Home > Khai Thị Niệm Phật > Khuyen-Nguoi-Cau-Sanh-Tinh-Do
Khuyên Người Cầu Sanh Tịnh Độ
| Hòa Thượng Thích Hân Hiền, Việt Dịch


Này các Phật Tử! Nay quý vị đã thật tâm niệm Phật, còn cần phải phát nguyện cầu sanh về TỊNH ĐỘ, chớ nên luống cầu phước báu trong đời.

Người đời nghe thoáng qua một câu ấy, không sao khỏi lấy làm kinh khủng cho đó là điều lạ. Vì họ tưởng nguyên do tu hành mục đích là cầu phước, mà niệm Phật thời được phước. Chính do đó nên tâm của họ đuổi theo việc vừa ý muốn được phước mà niệm Phật, sao lại bảo rằng chẳng cần phước báu? Nếu nói về TỊNH ĐỘ, đâu phải so với hạng phàm phu chúng ta chỉ tu chút ít công hạnh mà được sanh về cõi ấy? Như thế, sao dám bảo rằng người cầu sanh về Tây phương trang nghiêm Tịnh Độ của đức PHẬT A DI ĐÀ rất dễ dàng?

– Này các người nam lành, người nữ lành, nếu có ai nghĩ tưởng như thế thời là lầm. Phải biết phước báu trong cõi đời này có khi hết, ta có thể đem người đời để thí dụ: Hoặc đời ông nội tới đời cha giàu sang, nhưng đến đời con cháu phải chịu nghèo hèn khổ sở; hoặc những năm về trước giàu sang tột bực, nhưng trải qua thời gian sau phải cam chịu ôm lấy sự nghèo nàn khổ sở, ăn không no bụng, mặc không kín mình, ngủ không nơi chốn, há chẳng phải là phước báu của con người có hết.

Nếu đời này chúng ta tu hành, thì đời sau quyết sẽ được hưởng phước.

Đời sau chúng ta không lo tu thì đời kế nữa lại không sao khỏi phải mắc thọ các sự khổ, như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v….

Con người khi sa vào trong địa ngục, quyết phải bị các điều khổ hành phạt trải vô lượng kiếp; khi mãn tội báo trong địa ngục mới được lên làm ngạ quỷ.

Những chúng sanh nào mang thân ngạ quỷ, mắc phải thọ khổ báo trong vô số kiếp, đến khi mãn kiếp ngạ quỷ mới được lên làm súc sanh.

Và các chúng sanh thọ thân súc sanh cũng phải chịu khổ trải trong vô số kiếp, đến lúc biết tu thì tội báo kiếp súc sanh sẽ tiêu dần mãi đến hết, mới được thọ thân người.

Khi được làm người lại gây bao tội lỗi, thì quyết phải sa đọa trong ba đường ác nữa, cứ xoay dần lên xuống xuống lên mãi không nhứt định.

Vì thế biết rằng chúng sanh trong cõi Ta Bà này khổ không thể kể xiết: Khi lên lúc xuống, lúc trồi khi sụp, ba chìm bảy nổi theo lượng sóng ba đào trong biển khổ mênh mông. Thật:

Lênh đênh qua cửa Thần Phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm!

Cõi này có những hạng người giàu sang của cải tột bực, nhưng rất tiếc cho họ không con để giao phó tài sản! Hoặc có hạng người có con mà lại không của phải đành cam chịu nghèo nàn đói khát khổ sở! Lại có hạng người được sống lâu dài, nhưng mắc phải cô đơn giá lạnh. Có hạng người thông minh lại chết yểu! Hoặc có người giàu lại sanh con khờ! Hay có kẻ sang lại mắc phải mang họa! Hoặc người mang bịnh, quyến thuộc rời bỏ không chăm nuôi! Hoặc cả nhà người đều được an ổn, nhưng mình lại mang lấy bịnh không thuyên giảm, vừa có một điều lợi chi, lại mất một điều lợi khác. Vì thế mà gọi cõi này là hầm bẫy, nó hay vùi lấp lợi ích lành của con người. Vậy, người sao dám cho rằng phước báu trong cõi đời này được vừa theo ý muốn của nhơn loại ư!

Nếu có chúng sanh nào niệm Phật hồi hướng công đức cầu sanh về cõi CỰC LẠC, khi được sanh về cõi ấy người từ trong hoa sen báu hóa sanh, thân tướng hương vị ngạt ngào xinh đẹp trang nghiêm.

Phải biết cõi Cực Lạc, mọi người đều trí huệ sáng suốt, biện tài vô ngại, không một ai ngu dốt và có tâm phiền não. Người cõi ấy, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, không già không bịnh, theo đức Phật tự tại dạo chơi khắp cõi An Dưỡng (cõi CỰC LẠC)

Nhân dân ở cõi CỰC LẠC sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp đồng với đức Phật, trong một đời thẳng đến thành Phật, trọn không còn trụy lạc trong biển khổ trầm luân sanh tử nữa. Ngoài ra, người CỰC LẠC còn có các sự vui đẹp về vật chất như ăn thì có trân tu thượng vị, mặc thì có y phục tự nhiên, ao tắm bằng bảy chất báu và nước đủ tám thứ công đức, nhà ở là lâu đài toàn bằng châu báu quý, nào là vàng, nào là bạc, nào là lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu v.v… và ai cũng đều được hưởng những điều cao quý hy hữu:

– Thường được thấy đức Phật và gần Phật.

– Các vị đại Bồ Tát là thầy là bạn cùng chung hội hiệp.

– Luôn luôn được nghe tiếng diễn nói pháp mầu, không luận chỗ nào và lúc nào nếu muốn nghe.

– Thường được chư Phật hộ niệm.

– Sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp đồng với đức Phật.

– Không còn lo bị đọa vào ác đạo. Ở cõi CỰC LẠC danh từ ác đạo còn không có thay huống là sự thật.

– Vĩnh viễn thoát ly sanh tử luân hồi.

– Thọ dụng tự nhiên, khỏi bận rộn bê trễ công phu hành đạo.

– Được vào bực chánh định, không còn thối thất đạo tâm Vô Thường Bồ Đề. Hiện một đời được thành Phật.

Tóm lại, sự an vui thù thắng của người ở cõi CỰC LẠC không thể nói cho hết, chính là từ nơi kim khẩu của đức Bổn Sư THÍCH CA MÂU NI nói ra.

Như kinh A DI ĐÀ và các bộ kinh Đại thừa, ta thấy rằng người giàu sang trong cõi nhân gian chỉ hưởng phước thời gian ngắn ngủi, trong chớp nhoáng rồi hoàn lại còn hai bàn tay không. Còn sự khoái lạc của người ở Tịnh Độ phương Tây nhiều biết mấy không bao giờ hết. Thế sao, người chẳng sớm gấp phát nguyện cầu sanh về cõi kia?

Nếu có người tự nói là hạng phàm phu, sợ rằng không thể vãng sanh CỰC LẠC QUỐC được. Phải biết đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI chính vì hạng phàm phu chúng ta phiền não nghiệp chướng sâu đầy chất chống hơn núi Tu Di, phước huệ lại mỏng tợ sợi chỉ phất phơ, nếu tu các hạnh môn khác khó bảo đảm trong một đời được giải thoát sanh tử luân hồi trong bao cõi sáu đường, nên Ngài dạy cho tu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT. Chỉ có PHÁP MÔN NIỆM PHẬT chóng thoát sanh tử. Vì thế, đức NHƯ LAI hằng khen ngợi PHÁP MÔN NIỆM PHẬT và đặc biệt chỉ dạy cho chúng sanh thật hành niệm lục tự DI ĐÀ, mong toàn thể đệ tự của Phật được sanh về cõi CỰC LẠC để Ngài mãn nguyện độ tận chúng sanh hết khổ. Như thế, sao có hạng người tự xưng là đệ tử của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI lại phụ lòng từ bi của Ngài, chỉ tu chút ít công hạnh mỏng manh mà bỏ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT nầy.

Chúng ta phải biết vạn đức hồng danh gồm nhiếp tất cả pháp lành, không việc ác nào chẳng tiêu diệt, chính là công hạnh tu hành đầy đủ sâu rộng bao la.

Thế nên, người nhứt tâm xưng danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ trong một niệm, có thể trừ được vô lượng tội nặng trong tám mươi ức kiếp qua. Một niệm còn được lợi ích như thế, huống là người thường siêng niệm nhiều. Vậy, chúng ta chẳng nên cho niệm Phật không mầu nhiệm mà khinh thường phải mang lấy tội.

Chúng ta phải biết, người tu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, được nương nguyện lực đại từ bi của đức PHẬT A DI ĐÀ nhiếp thọ.

Trong khi đức PHẬT A DI ĐÀ tu nhơn địa, có phát ra 48 điều đại nguyện, nguyện nào cũng đều độ khắp tất cả chúng sanh trong mười phương pháp giới, nếu có một điều nguyện nào không viên mãn, thời Ngài không ở ngôi Chánh giác.

Điều nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng Chánh pháp.

Vì đức Phật có điều hoằng nguyện lớn ấy, cho nên chúng ta nhứt tâm xưng danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ cầu sanh về cõi CỰC LẠC, thì trong ao bảy báu phương Tây liền mọc lên một cành hoa sen nêu tên họ của người niệm Phật đó cầu sanh CỰC LẠC QUỐC. Đến khi lâm chung người niệm Phật được đức PHẬT A DI ĐÀ cùng Bồ Tát Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí và hàng Thánh chúng hiện thân đến tiếp dẫn sanh về cõi CỰC LẠC.

Người sanh về cõi CỰC LẠC, thần thức gá vào hoa sen báu nơi bảo trì hóa sanh, khác hẳn với người ở cõi Ta Bà gá nơi bụng mẹ sanh ra.

Từ xưa đến nay, người niệm PHẬT A DI ĐÀ cầu sanh CỰC LẠC, số nhiều được vãng sanh không thể kể xiết và được biết trước ngày giờ lâm chung. Đến khi mạng chung, hành giả tắm gội xong xuôi, ngồi xếp bằng thân ngay thẳng, chấp tay niệm Phật, tự nói thấy đức Phật cùng Bồ Tát Thánh chúng đến, rồi thác hóa. Đồng lúc ấy, có khi người trong nhà đều thấy ánh sáng lạ thường, cũng như được ngửi mùi thơm tuyệt diệu và nghe giữa hư không trổi kỷ nhạc, những việc ấy đâu phải là mơ hồ.

Hiện nay ít có người thật tâm niệm Phật cầu sanh CỰC LẠC, cho nên số người niệm Phật được vãng sanh kém hơn ngày xưa nhiều.

Nên biết, người tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ chuyên tâm niệm PHẬT A DI ĐÀ, chẳng cần các công hạnh tu phước huệ trải qua ba vô số kiếp, chỉ niệm sáu chữ Di Đà mà được thoát khỏi sanh tử luân hồi trong cõi Ta Bà, thẳng đến thành Phật. Thật là:

Chẳng đợi ba kỳ tu phước huệ
Chỉ đem sáu chữ thoát Ta Bà.

Trong kinh A Di Đà có đoạn: Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhượt ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhược tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời A DI ĐÀ PHẬT dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh CỰC LẠC QUỐC ĐỘ.

Nghĩa là, đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI gọi Ngài Xá Lợi Phất mà bảo rằng:

Nầy ông Xá Lợi Phất ơi! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nghe nói PHẬT A DI ĐÀ, rồi tự chấp trì danh hiệu của Ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày cho được một lòng không rối loạn. Khi người ấy sắp chết liền được đức PHẬT A DI ĐÀ và các Thánh chúng hiện ở trước người đó. Người ấy lúc chết tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi CỰC LẠC của đức PHẬT A DI ĐÀ.

Tóm lại, tất cả chúng sanh niệm PHẬT A DI ĐÀ cầu sanh Cực Lạc quốc (do tự lực) mà được vãng sanh là do đại nguyện đại lực của đức PHẬT A DI ĐÀ nhiếp thọ (do tha lực). Cũng như một chiếc thuyền lớn, l luận là vật gì, chỉ chịu khó đem xuống thuyền là được chở đến bờ kia ngay, chẳng còn lo ngại chi không qua đến bờ kia và phải chìm đắm trong biển khổ. Vì thế, Cổ đức có câu dạy:

– Dư môn học đạo, như nghị tử thường ư cao sơn. Niệm Phật cầu sanh tợ phong phàm hành ư thuận thủy, thuận thủy hành thuyền hựu ngộ thuận phong.

Nghĩa là: Người học đạo tu các hạnh môn khác, khó như con kiến bò lên đảnh núi cao. Kẻ niệm Phật, dễ như đi thuyền căng buồm gặp nước xuôi gió thuận.

Người niệm Phật được về Tây phương Tịnh Độ dễ dàng như chiếc thuyền căng buồm gặp nước xuôi gió thuận. Lý ấy là nói đã mau lại càng thêm mau chóng, do vì nương nơi nguyện lực của đức PHẬT A DI ĐÀ.

Nầy các Phật tử! Mặc dầu chiếc thuyền căng buồm đi trên dòng nước xuôi gió thuận, nhưng nếu người chẳng chịu bước xuống thuyền thì chiếc thuyền đối với người ấy vô ích. Cũng thế, đức PHẬT A DI ĐÀ mở lòng từ bi rộng lớn bao la phổ độ chúng sanh, nhưng nếu chúng sanh nào chẳng niệm đến danh hiệu Ngài, thì chúng sanh ấy quyết không bao giờ có đủ duyên lành với đức PHẬT A DI ĐÀ và bảo đảm trên con đường giải thoát sanh tử luân hồi trong ba cõi.

Thời nay, người niệm Phật vì bịnh hoạn đau khổ mà phát tâm niệm, hoặc vì bảo hộ thân quyến trong gia đình mà niệm Phật. Hoặc vì cầu tiêu tai họa hiện đời và mong sống lâu, hay là vì hy vọng đời sau được giàu sang mà niệm Phật. Ít có ai vì đường sanh tử việc lớn mà thật tâm niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ phương Tây.

Như người muốn qua phía nam hay phía bắc, cần phải nắm chắc bản đồ trong tay trước khi đi. Khi ra khỏi cửa, người nhắm ngay hướng ấy mà đi quyết không đi hướng khác thì chắc chắn đến nơi. Cũng thế, người cầu sanh về TỊNH ĐỘ, trước phải nắm vững ba yếu tố chính: TÍN, NGUYỆN, HẠNH.

Khi thật hành PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, người chỉ niệm câu “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” không xen một niệm khác, thì lúc lâm chung chẳng nhọc gì như khảy móng tay, liền sanh về cõi CỰC LẠC ngay. Thật là:

Nhứt cú DI ĐÀ vô biệt niệm
Bất lao đàng chỉ đáo Tây phương.

Nghĩa là:

Một câu DI ĐÀ không niệm khác
Chẳng nhọc khảy móng đến Tây phương.

Hay là:

Chi niệm DI ĐÀ không nghĩ khác
Tây phương liền hiện nhọc gì đâu.

Nên biết, người tu hành nếu không phát nguyện cầu sanh TỊNH ĐỘ, đến lúc lâm chung làm sao mà được vãng sanh TỊNH ĐỘ. Hoặc có người miệng thì phát nguyện cầu sanh Tây phương TỊNH ĐỘ, nhưng trong tâm lúc nào cũng tham đắm vật dục. Như thế, người tuy có phát nguyện cầu sanh TỊNH ĐỘ, nhưng không bao giờ được kết quả VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC, chẳng khác nào như hạng người không phát nguyện cầu sanh TỊNH ĐỘ.

Than ôi! Chúng sanh trong cõi đời ác trược nầy, tâm cứ tham luyến nhiều tốt đẹp, đành chịu bó tay chìm đắm trong biển khổ sanh tử luân hồi mà chẳng cầu giải thoát, thật đáng thương xót thay!

Nói tóm lại, “PHÁP MÔN NIỆM PHẬT” mầu nhiệm không thể nghĩ bàn. Sự khoái lạc của người ở TỊNH ĐỘ phương Tây không sao so lường được.

Niệm Phật cầu VÃNG SANH TỊNH ĐỘ, tâm người ấy chính là phối hợp với tâm Phật.

Người niệm Phật nguyện sanh về TỊNH ĐỘ, thời được sanh về cõi ấy. Nếu người niệm Phật chẳng nguyện sanh về cõi CỰC LẠC, thì quyết không bao giờ được vãng sanh. Tịnh Độ. Còn người nguyện sanh về TỊNH ĐỘ mà không chuyên tâm nhứt ý niệm Phật, thời chẳng khác nào như người không có nguyện. Ấy chẳng phải là đức PHẬT A DI ĐÀ không độ, mà chính là người chẳng quyết lòng cầu sanh về cõi Ngài.

Nếu người lấy PHÁP MÔN NIỆM PHẬT BẤT KHẢ TƯ NGHỊ nầy mà đi cầu phước báu trong thế gian, thì chẳng khác nào như người lấy viên minh châu bắn chim sẻ, đâu không đáng tiếc ư!

Nầy các Phật tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào niệm Phật khéo mà thật tâm tha thiết chí thành niệm Phật phát nguyện CẦU SANH TỊNH ĐỘ, đó mới thật là lành thay, quý biết mấy. Được thế mới thật là:

Tin sâu nguyện thiết từ nay
Thành tâm niệm Phật có ngày vãng sanh