Tuy là Phật giáo đồ nhưng nếu cho chọn lựa giữa được đạo hay vật chất thế gian hẳn là tuyệt đại đa số không chút lưỡng lự bỏ đạo chọn vật chất, vì vậy chỉ dăm người hy hữu đạt đạo trong biển người quy y tam bảo. Một tôi không thể thờ hai vua, không ai vừa thờ đạo vô dục của đức Phật, vừa thờ vật chất dục lạc của Ma được, đã thờ dục lạc tất sẽ bỏ đạo, nếu thờ đạo sẽ từ bỏ vật chất. Kẻ thờ dục lạc không ngại ngùng thường đối trước tôn tượng đức Phật cầu xin mọi thứ dục lạc. Người thờ đạo từ bỏ ngũ dục được thể hiện qua việc bố thí mọi thứ thế gian không tiếc nuối, thế nên người thờ đạo vô dục giải thoát thường hành bố thí. Bố thí là pháp hành đầu tiên trong sáu ba la mật mà hành giả tu Bồ tát đạo cần phải tu tập thông qua sự thực hành. Bố thí được chia làm ba nhóm gồm pháp, tài và vô úy.
Bố thí
Bố thí pháp thường được hiểu là dạy đạo, bố thí tài là ban bố vật chất, bố thí vô úy là không dạy đạo cũng chẳng cho vật chất mà mang đến sự an lành, cụ thể là phóng sinh. Tóm lại giảng pháp dạy đạo là bố thí pháp, ban bố tiền tài thực phẩm là bố thí tài, cứu khổ nạn đem lại sự bình an là bố thí vô úy.
Trong ba bố thí này, bố thí pháp được cho là công đức hơn cả, vì sao? Đơn giản vì pháp là trí huệ từ bi, nếu không hiểu pháp tất thiếu trí huệ, do vậy không có tâm từ bi nên đưa đến mọi suy nghĩ hành động đều gieo rắc ác nhân thọ lãnh ác quả, để rồi chính họ phải cần được tâm bi trí cứu giúp bằng ba thứ bố thí. Người hiểu pháp do có bi trí nên thường hành nhân từ bi cứu giúp thông qua ba thứ bố thí, nên thành tựu quả công đức giải thoát khỏi mọi đau khổ cần được cứu giúp. Vì vậy dạy đạo là giáo hóa tha nhân phát tâm bi trí khiến họ thành tựu công đức giải thoát, sự giáo hóa này mới thực sự là chân chính bố thí pháp, không nên ngộ nhận dạy họ tu tập cầu phúc báo cho bản thân như cúng dường có công đức hơn cho người bần cùng là bố thí pháp.
Đã hiểu bố thí pháp có công đức giải thoát mà hai thứ bố thí kia không có được, tất nhiên khi bố thí phải hồi hướng đến pháp có nghĩa bất luận hành bố thí nào cũng cần cầu cho pháp bố thí được kiên cố bất thối và luôn tăng trưởng, hồi hướng như thế cả ba bố thí đều trở thành pháp bố thí tức quả bi trí công đức giải thoát, do thành tựu công đức giải thoát nên được gọi là bố thí ba la mật đa.
Như vậy không cầu phúc báo vật chất dục lạc khi hành bố thí thì đó là bố thí ba la mật đa. Hầu hết đồ chúng hành bố thí đều hồi hướng cho bản thân được thiện quả thế gian như vật chất, sức khỏe, danh thanh… Thậm chí ngay đến dạy đạo giảng pháp cũng chỉ bày mọi thứ tu phúc thế gian, nghiêm khắc mà nói thì đây không thật là bố thí pháp mà thuộc về bố thí tài qua giảng dạy, trái lại nếu dạy đạo bố thí ba la mật và hành bố thí theo tinh thần hồi hướng đến quả ba la mật đa thì mọi thứ bố thí đều là bố thí pháp và đạt được công đức giải thoát, thậm chí công đức này cũng tác động đến người nhận thí, tạo thành nhân duyên đắc độ cho ngay người được thí. Tựu chung pháp bố thí này tự độ và độ tha nên là ba la mật đa.
Những người thờ đạo vô dục cầu giải thoát thường ưa hành bố thí mà không nhằm vào mục đích cầu dục, do ưa thích bố thí nên luôn hồi hướng mọi bố thí hành đến việc tăng trưởng pháp bố thí. Tục nhân tôn thờ dục lạc nên hồi hướng mọi bố thí hành đến việc tăng trưởng ngũ dục, điều này là bất tịnh thí ngược hẳn với bố thí ba la mật đa.
Bố thí là trung tâm tu hành của đại thừa Bồ tát, nhưng nhiều người xuất gia học đạo thiếu hiểu biết về sáu ba la mật nên cho rằng bố thí cúng dường là việc làm và bổn phận của người tại gia, không phải của người xuất gia, đồng thời dạy bảo hàng tại gia thay vì bố thí thì hãy cúng dường vì cúng dường có công đức hơn bố thí rất nhiều, hơn nữa bố thí là kết duyên với bần cùng ngu si, còn cúng dường được duyên với chư Phật chư tăng, khiến đồ chúng vì tham lợi lớn nên không hành bố thí chỉ lo cúng dường. Đồ chúng ngây ngô không hiểu vâng lời Phật dạy hành bố thí là kết pháp duyên với chư Phật, và đó là một trong bảy pháp cúng dường có công đức tối thượng, trái lại nếu vì tâm trục lợi mà cúng dường là tăng thượng duyên với tham dục, đoạn mất nhân duyên với chư Phật và đạo vô dục của ngài. Vì những lý do không y pháp, y trí và nghĩa này nên đại bộ phận chúng tại gia và xuất gia đều không ưa thích hành pháp bố thí, do vậy trực tiếp phế bỏ toàn bộ sáu ba la mật và gián tiếp thủ tiêu đại thừa pháp, làm trợ thủ đắc lực cho Ma hủy diệt chính pháp.
Giải thoát.
Như thế với tâm bi trí dùng bố thí tăng trưởng pháp thì bất luận bố thí thứ gì cho ai, nhỏ như giọt nước lớn như đại dương đều là pháp công đức giải thoát, đây là pháp tu của Bồ tát. Nếu tâm si mê dùng bố thí tăng trưởng dục lạc vật chất thế gian thì mọi bố thí đều không thành công đức giải thoát, nên không gọi đó là bố thí ba la mật đa, đây là pháp tu chướng ngại không giải thoát của tục nhân, chỉ được phúc báo vô thường của thế gian.
Kinh Kim Cương dạy khi bố thí không trụ tâm vào sắc thanh hương vị xúc pháp thì công đức vô cùng. Pháp trong sáu trần chỉ cho pháp thế gian như phúc báo lợi lộc. Không trụ tâm có nghĩa khi bố thí không dựa vào duyên để sinh, vì nếu dựa duyên sinh, khi duyên tàn thì bố thí diệt, nếu tức tâm tức bố thí thì bố thí không cần đến duyên, nên không hề sinh diệt, nhân bố thí quả bố thí, nhân tức quả, quả tức nhân, nhân quả bất nhị, nên vô sinh vô diệt, bố thí như vậy công đức không cùng tận gọi là ba la mật đa.
Do vậy hành giả cầu quả bồ đề tu Bồ tát đạo phải hành sáu ba la mật và độ sinh bằng bốn nhiếp pháp, cả hai pháp phương tiện tự giác và giác tha đều được dẫn đầu bằng bố thí, điều này nói lên tầm quan trọng của bố thí trong việc tự độ và độ tha.
Xuất gia theo tứ y.
Xuất gia được giải thích rõ qua các bài "Chuyện xuất gia" hay "Hóa pháp và Thật pháp". Trong bài này chúng ta sẽ dùng tứ y để nhận định thế nào là chân thật xuất gia, có chân thật xuất gia mới là mạng mạch của chư Phật.
Thứ nhất y pháp bất y nhân.
Để xét đoán đó là một tăng sĩ, nếu y nhân có nghĩa dựa vào hình tướng để nhận ra, nếu y pháp tất y vào pháp hành độ sinh hơn là hình tướng, bởi chiếc áo không làm nên một tu sĩ.
Thứ hai y trí bất y thức.
Thức thấy biết mọi thứ qua căn trần, trí nhận ra mọi thứ không qua căn trần, đại để thức chỉ thấy biết mọi hóa pháp, trí không những thấy hóa pháp mà còn thấy cả thật pháp, thế nên thức thấy nhân không thấy pháp, trí nhận biết cả nhân lẫn pháp. Do vậy không y thức tức tránh được lỗi trông mặt mà bắt hình dong, bởi tri nhân tri diện bất tri tâm, do vậy tri diện không đủ để tri nhân, y trí tất tri diện lẫn tri tâm nên mới chân thật tri nhân. Vì vậy y trí bất y thức.
Thứ ba y nghĩa bất y cú.
Y và bất y này có nghĩa không nên y vào câu cú hay lời nói mà nên y vào nghĩa lý của nó. Ở đây y cú tương ưng với y thức và y nhân, còn y nghĩa tương ưng với y pháp và y trí. Khi nói xét đoán về thế nào là chân thật tăng tất nhiên phải xét người ấy có đúng nghĩa là một tu sĩ không, và nếu có pháp, có trí là đúng nghĩa, nếu chỉ có hình thức mà vô nghĩa thì khác gì tượng. Do vậy y nghĩa bất y cú.
Thứ tư y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.
Liễu nghĩa tức hoàn toàn thông triệt nghĩa lý không bị chướng ngại nên không có giới hạn. Áp dụng vào chủ đề của chúng ta thì hễ y vào ba y trên thì chính là y liễu nghĩa.
Xuất gia gieo duyên.
Xuất gia gieo duyên nghĩa là gì? Xuất gia có nghĩa giải thoát ra khỏi thế gian sinh diệt vô thường, do nghiệp duyên trói buộc, chúng sinh hết sinh tới tử, hết đến rồi đi nhưng kỳ thực chẳng hề đến đi sống chết mà vẫn luẩn quẩn ngay trong thế gian này, chẳng qua chỉ do thay đổi nghiệp của nhị báo mà thấy có sinh tử đến đi. Giải thoát khỏi sinh tử tất nhiên là ra khỏi thế gian, hay ngược lại ra khỏi thế gian thì giải thoát khỏi luân hồi sinh tử. Ra khỏi thế gian chính là xuất gia, thoát khỏi luân hồi là giải thoát, thế nên xuất gia và giải thoát không hai mà chính là.
Gieo duyên là tạo dựng nhân duyên cho quả nơi tương lai, muốn thành quả cần phải chăm sóc cho nhân duyên thắm màu, đồng thời loại bỏ và ngăn chặn các nghịch duyên mang tính hủy diệt, dụ như trồng rau không chỉ cần chăm bón phân nước, còn phải trừ sâu diệt cỏ, nào phải cứ gieo hạt là xong.
Quan niệm xuất gia của đồ chúng là cạo tóc khoác cà sa, nên gieo duyên xuất gia là xuống tóc đắp y, nhưng chiếc áo và tóc chẳng có liên quan gì đến xuất gia giải thoát, nếu chỉ cạo đầu khoác y thì khác gì cư sĩ trọc, sở dĩ gọi là cư sĩ vì không hề có ý tưởng xuất gia giải thoát mà thích làm tu sĩ tại gia tức làm một phàm tăng, có nghĩa một tu sĩ sống chết với thế gian, hàng tăng nhân này bị đức Phật chê trách là thân tu mà tâm chẳng tu nên xứng gọi là cư sĩ trọc. Đồ chúng hồ đồ không ngờ rằng gieo duyên xuất gia kiểu đó lại chính là gieo duyên tại gia, phi xuất gia. Hơn nữa gieo duyên để đó không buồn chăm lo vun tưới bằng sự hành đạo mà vẫn tiếp tục không ngừng hăng say vun trồng gieo vô số duyên bám trụ vào thế gian, để những thứ tục duyên này chôn vùi hủy hoại thứ duyên mong manh bị ruồng bỏ mà thiên hạ gọi là gieo duyên xuất gia, những người gieo duyên ấy ngây ngô không hiểu rằng đến như Phật tính là căn bản nhân của chúng sinh bị tham sân si chôn vùi hằng bao lâu nay và vẫn tiếp tục cho đến khi nào chúng sinh tỉnh ngộ phát tâm, khi ấy Phật tính mới hiển bày. Phật tính còn bị chôn lấp lâu đời như vậy nói gì đến cái gọi là gieo duyên xuất gia phù phiếm kia, đừng mê tín tin rằng cứ gieo duyên rồi thì sẽ sinh quả, không vun bồi duyên chẳng có nhân nào sinh quả.
Người chân thật muốn xuất gia giải thoát không cầu và mộ làm một tu sĩ tại gia (thế gian) mà cầu được xuất thế gian gia, người xuất thế gian gia mới là tu sĩ đích thực, người tu sĩ chôn chân tại thế gian là cư sĩ trọc.
Chân thật gieo duyên xuất gia chính là gieo các duyên xuất gia ngay trong các nhật thường sinh hoạt từ sự ăn uống ngủ nghỉ, tư duy và hành động. Ăn ngủ chỉ để duy trì sự sống, sống để suy nghĩ và làm mọi việc lợi lạc chúng sinh như bố thí, phóng sinh, cứu khổ nạn. Mọi sinh hoạt nhật thường không nhằm vào tìm kiếm hưởng thụ dục lạc mà vì lợi ích chúng sinh như kinh Hoa Nghiêm dạy "bất vị tự thân cầu khoái lạc, đản vị cứu hộ chư chúng sinh", không vì bản thân cầu khoái lạc, chỉ vì cứu độ mọi chúng sinh. Gieo duyên chân chính như vậy sẽ đem lại kết quả khôi phục Phật tính dẫn đến sự xuất gia giải thoát, thế nên mọi công phu tu tập như lễ bái tụng kinh, trì giới hành thiện của tăng ni là sự gieo các duyên để xuất thế gian gia, như vậy hàng tăng ni mới thực sự là người đang gieo duyên xuất gia, bởi họ chưa thành tựu được sự nghiệp ra khỏi nhà tam giới, nếu bảo tăng ni đã thực xuất gia thì đó chẳng qua là hiểu theo hình thức mà hình thức không dẫn đến sự thành tựu xuất gia, vì vậy tăng ni cần phải tu tập đến hết đời. Đừng ngộ nhận một cách ngớ ngẩn gieo duyên xuất gia chỉ là nhất thời đến chùa xuống tóc mặc y, sau đó về lại với những sinh hoạt nhật thường cố hữu, bỏ lại sự gieo duyên ấy mục nát trong lãng quên.
Bố thí đã có công đức ba la mật đa xuất thế gian nên bố thí là pháp tu giải thoát không thể thiếu được. Nhưng do thiểu trí phần lớn tăng tục không cho hành bố thí là pháp giải thoát, họ tin vào việc thờ phụng cầu nguyện và nhất là phải cạo tóc khoác y mới là tu tập, do vậy một số đồ chúng gieo duyên xuất gia thông qua hình thức xuống tóc mặc y. Họ không biết rằng nhờ hành bố thí mà giải thoát khỏi mọi quả khổ, do diệt trừ được nghiệp tham sân si của tập đế, thế nên hành bố thí pháp là gieo trồng các duyên giải thoát, cho đến khi viên mãn thì xuất ra khỏi nhà thế gian vô thường, hoàn toàn giải thoát.
Kỳ thật không có việc gieo duyên để đó như tục nhân ngộ nhận, mà gieo duyên là thường gieo không ngừng, duyên gieo để đó thì không thể thành quả được. Đúng hơn chính các vị hòa thượng, thượng tọa mới thật sự là người gieo duyên xuất gia nhờ thường hành gieo các duyên gọi là tu tập phi thế tục như trì giới hành thiện, lễ bái tụng niệm, còn như những người "xuất gia gieo duyên" nọ chỉ là tập sự hay trải nghiệm xuất gia trong thời gian ngắn, và họ vẫn sinh hoạt hằng ngày bằng các duyên thế tục như kiếm lợi cho bản thân và gia đình, các duyên thế tục chồng chất theo thời gian chôn vùi lấp mất cái duyên xuất gia èo ọt kia không để lại chút dấu vết. Về vấn đề gọi là xuất gia gieo duyên của người tại gia thì đức Phật đã chỉ dạy pháp thọ bát giới, những ai thường xuyên thọ giới này là đang tập sự xuất gia và đó chính là xuất gia gieo duyên đúng nghĩa, do không thông hiểu bát giới nên mới tạo ra thứ gọi là gieo duyên xuất gia thuần trên hình thức.
Xuất gia chân thật.
Chân thật luôn là thành quả của liễu nghĩa, và mơ hồ điên đảo lại là kết quả của không liễu nghĩa khi đức Thế Tôn dạy y vào liễu nghĩa không y vào bất liễu nghĩa hàm nghĩa y vào chân thật (chân lý) đừng y vào sự mơ hồ không sáng tỏ rõ ràng, bởi đơn giản trí huệ là rõ nghĩa và ngu si là khg rõ nghĩa. Nghe pháp hay xem kinh cốt để hiểu nghĩa mà không chỉ để ghi nhớ câu kinh văn tự, nếu không hiểu nghĩa nghe nhiều xem rộng cũng vô ích như trường hợp đa văn của ngài A Nan.
Kinh văn, hình tướng tăng ni chỉ là cú và nhân biểu tượng cho nghĩa và pháp, chúng sinh coi trọng kinh và tăng mà coi thường lơ là với nghĩa và pháp, nên chung cục không đắc pháp và hiểu nghĩa. Bồ tát trái lại coi trọng sự đắc pháp và liễu nghĩa nên có năng lực giác ngộ độ sinh, bởi giác ngộ chính là liễu nghĩa của vạn pháp. Do lẽ này xuất gia chân thật là cầu tìm học tập pháp ở nơi nhân, trí ở nơi thức phân biệt và nghĩa thú ở văn tự ngôn ngữ để nhập chân thật nghĩa, và không chỉ trụ ở sự tụng kinh văn mà bỏ nghĩa, khoác hình tướng mà bỏ pháp và chỉ nhận thức những thứ này là xuất gia, hiểu như vậy rõ ràng là bất liễu nghĩa, rủi thay những người bất liễu nghĩa này chỉ dạy cho đồ chúng xuất gia và gieo duyên xuất gia theo lối bất liễu nghĩa ấy.
Bồ tát trọng pháp và liễu nghĩa nên tự tại hiện đủ mọi tướng nói mọi nghĩa khai mở trí huệ giác ngộ cho chúng sinh mà không nhất thiết phải bám trụ vào tăng tướng, thế mới biết pháp và nghĩa là thứ độ ta và chúng sinh mà không phải là tướng và văn tự, nhờ vậy pháp, nghĩa và trí huệ mới phát sinh mọi công đức giải thoát thượng cầu và hạ hoá. Phương tiện để thành Phật là độ sinh, độ sinh không gì bằng hành bố thí ba la mật, phương tiện để độ sinh là thành Phật, thành Phật không gì bằng độ sinh. Vì vậy bố thí ba la mật là pháp tu căn bản để giác ngộ giải thoát cho ta và muôn loài.
Tóm lại xuất gia chân thật do y pháp nên quy y pháp, do hiểu nghĩa nên thâm nhập pháp, do y trí nên hiểu biết như hải, do y liễu nghĩa nên thành tựu cả hai vế thượng cầu và hạ hóa.
GK 9.5.2023