đâu phải vậy!

Như Lai có nghĩa đến đi tự tại không lưu dấu, không vướng bận, và đúng nhất là không thể nghĩ bàn. Phật xuất hiện vì nơi thế giới Ta Bà, nơi hành tinh xanh này, nơi thái dương hệ đây không có giáo lý giải thoát, không ai có thể biết được chân lý cuộc đời, chân lý vô thường và tuyệt đối thanh tịnh bất sinh bất diệt. Ngài xuất hiện để chỉ bày cho chúng sanh vậy thôi, ngoài ra chẳng còn gì khác; và đương nhiên chân lý mà Như Lai chỉ bày lại là chân lý mà chúng sanh đang sống cũng như đang chết.

Thế nói sống chết là nói chân lý khổ, chân lý thế gian và cũng xuất thế gian, chứ nào đâu là bi quan, nào đâu là tiêu cực. Chỉ có không dám nhìn nhận sự thật mới là tiêu cực, điều đó được che đậy bằng cách tích cực hưởng thụ đời sống quên đi chân lý sống chết này. Nhưng thế gian cũng có nhiều người lạc quan vượt qua sống chết, đó là những chiến sĩ anh hùng hy sinh vì chánh nghĩa, vị quốc vong thân; những người như vậy đã xem sống chết là lẽ thường, nên chọn cho mình hành động chết sống đúng với lương tâm, với thiện chân nhân loại.

Thế gian pháp còn vậy, chẳng lạ gì xuất thế gian; cho nên bạn và tôi hiểu vì sao chư vị Bồ Tát lớn vào đời hành đạo không bị trở ngại; tất cả là vì chư vị rõ ràng vấn đề sống chết đến đi, chỉ là xoay vòng đổi hình thay lớp. Chỉ buồn cho ta, chưa thể nhận rõ vấn đề, nên nghiệp tánh tham ái vẫn còn, khó thể dứt khoát, để ảnh hưởng việc tu chứa đầy phiền não.

Dù vậy thời nay vẫn còn duyên lớn, được biết một số vị Lạt Ma Tây Tạng, mang lớp hình phàm nhưng bên trong là bậc Thánh tái sinh hoằng đạo. Các Ngài khi lâm bệnh chết đi, tuyệt đối phải tự tại, nếu không chẳng thể để lại điềm báo cho đệ tử biết sẽ tái sinh trở lại; và sự lâm bệnh này cũng là phương tiện pháp duyên độ người. Điều này không phải thuận lời, thuận ý mà đoán nói như vậy, bởi vì không phải cảnh tỉnh người, không phải lấy đó nhắc nhở, huấn thị bằng thân vô thường lão bệnh, các Ngài dư sức tọa thiền bỏ xác chứ nào phải để đệ tử chạy lo chữa bệnh. Việc nhắc nhỡ cảnh tỉnh của các Ngài, thứ nhất là thân thể vô thường, có thân tức có khổ; thứ hai ngay như người đang tu pháp giải thoát cũng không khỏi hệ quả này, cho nên phải dụng công tinh tấn tu đạo, trước khi rủ bỏ xác thân. Biết được thế gian còn có chư vị Bồ Tát âm thầm thị hiện như vậy, ta mới thấy rõ sinh tử là một điều tối yếu, và là một pháp tu đánh động tâm thức hơn bất cứ pháp tu nào.

Thật thế thử xem có pháp tu nào thúc giục con người, khiến phải lập tức suy nghĩ bằng pháp tu niệm chết! Đã biết bao lần ta tinh tấn, suy nghĩ đến việc tu vì cảm nhận trong người nhuốm bịnh, sợ hãi đến chết. Giá như ngày nào ta cũng nghĩ về chết, sợ hãi chết đã kề bên, thì chắc chắn việc công phu tu niệm thật dễ dàng có kết quả. Cũng cần nói sợ hãi ở đây, là sợ chưa đủ công phu hành trang diệu lực để đổi lớp hình khác, chứ ta đã biết bao lần chết đi nào phải mới lần này.

Vâng, chết thật đúng là pháp tu, cũng có thể nói như là bậc Thầy cảnh tỉnh ta tu; bậc Thầy này chỉ sau đức Phật, nói sau đức Phật, vì Phật là người dạy ta pháp tu này.

Nhưng rồi thế nào cũng có người đặt câu hỏi, như ai cũng chuẩn bị việc chết, chuẩn bị việc tu hành, để gấp rút được sanh về nơi cảnh Thánh, như vậy đời sống văn minh nhân loại đành phải lùi lại lạc hậu như xưa sao?

Xin thưa, tất cả không như ý ta đâu. Trước nhất không phải là việc dễ tin, sống chết là một nguyên lý luân hồi đau khổ từ vô thỉ kiếp, làm cho người sợ hãi khiến phải tu hành dứt vòng sinh tử. Thứ hai nếu quả thật tất cả đều tin, đều cùng nhau sợ hãi sinh tử, nên tinh tấn nỗ lực tu hành, thì thật là đại duyên cho quả địa cầu chúng ta, nó sẽ trở thành cõi Thánh. Bởi đã không còn ai tham, sân, si, không còn sống theo ý thức phân biệt, vọng tưởng vốn là nguyên nhân của mầm móng hủy diệt hành tinh xanh này. Đổi lại bây giờ ý thức trở thành trí vô phân biệt, trí siêu thoát, và như thế thuận theo tâm nào cảnh đó, tức y báo chánh báo sẽ thay đổi toàn cảnh quả đất này. Thế thì làm sao lạc hậu được. Lạc hậu là dốt, mù chữ, quê mùa, chẳng có văn minh. Nhưng văn minh là thế nào? Có phải văn minh là thực hiện được cái đẹp nhất cho nhân loại; và còn cái đẹp nào hơn khi tất cả anh em trên thế giới cùng nhau sống yêu thương hòa bình, để triệt để bảo vệ môi trường sinh thái cho trái đất.

Nói một cách cụ thể khoa học, thì một hành tinh một tinh cầu nào nếu toàn những con người thánh thiện sống trên đó, hành tinh này chỉ có đẹp ra, và dù theo luật sinh diệt Thành, Trụ, Hoại, Không, hành tinh đó chắc chắn phải trải qua tuổi thọ thật lâu, chẳng hạn đến một vạn tỉ năm (mười ngàn tỉ). Nhưng nếu hành tinh nào toàn chứa những con người luôn tranh đấu, luôn bạo động, cạnh tranh nhau mọi phương diện triệt để khai thác tài nguyên hưởng thụ, như vậy chắc chắn rằng, hành tinh này sẽ có một tuổi thọ thật ngắn, có thể chỉ thọ vài triệu năm thôi.

Vậy ta chẳng nghi ngờ gì việc sinh tử là việc cấp bách cho đời sống tương lai. Thật ra chuẩn bị trong việc ý thức sinh tử chết sống cho tương lai cũng chính là cho hiện tại. Vì người muốn tương lai tốt tất nhiên phải hành động ngay hiện tại. Tỉ như để tránh hay giảm được phần nào việc thiên tai đột ngột xảy ra, người ta đã nghiên cứu, sáng chế phát minh phương tiện ra đa nhạy bén tiếp sóng, có thể báo trước khi biến động xảy đến. Cũng vậy ý thức việc chết sống, người học Phật phải chuẩn bị cho mình bằng nhiều phương tiện pháp tu, mà pháp tu cụ thể hiệu quả nhất là luôn nghĩ đến sự chết vậy.

Tưởng có thể ngưng đề tài sống chết tại đây, bạn và tôi thử tìm hiểu xa hơn ý nghĩa cảnh giới bất từ nghì, mà người học Phật thường nghe qua với tên gọi là Niết Bàn.