A3. Đối vói pháp đầy đủ hai loại trọng yếu, phải nên lắng nghe và giảng giải như thế nào
B1. Quy luật của người nghe pháp
C1. Tư duy lợi ích của sự nghe pháp
C2. Sinh khởi lòng mong muốn thừa sự Phật pháp và người giảng pháp
C3. Nói rõ quy luật nghe pháp
D1. Diệt trừ ba lỗi lầm
D2. Y vào sáu loại quán tưởng
E1. Quán tưởng mình như bệnh nhân
E2. Quán tưởng người giảng pháp như thầy thuốc
E3. Quán tưởng pháp như thuốc
E4. Quán tưởng sự tu hành như trị bệnh
E5. Quán tưởng Đức Như Lai như Bậc Chánh Sĩ
E6. Quán tưởng mong cầu Chánh Pháp Nhãn trụ thế lâu dài
B2. Quy luật của người giảng pháp
C1. Tư duy lợi ích của sự thuyết pháp
C2. Sinh khởi ý tưởng thừa sự Phật, Pháp
C3. Dùng sự ưa thích và phương cách nào để thuyết pháp
C4. Sự khác biệt của sự quán sát căn cơ (của người nghe) mà giảng hay không giảng pháp
B3. Quy luật chung lúc thuyết pháp hoàn tất
A3. Đối với pháp đầy đủ hai loại trọng yếu, phải nên lắng nghe và giảng giải như thế nào.
B1. Quy luật của người nghe pháp.
C1. Tư duy lợi ích của sự nghe pháp.
Thính Pháp Tập nói:
Đa văn hiểu chánh pháp,
Đa văn trừ tội ác,
Đa văn diệt phi nghĩa,
Đa văn được Niết bàn.
Bài kệ này muốn nói rằng nương vào sự nghe pháp theo thứ tự có thể biết rõ sự thủ xả, biết rồi có thể giữ giới, phòng hộ việc ác; sau khi đã ngăn chận việc ác, tâm có thể an trụ trong pháp lành, từ đó có thể phát sinh thiền định. Người đó dùng trí tuệ chân thực thông đạt lý vô ngã, đoạn trừ những trói buộc căn bổn của thế gian, sẽ được giải thoát. Bổn Sinh Kinh cũng nói:
Nếu do nghe pháp khởi lòng tin,
Sẽ kiên trụ trong sự hoan hỷ,
Sinh khởi trí tuệ, diệt ngu si,
Đáng dùng thân mạng để đổi lấy,
Nghe là đèn sáng phá bóng tối,
Là tài sản thù thắng khó đoạt,
Là vũ khí trừ diệt vô minh,
Là người bạn chỉ phương tiện khéo,
Là ân nhân khi gặp lúc nghèo,
Là thuốc tiêu trừ bệnh ưu khổ,
Là đội quân phá diệt tội sâu,
Là kho tàng tiếng thơm, phước đức,
Là lễ vật người trí tặng nhau,
Những bậc anh tài đều ái nhạo.
Lại nói: “Sau khi nghe (văn), lấy tu làm tâm yếu, chỉ dùng ít công phu mà có thể thoát khỏi thành sinh tử.” Nên thường suy ngẫm đến lợi ích của sự nghe pháp, ắt sẽ phát sinh thắng giải.
C2. Sinh khởi lòng mong muốn thừa sự Phật pháp và người giảng pháp.
Địa Tạng Kinh nói:
Tin, kính, chuyên chú nghe giảng pháp,
Không sinh tâm phỉ báng, chê bai,
Nên cúng dường, cung phụng Pháp sư,
Khởi lòng thờ phượng như Đức Phật.
Thờ phượng như Đức Phật nghĩa là nên dùng những vật tôn quý như tòa sư tử, v.v..., mà cung kính cúng dường pháp sư, đồng thời, đoạn trừ tâm bất kính. Bồ Tát Địa nói: “Xa lìa sự ngông nghênh và tâm khinh miệt. Đối với Phật pháp và pháp sư phải nên có tâm kính trọng.” Bổn Sinh Kinh cũng nói:
Nên ngồi phía bên dưới,
Tu đức “tự điều phục”,
Cung kính nhìn hoan hỷ,
Như uống lời cam lộ,
Tôn trọng, chuyên tâm lễ,
Tin sâu, ý trong sạch,
Như bệnh vâng lời thầy,
Thừa sự, lắng lòng nghe.
C3. Nói rõ quy luật nghe pháp.
D1. Diệt trừ ba lỗi lầm.
Giả như đồ đựng bị lật úp, hoặc tuy để ngửa nhưng không sạch sẽ, hoặc tuy sạch sẽ nhưng có vết nứt, thì dù có trời mưa, cũng không thể dùng để đựng nước; hoặc giả, tuy có chứa được nước, nhưng bị vấy bẩn, cũng không thể uống được; hoặc giả, không bị vấy bẩn, nước cũng sẽ theo vết nứt chảy hết ra ngoài. Tương tự, tuy đến giảng đường, nhưng nếu (1) không chú ý lắng nghe, hoặc (2) tuy nghe nhưng lại bị tà chấp, hoặc khởi tâm bắt lỗi người giảng pháp, hoặc tuy không có những lỗi đó, nhưng lại (3) không ghi nhớ, hoặc vì lơ đãng mà quên bẵng đi lời giảng dạy, nghe pháp như vậy sẽ không thu hoạch được lợi ích, cho nên phải lìa bỏ những lỗi lầm như vậy. Để đối trị ba lỗi lầm vừa nêu trên, trong kinh thường nhắc nhở: “Lắng nghe, lắng nghe, khéo léo suy ngẫm những điều giảng dạy.” Bồ Tát Địa cũng nói:
Vì muốn biết tất cả,
Cùng chuyên tâm một cảnh,
Phải chú ý lắng nghe,
Và tư duy nghĩa lý.
D2. Y vào sáu loại quán tưởng.
E1. Quán tưởng mình như người bệnh.
Nhập Bồ Tát Hành Luận nói:
Vì lo cơn bệnh thường,
Còn nghe lời thầy thuốc,
Huống chi bệnh tham, sân,
Vô thỉ thường trói buộc. (Phẩm Hai, kệ 54)
Vì phiền não tham sân rất khó điều trị, chiêu cảm những cơn bệnh ngặt nghèo thống khổ dài lâu, cho nên phải ý thức rõ ràng, như ngài Ca Mã Ba nói “không mà chấp là có, ắt là sự điên đảo”; hiện nay có bệnh nặng ba độc (tham, sân, si) trầm trọng nguy kịch như vậy mà chúng ta lại ngu ngơ không biết, đây quả thật càng điên đảo, thật là phi lý.
E2. Quán tưởng người giảng pháp như thầy thuốc.
Nếu như chúng ta bị mắc những bệnh nặng như phong hàn, v.v..., chắc chắn chúng ta sẽ vội vã đi tìm lương y; nếu như gặp được, lòng ắt cảm thấy rất vui mừng, ngoan ngoãn tuân theo lời chỉ dẫn. Hiện nay, đối với người giảng pháp cũng nên có thái độ như vậy, sau khi tìm được, cũng phải nên y giáo phụng hành, cung kính thừa sự
E3. Quán tưởng pháp như thuốc.
Giống như người bệnh đối với phương thuốc mà lương y đã điều chế sinh lòng trân trọng sâu xa, người học đạo đối với lời dạy dỗ khuyên răn của vị thầy giảng pháp cũng phải nên thừa nhận là trọng yếu, nỗ lực trân trọng thọ trì, không nên đối kháng, hoặc lơ là, mà làm mất đi những lời dạy trân quý đó.
E4. Quán tưởng sự tu hành như trị bệnh.
Ví như người bệnh biết rằng nếu không uống thuốc thì bệnh sẽ không lành, cho nên phải uống thuốc; như vậy, người học đạo đối với những lời giảng dạy của thầy, nếu không lấy đó làm mẫu mực tu hành, thì không thể nào hàng phục được những phiền não tham, sân, v.v..., cho nên phải đem lòng ân trọng mà tu trì. Hơn nữa, giả như có người đang mang những chứng bệnh nan y, kinh niên, hay bị cụt tay, què chân, thì nếu chỉ uống một hai liều thuốc qua loa, ắt sẽ không ích lợi gì. Chúng ta mang chứng bệnh nặng “hoặc nhiễm” từ vô thỉ lâu xa đến nay, nếu như đối với những lời dạy của thầy, chỉ tu tập một vài lần qua loa, thì không thể vội vàng thỏa mãn mà cho là đủ được. Như Sám Tán có nói:
Tâm đối chơn lý, thường ngu si,
Ngày đêm, căn bệnh thường nương tựa,
Ví như bệnh nặng, cụt tay chân,
Chỉ uống ít thuốc, sao lành bệnh?
Cho nên sự quán tưởng chính mình là người bệnh là một phương pháp rất trọng yếu. Sự quán tưởng nếu thành công, thì những việc thiện khác có thể nhân đó mà phát sinh. Nếu như chỉ ưa thích bàn luận mà không chân thực tu hành để đoạn trừ phiền não thì cũng chỉ được tăng thêm phần kiến thức mà thôi, giống như có bệnh mà không chịu uống thuốc thì bệnh sẽ không bao giờ lành. Điều này trong Tam Muội Vương Kinh đã có nói qua. Kinh ấy lại nói:
Tuy ta đã nói pháp vi diệu,
Nghe mà không chân thực tu hành,
Giống như người bệnh mang bọc thuốc,
Mà chứng bệnh nặng vẫn không lành.
Nhập Bồ Tát Hành Luận cũng nói:
Pháp, nên cung kính hành
Chỉ nói, không ích gì
Nếu chỉ đọc sách thuốc
Bệnh tật làm sao lành? (Phẩm Năm, kệ 109)
Cho nên hành giả phải nên ân trọng khởi tâm cầu mong trị bệnh. Ân trọng, nghĩa là cung kính thọ trì những lời dạy dỗ khuyên răn của bậc thiện tri thức. Muốn làm, cần phải biết; muốn biết, cần phải nghe; nghe xong, phải biết những yếu điểm của sự tu hành, sau đó nỗ lực tu tập. Vì vậy đối với nghĩa lý đã nghe, tùy sức của mình mà thực hành. Nếu không như thế, đến lúc mạng chung ắt sẽ phải mang nhiều hối hận. Như Thân Tâm Giáo Giới Kinh nói:
Xưa không tu hành, giờ làm sao,
Lúc chết, sợ hãi như con trẻ,
Chưa biết tâm yếu, thật khổ não,
Đây là lỗi ham chuộng văn hoa.
Lại nói:
Cũng giống như một người diễn kịch,
Lập lại lời nói của kẻ khác,
Tự thân không thực sự tu hành,
Chỉ ham bàn luận, nên có lỗi.
Lại nói:
Vỏ mía không hề có tâm yếu,
Mùi vị ngon ngọt ở phía trong,
Nếu như chỉ thích ăn vỏ mía,
Không thể hưởng hương vị ngọt ngào,
Bàn luận xuông giống như vỏ mía,
Tư duy pháp nghĩa như vị ngọt,
Vì vậy, chớ nên chuộng văn hoa,
Ngừng phóng dật, tư duy pháp nghĩa.
E5. Quán tưởng người giảng pháp như Phật.
Phải nên quán tưởng người giảng pháp như một vị Phật, sinh khởi tâm kính trọng.
E6. Quán tưởng mong cầu Chánh Pháp Nhãn trụ thế lâu dài.
Sau khi nghe pháp xong, phải nên suy ngẫm như sau: “Làm thế nào để chánh pháp của Đức Như Lai trụ thế lâu dài.” Lại nữa, bất luận giảng pháp hay nghe pháp, nếu như để tâm nơi khác, thì sẽ không tương ưng với pháp; và hơn nữa, dù người giảng có nói pháp nào chăng nữa, cả hai đều không được lợi ích. Phải vì tự thân tâm mà tuyển chọn sự nghe pháp, giống như người muốn biết mặt mình dơ hay sạch, sau khi soi gương, bèn chùi sạch vết bẩn; tương tự, tự mình làm ác, trong tấm gương Phật pháp hiện ra vết nhơ, tâm tư sầu muộn, cần phải trừ diệt lỗi lầm, tích tập công đức, y theo pháp mà tu hành. Bổn Sinh Kinh nói:
Những tội cấu tạo ra,
Gương pháp sẽ soi rõ,
Lòng phát sinh sầu não,
Phải y pháp tu hành.
Tóm lại, chúng ta vì tất cả hữu tình mà phát nguyện thành Phật; muốn đạt đến quả Phật, phải tu tập nhân duyên thành Phật; cho nên cần phải lắng nghe Chánh pháp, ghi nhớ, tư duy, phát Bồ đề tâm. Đã biết sự lợi ích của việc nghe pháp như vậy, cần phải phát tâm dũng mãnh, vượt qua mọi chướng ngại để được nghe Chánh pháp.
B2. Quy luật của người giảng pháp.
C1. Suy ngẫm lợi ích của sự thuyết pháp.
Câu Xá Luận nói:
Không nhiễm, bố thí pháp,
Giảng nói giống như kinh.
Và giải thích như sau: “Những người thuyết pháp với tâm tà vọng, hoặc với tâm nhiễm ô, mưu cầu lợi dưỡng, cung kính, tiếng tăm là những người phá hoại phước lợi lớn của chính mình.” Bởi thế, người thuyết pháp phải nên phát tâm thanh tịnh, đây là điều quan trọng nhất. Như ngài Tích Cung Ba nói: “Trước khi thuyết pháp, chưa một lần nào mà tôi không tu pháp quán vô thường.” Nếu như thuyết pháp mà không cầu lợi dưỡng, v.v..., thì sẽ phát sinh hai mươi thứ lợi ích, như trong Khuyến Phát Tăng Thượng Ý Nhạo Kinh có nói rõ.
C2. Sinh khởi ý tưởng thừa sự Phật pháp.
Lúc Đức Phật nói Bát Nhã Kinh, chính ngài đã tự tay xếp dọn giảng tòa, điều này cho thấy rằng chính Đức Phật đối với pháp cũng rất là cung kính; bởi thế chúng ta phải tưởng nghĩ đến công đức ân huệ của Đức Phật và Phật pháp mà sinh khởi tâm cung kính thừa sự.
C3. Dùng sự ưa thích và phương cách nào để thuyết pháp.
Thứ nhất, sự ưa thích: Như trong Hải Tuệ Sở Vấn Kinh nói đến năm pháp quán tưởng: (1) quán tưởng chính mình là thầy thuốc, (2) quán tưởng pháp như thuốc trị bệnh, (3) quán tưởng người nghe như bệnh nhân, (4) quán tưởng Đức Như Lai như bậc Chánh Sĩ, (5) nguyện Phật pháp trụ thế lâu dài. Ngoài năm pháp quán tưởng này ra, đối với người thân, phải tu tâm từ, lại còn phải đoạn trừ những lỗi lầm như sợ người khác hơn mình, trù trừ biếng nhác, nhàm chán công việc thường xuyên thuyết pháp, khoe khoang ưu điểm của mình, chỉ trích khuyết điểm người khác, bỏn sẻn không muốn thuyết pháp, hoặc mong cầu lợi dưỡng như ẩm thực, y phục, v.v... Phải nên nghĩ rằng giảng pháp là vì muốn mình và mọi người đều thành Phật; hơn nữa, những phước đức thanh tịnh của sự thuyết pháp sẽ là tư lương cho sự an lạc của chính mình.
Thứ hai, phương cách: Cần phải tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, chuẩn bị giảng tòa ở nơi trang nghiêm thanh tịnh. Sau khi an tọa, nên tụng thần chú hàng ma, thì nơi pháp hội, trong vòng một trăm do tuần, ma quái không thể nào quấy phá, xâm hại, dù chúng có thể đột nhập trong thoáng chốc, cũng không thể làm chướng ngại cho sự giảng pháp. Sau khi tụng chú xong, nét mặt nên an hòa thư thái, chuẩn bị sẵn sàng đầy đủ tất cả định nghĩa, thí dụ, lý do, chứng cớ, v.v..., sau đó mới giảng pháp.
C4. Quán sát căn cơ người nghe mà giảng hay không giảng pháp.
Giới Kinh nói: “Nếu không mời thỉnh thì không giảng”, nghĩa là nếu đối phương không mời thỉnh, không yêu cầu thì không nên giảng pháp cho họ. Vả lại, tuy có sự mời thỉnh, cũng nên quán sát căn cơ của họ. Nếu biết đối phương đầy đủ căn cơ, tuy họ không mời, cũng có thể giảng pháp cho họ. Đây là lời dạy trong Tam Muội Bảo Vương Kinh. Còn những uy nghi khác của người giảng pháp, trong Luật tạng đã có nói rõ.
B3. Quy luật chung lúc thuyết pháp hoàn tất.
Sau khi thuyết pháp hoàn tất, nên phát nguyện Phổ Hiền, đem hồi hướng công đức giảng pháp và nghe pháp, nếu có thể như vậy, thì mới có được sự lợi ích chân thật mà trong kinh đã nói. Hơn nữa, nếu tuân theo quy tắc giảng pháp và nghe pháp này, thì tất cả tội chướng như khinh người, báng pháp đã tích tập từ trước đều được tiêu trừ; lại còn có thể ngăn chặn không cho tội ác mới phát sinh. Các bậc cổ đức khi xưa đều chú trọng đến những sự kiện này, đặc biệt các vị tổ sư truyền thừa bộ luận này lại càng kiền thành khẩn thiết. Nếu như không để tâm lưu ý đến phần hồi hướng này, thì dù có giảng nói rộng rãi bao nhiêu Phật pháp thâm sâu, chung cuộc cũng chỉ đưa đến việc bổn tôn biến thành ma, và như vậy, diệu pháp của chư Phật cũng chỉ trở thành đồng bạn của phiền não mà thôi. Sự kiện này có rất nhiều chứng cớ; đây gọi là sai một ly đi một dặm. Kính mong các vị hiền giả cố gắng học tập. Phải biết đây là điều quan trọng nhất trong toàn bộ giáo giới của chư Phật.