Tán Dương Và Lời Tựa

Tán dương hình tượng ở đầu sách Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
 
Tuyệt thay Đại Sĩ, thệ nguyện khó tuyên, Bi vận Đồng Thể[1], Từ khởi Vô Duyên[2], tầm thanh cứu khổ, tùy loại hiện hình, hiện khắp sắc thân, tình lẫn vô tình. Nếu có chúng sanh gặp các khổ nạn, vừa xưng danh Ngài, lập tức cứu vớt. Giàu, thọ, con cái, hễ có mong cầu, lễ bái cúng dường, đều được thỏa nguyện. Vì sao xưng danh, liền được cảm thông? Do tâm Bồ Tát đã chứng Chân Không từ thuở lâu xa. Do tâm “vô tâm” hợp tâm chúng sanh và hợp tâm Phật, chúng sanh mê trái, chẳng thể thọ ân. Do gặp tai nạn, hoặc chuyện khẩn cấp, vừa phát lòng Thành, cảm ứng đạo giao, như trăng trong mát, vằng vặc giữa trời, in bóng trong nước, không đâu chẳng trọn. Nếu như chẳng tin, không sao cảm được, như nước xao, đục, bóng trăng chẳng tỏ, lỗi tại nơi nước, há trăng chẳng chiếu? Nếu nước lặng trong, liền hiện rạng ngời. Cũng như nắng Xuân, tăng trưởng mầm mộng, gặp phải cây khô, càng thêm mục nát; cam lộ tưới khắp, cây cỏ cùng tươi, nếu cây không rễ, làm sao sanh sôi?
Yếu quyết nhập đạo: Tín là bậc nhất; muốn gội từ ân, không tin chẳng được! Tưởng nghĩ Bồ Tát, vì sao được vậy? Là vì gốc xưa, nên thành như thế. Gốc xưa ra sao? Chứng trọn Tam Giác[3], hiệu Chánh Pháp Minh[4], phước huệ cùng trọn, tuy trụ Tịch Quang[5], bi nguyện chưa nguôi, lại hiện Bồ Tát, phù tá Pháp Vương. Hiện thân mười giới[6], thân nào cũng hiện, xét theo chiều dọc, suốt khắp ba đời, xét theo chiều ngang, trọn khắp mười phương, Công đức Bồ Tát, khó tán dương trọn, nêu bày đại lược, làm đèn soi sáng trong chốn đêm dài. Riêng cầu cư sĩ, ở đất Giang Tây, là Hứa Chỉ Tịnh, đọc khắp kinh điển, soạn lời tán tụng, kính vẽ thánh tượng, truyền khắp pháp giới, khiến mọi hàm thức đều được chở che.
Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang hòa-nam[7] kính cẩn soạn.
 
Lời đề từ thứ nhất mở đầu sách
 
          Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn, ứng theo từng loại chúng sanh mà hiện thân, tầm thanh cứu khổ. Người đời hễ bị bệnh tật, hoạn nạn, nếu tâm có thể sửa lỗi, hướng lành, cung kính chí thành, thường niệm danh hiệu của Bồ Tát thì tùy theo lòng Thành lớn hay nhỏ, không ai chẳng được Ngài rủ lòng gia bị. [Lòng Thành] nhỏ thì gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên, [nếu lòng Thành] lớn thì nghiệp tiêu, trí rạng, chướng hết, phước tăng, thậm chí siêu phàm nhập thánh, liễu thoát sanh tử. Đáng tiếc là cõi đời phần nhiều không biết; vì thế, đặc biệt duyệt khắp kinh điển và các sách vở, soạn thành tụng văn, ghi thêm chú thích cặn kẽ, ngõ hầu khắp cõi đời đều biết Bồ Tát quả thật là thuốc men cho bệnh ngặt, là gạo thóc trong năm đói kém, là người dẫn đường nơi nẻo hiểm, là bè báu nơi bến mê. Kính mong những ai đọc sách này sẽ đều tùy theo sức mình, lần lượt khuyên dạy lẫn nhau, in, biếu, lưu truyền khiến cho hết thảy những người cùng hàng đều được gội từ ân, cùng được hưởng pháp hóa, ngõ hầu an ủi lòng Bi độ sanh của Bồ Tát, thỏa chí khăng khăng cảm thánh của đương nhân.
 
Lời đề từ thứ hai ở đầu sách
 
          Kính cẩn trình bày phương pháp xem đọc dành cho những vị chưa từng nghiên cứu Phật học.
          Ba quyển đầu trong bộ tụng văn này được chia làm hai phần lớn:
1) Từ trang thứ nhất của quyển Một cho đến dòng thứ sáu của trang hai mươi lăm [trong quyển Một] đều là những bài ca tụng các chuyện thuộc Bổn hay Tích của Bồ Tát trong kiếp xưa trích theo kinh điển.
2) Tiếp theo đó đều là những bài kệ tụng về sự tùy cơ cảm ứng của Bồ Tát ở phương này (tức cõi Sa Bà nói chung và Trung Hoa nói riêng – chú thích của người dịch).
Nếu những vị nào chưa từng nghiên cứu Phật Học thì khi xem, hãy nên đọc trước từ dòng thứ bảy trang hai mươi lăm của quyển thứ Nhất trở đi cho đến hết quyển thứ Ba, rồi đọc những phần dẫn kinh văn để chứng minh trong quyển thứ Tư. Đọc phần kinh văn dẫn chứng xong, lại xem từ trang thứ nhất của quyển Một thì sẽ chẳng cảm thấy khó hiểu, chẳng nẩy sanh ý tưởng không muốn đọc cho hết, chắc chắn sẽ hớn hở, hoan hỷ, sanh lòng cảm kích lớn lao. Đối với những điều người đời trước đã may mắn tránh được thì chính mình cũng muốn tránh. Phàm những gì người xưa đã may mắn đạt được thì chính mình cũng muốn đạt được. Bỏ cái tâm chấp trước của phàm phu, thuận theo hoằng nguyện của Bồ Tát, tự xót, xót người, tự thương, thương người. Từ đấy, thường niệm thánh hiệu của Bồ Tát, lại còn khuyên khắp hết thảy những người cùng hàng [đều niệm danh hiệu Bồ Tát] để ai nấy ắt đều tiêu trừ ác nghiệp từ vô thủy, tăng trưởng thiện căn tối thắng, gần là hưởng cái nhân “các duyên thuận thảo, không điều gì chẳng tốt lành”, xa là đạt cái quả “siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử”.
Ấn Quang bạch.
 
Lời tựa của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
 
          Một niệm tâm tánh của chúng ta bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên mà bất biến. Gặp phải duyên mê nhiễm sẽ trái giác, hợp trần, luân hồi trong lục đạo, đến mức cùng cực là đọa mãi trong địa ngục A Tỳ, nhưng tâm tánh chẳng giảm. Gặp duyên ngộ tịnh sẽ bỏ vọng về với Chân, tiến nhập, chứng đắc tam thừa, tột bậc là viên thành vô thượng giác đạo, nhưng tâm tánh chẳng tăng. Trong địa vị phàm phu, nếu được nghe danh hiệu của Phật và những ý nghĩa rất sâu trong kinh thì ngay lúc ấy pháp Bồ Đề thấm nhuần đã được gieo xuống ruộng tám thức. Tuy thoạt đầu mịt mờ chẳng tự hay biết, nhưng nếu có thể chẳng tự ruồng rẫy, phụ bạc chính mình, cực lực tăng trưởng [chủng tử ấy] thì sẽ tiếp tục từ mảy giọt trở thành ngòi rãnh, dần dần trở thành kinh rạch[8] cho đến thành sông to sóng cuộn ngập trời, cuối cùng ắt sẽ vào được biển Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí)[9], viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ “không thể được”, triệt chứng tánh Chân Như nhiệm mầu thường trụ bất biến vốn sẵn có trong tâm, từ đấy, lại do Bổn mà thị hiện Tích, dùng Quả để hành Nhân, truyền đăng cho nhau, sáng ngời vô tận. Há chẳng phải là bậc đại trượng phu vĩ đại ư?
          Kinh Pháp Hoa dạy: “Chư Phật lưỡng túc tôn, tri pháp thường vô tánh, Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết Nhất Thừa” (Chư Phật lưỡng túc tôn[10], biết pháp thường vô tánh, Phật chủng do duyên khởi, vì thế nói Nhất Thừa), thời và nghĩa của chữ Duyên lớn lao thay! Tôi từ thuở đội mũ[11] liền đọc kinh Phật; khi ấy, chỉ muốn cắt xén lấy những ý nghĩa của kinh văn để làm tài liệu viết lách. Năm Dân Quốc thứ hai (1913) mới hướng lòng về Tịnh Độ để mong thoát khỏi nhà lửa này, vào ao báu kia. Do biết Quán Âm Đại Sĩ chính là bậc hướng dẫn hàng đầu nơi cõi sen, lại hiện thân trong khắp các cõi nước nhiều như vi trần, tùy theo căn cơ lợi ích chúng sanh, lại có nhân duyên sâu đậm nhất với cõi Sa Bà. Do Bồ Tát thị hiện ứng hóa tại Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, nên bèn dấy lên ý niệm muốn đến triều bái, nhưng còn chưa có dịp khởi hành. Về sau, đọc mấy bài văn của lão pháp sư Ấn Quang đăng trên báo đề xướng niệm Phật, khuyến khích, cổ vũ [hành nhân tịnh nghiệp] hãy dốc lòng thành kính, không ngờ rất hợp với nỗi niềm canh cánh trong lòng tôi, chỉ đúng căn bệnh tôi đang mắc phải (căn bệnh ở chỗ hoàn toàn không biết thành kính, nay tự phơi bày ngõ hầu sám hối), bèn một lòng mong được gặp Ngài.
Năm Dân Quốc 11 (1922), gói ghém hành trang lên đường, lên núi triều bái, yết kiến, dâng lên thầy bài Lễ Quán Âm Sớ, rất mong được thầy hứa khả. Ngài chẳng đợi tôi thỉnh cầu, đem tặng bộ Văn Sao mà tôi vốn sẵn lòng ngưỡng mộ; nếu chẳng phải do túc duyên xui khiến, há lại có chuyện khế hợp như thế ư? Ngày hôm sau xuống núi, Sư lại ủy thác chuyện soạn Đại Sĩ Tụng, tôi cũng tự quên mình kém hèn, ngây ngô nhận lời. Tu chỉnh, thêm một thiên Đại Sĩ Tụng vào bộ [Phổ Đà] Sơn Chí là chuyện thầy đã canh cánh bên lòng mấy năm; hiềm vì tâm độ sanh tha thiết, người hỏi đạo quá đông, Ngài chưa rảnh rang để cất bút. Những người cùng học Phật nơi xứ tôi mấy năm trước đã từng yêu cầu soạn văn ca tụng sự cảm ứng của phẩm Phổ Môn, nhưng tôi sợ phải nhọc lòng nên đã viện cớ bệnh tật để thoái thác.
Đến nay, vâng lời thầy dặn dò, giao phó, rốt cuộc dùng văn chương để báo đáp [ân đức] Đại Sĩ, thỏa lòng mong mỏi của những người cùng hàng, nhân duyên ấy há có thể nghĩ bàn được ư? Trước hết là biên tập kinh văn, đến phần sự tích cảm ứng, tôi phải than thở [những sự tích cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát] mênh mang như khói tỏa trên mặt biển, chẳng biết phải viết từ đâu. Từ những lời thầy răn như “mong được lưu thông trọn pháp giới, khiến cho chúng sanh đều cùng được thấm đượm sự giáo hóa từ ái”, như “khiến cho chúng sanh trong pháp giới cùng gieo thiện căn, cùng được sanh về Tây Phương mới thôi”, như “người đọc sẽ do sách này mà hoan hỷ, sẽ hưởng lợi ích sanh thiện, phá ác, thấu hiểu lý”, bất giác đột nhiên ngộ hiểu lời thầy khuyên chính là [nói về] tấm lòng Đại Sĩ. Công đức của Đại Sĩ, [ngay cả] Phổ Hiền Bồ Tát vẫn chẳng thể suy lường được một phần bằng sợi lông thì làm sao [hạng phàm phu như tôi có thể] ca tụng được? Xó chợ cùng quê, ngu phu, ngu phụ không ai chẳng nghe danh Đại Sĩ, sùng phụng Ngài là bậc từ mẫu, há có thể ca tụng được ư? Lời ca tụng này, bất quá là nương theo Bổn Tích của Đại Sĩ để răn đời, giáo hóa cõi tục mà thôi!
Trong tác phẩm ca tụng này, trước hết là Khế Kinh, kế đến là sự cảm ứng, [tức là] Bổn trước, Tích sau[12]. Sự tu chứng được nói đến trong kinh chính là Bổn của Bổn, còn sự ứng hóa chính là phần Tích của Bổn. Những sự thị hiện theo từng loại trong phần cảm ứng chính là từ Bổn hiện Tích; cứu khổ, ban vui, chính là phần Quyền của Tích. Hoằng pháp, nhiếp hóa chúng sanh chính là Thật trong Tích. Đoạn nói về mười tâm trong phần kết luận sau đấy nhằm khuyến khích hành giả hãy từ Tích trở về Bổn.
          Hơn nữa, sự thị hiện trong loại cảm ứng đầu tiên chính là vì chúng ta trái giác hợp trần, làm nô lệ cho tai mắt đã lâu, phàm những gì chúng ta không thể thấy biết thường coi là hư giả[13], chẳng tin Pháp Thân thường trụ và [thật sự] có Phật, Bồ Tát, cũng chẳng tin Pháp Thân lưu chuyển, có nhân quả báo ứng. Nỗi họa của kiến giải cho rằng “chết rồi là hết sạch” chẳng thể kể xiết được! Vì thế, Đại Sĩ thị hiện để răn nhắc, muốn cho con người đừng cô phụ ơn Phật, đừng cô phụ tánh linh của
chính mình.
Kế đó, cứu khổ, ban vui là vì chúng ta bao kiếp mê vọng, dẫu biết tâm là chủ nhân, [xả] thân như đổi nhà, nhưng Ngã Kiến vẫn chẳng thể rỗng không được, vẫn cứ hướng ra ngoài rong ruổi tìm cầu, vẫn cứ tạo nghiệp như ôm củi chữa lửa, chỉ càng thêm tự thiêu thân. Nhất niệm hồi quang, dùng tâm chuyển nghiệp, hình ngay, bóng sẽ thẳng, đấy gọi là “tự cầu lắm phước” vậy! Kế đến là kẻ hoằng pháp, ba cõi không yên ví như nhà lửa, hy sinh những thứ quý đẹp, cam phận tầm thường mà còn tự hào, dùng Phật pháp để cầu phước báo, dùng minh châu để ném chim sẻ, người trí tiếc nuối lắm thay!
Vì thế, đẩy lùi pháp thế gian, đề cao pháp xuất thế; nhưng tu hành không gì đơn giản bằng trì danh, thành Phật không chi dễ bằng sanh về Tịnh Độ. Bởi thế, nhiếp hóa chúng sanh, để đến rốt cuộc họ sẽ quy hướng pháp này. Đấy chính là ý nhỏ nhiệm khuyên dụ dần dần, mà điều ấy cũng nhằm đề cao ý chỉ của chương [Quán Âm] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm: “Trước hết là thị hiện, kế đến là cứu khổ, thỏa mãn sở cầu, nhằm [khiến cho chúng sanh đều] quy hướng đại Niết Bàn”. Chánh văn và phần chú giải [của bộ Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng này] tổng cộng ba quyển, tôi ghép thêm vào sau sách những đoạn trích dẫn kinh văn để làm chứng, tạo thành một quyển nữa.
Soạn xong bản thảo tôi liền trình lên Ấn Quang đại sư giám định, được Ngài hứa khả rồi mới dám soạn thành bản hoàn chỉnh. Văn chương tuy kém cỏi, vụng về, nhưng đối với ý nguyện muốn nêu bày sự cảm ứng nơi Bổn và Tích của Đại Sĩ cũng không phải là chẳng giúp được tí nào! Nguyện Tam Bảo gia bị, ngõ hầu đọc giả đều tin tưởng, hành theo, sẽ về thẳng Lạc Bang, chẳng lẩn quẩn trong tam giới, triệt chứng tự tánh, thường trụ Tịch Quang. Kinh giáo trong Đại Tạng như ngón tay chỉ mặt trăng, tấm cám thế tục nào đáng cho người sáng mắt đoái hoài, nhưng thanh luận[14] đã tuyên rõ, Như Lai huyền ký[15], do lòng ngưỡng mộ Đại Sĩ, nên bất đắc dĩ vẫn chẳng tự xét mà cứ phô trương văn chương phàm tục, tầm thường. Tôi trước đã có duyên với Đại Sĩ, sau lại được kết duyên với Ấn Quang đại sư, rốt cuộc tác phẩm này có lẽ sẽ được Đại Sĩ tạo duyên mà lưu thông phổ biến trong thiên hạ mai sau, đèn nối tiếp đèn, sáng ngời vô tận, ngõ hầu thỏa nguyện độ sanh của Đại Sĩ, công khăng khăng soạn thuật cũng chẳng uổng phí. Đấy chính là điều tôi vẫn sớm tối thơm thảo cầu chúc vậy.
Đầu Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hứa Chỉ Tịnh soạn ở Bành Trạch.
 
Lời tựa thứ hai
 
          Sự khổ trong thế giới Sa Bà nhiều nhất, chúng sanh trong cõi Sa Bà nhĩ căn nhạy bén nhất. Do Quán Âm Đại Sĩ tâm từ bi tha thiết nên có nhân duyên sâu đậm nhất đối với thế giới này. Do Ngài tùy loại hiện thân, tầm thanh cứu khổ, khiến cho chúng sanh nghe danh, thấy hình, luyến mộ, tán thán. Do nhân duyên ấy khiến cho chúng sanh gần là gieo phước trong cõi trời người, xa là chứng quả Bồ Đề. Trong hội Lăng Nghiêm thuở trước, Ngài hiển thị sự tu nhân nơi bổn địa, từ Văn - Tư - Tu, nhập Tam Ma Địa, xoay [cái Nghe] trở lại nghe nơi tự tánh, chứng viên thông chân thường. Tâm diệu giác do Ngài chứng được nơi bổn địa, trên hợp với sở chứng rốt ráo của mười phương chư Phật, dưới hợp với cái tự tâm sẵn có của chúng sanh mười phương. Do vậy, Ngài và chư Phật có chung một từ lực, cùng một niềm bi ngưỡng với chúng sanh. Từ đấy, hiện thân trong mười pháp giới, dùng ba mươi hai ứng thân, mười bốn thứ vô úy, bốn thứ vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn độ thoát chúng sanh, khiến cho họ đều đích thân chứng được diệu giác chân tâm sẵn có trong tự tâm mới thôi.
Đức Phật sai ngài Văn Thù chọn lựa pháp môn khế cơ nhằm lợi lạc chúng sanh trong đời hiện tại, vị lai; nhân đấy, đức Văn Thù loại trừ [pháp Viên Thông của] hai mươi bốn vị thánh, riêng đề cao [pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của] Quán Âm. Những kẻ mò mẫm mù quáng chẳng hiểu rõ duyên do, liền bảo: “Quán Âm trúng tuyển, Thế Chí hỏng thi!” Do một lời này khiến cho những kẻ không hiểu biết miệt thị pháp môn Niệm Phật, chẳng chịu tu trì, chẳng biết Nhĩ Căn Viên Thông nhằm dành cho bậc đương cơ là A Nan vốn phạm lỗi đa văn[16] cũng như những kẻ lợi căn chuyên tham cứu hướng thượng trong đời sau, còn Niệm Phật Viên Thông thích hợp với khắp mọi căn cơ của hết thảy chúng sanh trong mười phương ba đời. Vì vậy, bậc chứng ngang chư Phật vẫn phải hồi hướng vãng sanh, kẻ sắp đọa A Tỳ mười niệm liền dự vào phẩm cuối.
Quán Âm và Thế Chí cùng là bậc thượng thủ trong cõi Di Đà, cùng nhiếp thọ người niệm Phật trong mười phương sanh về Tịnh Độ; nhưng mỗi Ngài dạy pháp tu khác biệt đôi chút. Bởi lẽ, một vị chuyên trọng niệm Tha Phật, nhưng không có Tự Phật thì làm sao hiển được Tha Phật? Một vị chú trọng niệm Tự Phật, nhưng không có Tha Phật làm sao liễu được Tự Phật? Niệm Tha Phật dường như thuộc về sự tướng, nhưng Lý do Sự hiển. Niệm Tự Phật dường như thuộc về lý tánh, nhưng Sự do Lý thành. Hiểu rõ điều này thì Tự và Tha chẳng hai, Sự và Lý như một, cùng trở về biển Tát Bà Nhã, cùng tiến nhập Bồ Đề giác đạo, đâu còn gì để luận định là giống hay khác!
Hơn nữa, trong kinh Đại Bi, Đại Sĩ dạy người tụng chú hãy “chí tâm xưng niệm danh hiệu ta” mà cũng “hãy chuyên niệm danh hiệu đức Bổn Sư của ta là A Di Đà Như Lai, rồi mới tụng chú”. Ngài còn đối trước đức Phật, tự thề rằng: “Tụng trì thần chú Đại Bi mà nếu chẳng sanh về các cõi Phật thì con thề chẳng thành Chánh Giác”. Đấy chính là “ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật” như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói. Cần biết rằng: Đại Sĩ ứng hóa từ đầu đến cuối đều lấy Niệm Phật làm pháp chủ yếu. Trong phẩm Phổ Môn, Phật dạy hết thảy phàm thánh hãy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, xét ra có khác gì niệm Phật đâu?
Phổ Đà Sơn ở phía Đông đất Chiết Giang chính là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, mà cũng là chỗ Đại Sĩ thuyết pháp cho Thiện Tài thuở ấy. Pháp sư Ấn Quang đã trụ tích[17] tại núi ấy hơn ba mươi năm, do thấy Phổ Đà Sơn Chí bản cũ chưa từng nêu tỏ sự cảm ứng của Đại Sĩ nơi Bổn và Tích, thật đúng là bỏ gốc lấy ngọn, mua rương trả châu[18], thật đáng đau tiếc, tính đem những điều thuộc về Bổn và Tích của Đại Sĩ trong Đại Tạng và sự cảm ứng tại phương này soạn thành lời ca tụng và chú thích ý nghĩa của từng điều một, lại tập hợp những sự thuộc về Bổn Tích trong các kinh để làm chứng cứ, ngõ hầu hết thảy hữu tình đều cùng biết đến ân sâu bao kiếp của Đại Sĩ, sẽ đều thường niệm, cung kính, đều được mãn nguyện. Do sức không lo xuể, bèn cậy người bạn thân thiết là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh biên soạn. May sao bản thảo đã hoàn thành, muốn sắp chữ in ra mấy vạn bản hòng lưu truyền khắp trong ngoài nước. Do vậy, tôi ghi lại nguyên do để thưa trình cùng các vị độc giả.
Giữa Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Hoàng Khánh Lan (nguyên quán Thượng Hải) viết tại dinh Đạo Doãn[19] đất Cối Kê
 
Lời tựa thứ ba
 
Hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian đều do thời tiết, nhân duyên mà phát khởi. Vì thế, cổ đức nói: “Nếu thời tiết đến, lý tự tỏ bày”. Thật đúng là như thế! Quang tầm thường, kém cỏi, trăm chuyện chẳng làm được một điều nào, ăn bám chùa Pháp Vũ ở núi Phổ Đà ba mươi hai năm. Trước kia đọc Phổ Đà Chí, thấy những điều ghi chép trong ấy đều thuộc chuyện hưng - phế của đạo tràng và những chuyện tầm thường như vậy. Còn như sự - lý, bổn - tích trong những kiếp xưa của Quán Âm Đại Sĩ cũng như những nhân duyên Ngài cảm ứng trong cõi này đều thiếu sót, sơ sài, khôn ngăn khiến người ta phải thở dài!
Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ba vị cư sĩ Vương Thái Thần, Châu Hiếu Hoài, Trần Tích Châu lên núi tìm gặp. Ông Vương, ông Châu nói:
- Phổ Đà là đạo tràng thánh địa của Quán Âm Đại Sĩ, trong ngoài nước đều kính ngưỡng, sao lại bãi bỏ giảng tòa đã lâu, nỡ để pháp đạo tịch mịch? Xin thầy hãy phát tâm giảng kinh, chúng con sẽ vì thầy trù liệu, lo toan chi phí.
Quang viện cớ mình bệnh tật, kém cỏi, hết sức từ chối. Ông Tích Châu bèn nói:
          - Sơn Chí đã lâu không tu chỉnh, bản gỗ khắc đã mờ câm. Nếu thầy chịu sửa chữa, con sẽ khắc in.
          Quang nói:
          - Chuyện ấy nào phải dễ dàng! Nếu chiếu theo lệ cũ thì phải là văn
nhân mới làm nổi. Nếu đem những chuyện tu - chứng, bổn - tích trong những kiếp xưa kia của Đại Sĩ và những sự tích cảm ứng trong phương này, mỗi chuyện đều lược thuật những nét chánh khiến cho người đọc đều biết ân Đại Sĩ trọn khắp các cõi số lượng nhiều như cát, lòng Từ tế độ không ngằn mé; từ đấy, phát khởi chánh tín, thân tâm quy y, gần là hưởng phước trời - người, xa là chứng quả Bồ Đề, mà không xem khắp Đại Tạng, tra cứu đủ mọi sách vở sẽ không thể làm được. Nếu chẳng vạch rõ các sự - lý, bổn - tích, cảm ứng của Đại Sĩ thì chính là bỏ chủ trọng khách, bỏ gốc theo ngọn, có khác gì những sơn kinh thủy chí[20] tầm thường? Làm sao tỏ rõ Phổ Đà là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, lại sao có thể tỏ rõ Đại Sĩ là bậc cha mẹ đại từ bi của pháp giới chúng sanh, có nhân duyên rất sâu đối với chúng sanh trong cõi Sa Bà cho được? Nhưng Quang do túc nghiệp đến nỗi tâm không hiểu biết, mắt gần như mù lòa, còn phải sám hối một hai năm đợi đến lúc nghiệp tiêu trí rạng, chướng hết mắt sáng thì sẽ chẳng tiếc thân mạng gắng làm cho thành tựu. Nếu như nghiệp nặng chẳng thể cảm ứng để trừ khử cho hết [nghiệp chướng] được thì sẽ qua Giang Tây, cầu cư sĩ Lê Đoan Phủ thay Quang lo liệu việc này. Ông ấy học vấn quán thông Nho - Thích, văn tài xuất chúng, ắt sẽ nêu tỏ tâm hạnh, sự tích từ bi của Đại Sĩ.
          Năm sau, cư sĩ Từ Úy Như đem Văn Sao ấn hành, khiến cho những ai không xem xét kỹ, lầm tưởng Quang là bậc tri thức; từ đấy, thư từ qua lại, ngày càng không rảnh rỗi để làm. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ tám (1919), ông Đoan Phủ quy Tây, cái tâm đã phát trước kia trở thành chuyện nói xuông! Mùa Xuân năm Dân Quốc 11 (1922), Tri Sự[21] vùng Định Hải là ông Đào Tại Đông lên núi, bảo: “Sơn Chí được lưu thông sẽ khiến cho ai nấy do tin tưởng đều cải ác làm lành, phản vọng quy chân, quả thật là nhiệm vụ quan trọng để vãn hồi thế đạo nhân tâm, hãy nên gấp rút tu chỉnh”. Quang thấy tâm ông Đào hộ pháp khẩn thiết, lòng cứu thế ân cần, liền thưa với chủ nhân hai chùa Phổ Tế và Pháp Vũ khẩn khoản xin ông Đào hãy đích thân đảm nhiệm chuyện này. Ông Đào do bận bịu việc công, bèn ủy thác vị nhân sĩ trong vùng là ông Vương Nhã Tam đảm nhiệm. Hết thảy sự việc thì ngoài có ông Đào, trong núi có hòa thượng Khai Như đã thoái ẩn[22] cùng thương lượng, châm chước lo liệu, Quang không rảnh rỗi nên tuyệt chẳng hề hỏi đến.
Năm sau, ông Đào được thăng chức, chuyển lên huyện Hàng, nhưng vẫn gởi thư từ qua lại để bàn bạc, châm chước chuyện này. Nếu chẳng phải từ xưa đã từng được Đại Sĩ phó chúc, há có được như thế hay chăng? Lúc mới vừa bàn bạc chuyện tu chỉnh Sơn Chí xong xuôi, chưa đầy một tháng thì cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh từ huyện Bành Trạch, tỉnh Giang Tây, đến viếng thăm, vừa gặp gỡ liền thành [bạn bè] thuận thảo. Quang giãi bày nỗi niềm ấp ủ khi xưa, đem chuyện soạn Đại Sĩ Tụng nhờ vả, ông bèn chấp thuận ngay. Nếu chẳng phải do Đại Sĩ ngầm gia bị, làm sao có dịp gặp gỡ như vậy cho được?
          Ông Hứa bèn tra cứu khắp Kinh Tạng và các sách vở, phải mất hai năm mới hoàn thành bản thảo, soạn thành tụng văn gần hai vạn chữ. Lại còn chú thích những ý nghĩa liên quan để người đọc biết hết căn cội; lại còn trích lục các kinh để làm chứng cớ. Tụng Văn gồm ba quyển, dẫn chứng từ kinh văn gồm một quyển, tổng cộng hơn ba trăm bảy mươi trang, được gởi đến [Phổ Đà] vào đầu mùa Hạ. Những ý nghĩa của Tụng Văn đã được trình bày trong lời tựa của ông Hứa; ở đây không nhắc lại nữa. Trước kia, Quang vốn muốn đặt phần này vào đầu bộ Sơn Chí, nay vì số quyển quá nhiều, nên đặc biệt cho khắc in riêng để lưu truyền khắp hậu thế. Nếu in chung với bộ Sơn Chí ắt khó thể lưu truyền rộng khắp được.
Đại Sĩ từ vô lượng kiếp đến nay phân thân trong các cõi nhiều như bụi trần, bổn - tích cảm ứng của Ngài chỉ mình Phật có thể biết được nổi. Mấy quyển tụng văn này chẳng qua chỉ là một hạt bụi nơi đại địa, một giọt nước trong biển cả, khiến cho những ai chẳng biết lòng Từ sâu xa, lòng Bi lớn lao của Đại Sĩ sẽ biết được đại khái. Từ đấy, hổ thẹn, đột nhiên dũng mãnh nói: “Tâm của chúng ta và tâm của Đại Sĩ không hai, không khác, Đại Sĩ đã viên thành Phật đạo bao kiếp lâu xa, lại dùng bi tâm vô tận chẳng lìa cõi Tịch Quang, thùy tích[23] trong chín giới hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay luân hồi trong sáu nẻo, được hưởng ân dẹp khổ ban vui của Ngài không biết là bao nhiêu! Mãi cho đến ngày nay, vẫn còn là phàm phu. Trên đã phụ thâm ân Đại Sĩ cứu vớt, dưới phụ bạc Phật tánh sẵn có của chính
 
mình. Lặng im suy nghĩ, há không thẹn đến chết ư? Ngài đã là trượng phu thì ta cũng thế. Chẳng nên tự khinh để rồi lui sụt!”
          Do vậy, chuyển biến phàm tình, noi theo dấu Thánh, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, dứt lòng tà, giữ lòng thành, tận lực hành điều thiện thế gian, kiêm tu Tịnh nghiệp, lâu dần đều được biến đổi. Bậc thượng thì ngay trong đời này đoạn Hoặc, chứng Chân, liễu sanh thoát tử, bậc hạ thì đến lúc lâm chung cậy vào Từ lực của Phật vãng sanh Tây Phương. Được như thế thì ai nấy đều giữ vẹn lễ nghĩa, ai nấy biết nhân quả, tự nhiên can qua dứt, tai họa do con người gây ra vĩnh viễn dứt mất, mưa thuận gió hòa, quyến thuộc cõi trời thường đến. Nhiệm vụ trọng yếu căn bản để vãn hồi thế đạo nhân tâm như ông Đào đã nói chính là chuyện này đó chăng? Mong sao những ai thấy nghe đều cùng phát tâm kính ngưỡng Đại Sĩ, gắng sức tu tập thì may mắn lắm thay!
Giữa Thu năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 (1924), Cổ Tân[24] Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng kính soạn
 
Phụ Lục - Lời tựa cho bản Phổ Đà Sơn Chí in theo lối thạch bản[25]
 
Quán Thế Âm Bồ Tát từ vô lượng kiếp trước thành Phật đạo đã lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh, nhưng do ý niệm độ sanh khẩn thiết, tâm cứu khổ ân cần, chẳng lìa Tịch Quang, hiện hình trong sáu nẻo. Trong các cõi Phật nhiều như vi trần ở khắp mười phương, hiện đủ mọi sắc thân độ thoát chúng sanh, chứ nào phải chỉ hiện thân Bồ Tát; còn trong Nhị Thừa, lục đạo, không thân nào chẳng hiện. Kinh Pháp Hoa nói: “Nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp”. Tuy vào khắp các cõi Phật mười phương, nhưng Ngài có nhân duyên rất sâu với cõi Sa Bà. Tuy hiện thân khắp mười pháp giới, nhưng căn cứ trên sự ứng tích, người đời chỉ nói Ngài là Bồ Tát mà thôi. Do Ngài chứng triệt để duy tâm, phô bày trọn vẹn tự tánh, nên vận dụng lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên. Do Bổn cao, Thể đại, nên Tích quảng, Dụng rộng[26]. Tùy loại hiện hình, theo tiếng cứu khổ. Thị hiện hễ có cảm liền ứng, không nguyện nào chẳng thuận theo, như mặt trăng vằng vặc giữa trời, hiện bóng trong mọi nơi có nước. Không chỉ sông, hồ, rạch, biển đều hiện bóng vẹn toàn, dù chỉ một chước[27], một giọt, không đâu chẳng đều hiện bóng toàn vẹn.
          Lại nữa, bóng trăng hiện trong sông, hồ, rạch, biển, một người nhìn vào thì thấy mặt trăng ấy đối trước người đó; trăm ngàn vạn người ở trăm ngàn vạn nơi nhìn vào thì mỗi một người đều thấy trăng đối trước chính mình. Nếu người ấy đi sang Đông, trăng cũng theo sang Đông; nếu đi sang Tây, trăng cũng theo sang Tây. Nếu người ấy đứng yên chẳng động, trăng cũng chẳng lìa nơi ấy. Từ một người cho đến trăm ngàn vạn người đều như vậy. Trong một niệm, nếu khắp pháp giới cảm, Bồ Tát bèn ứng khắp pháp giới. Cảm ứng đạo giao, không sai khác chút nào! Giống như mặt trăng hiện bóng trong mọi chỗ có nước, người nào, nơi nào cũng đều thấy trọn vẹn bóng trăng, trọn chẳng sai khác gì! Ấy là do Bồ Tát tâm gồm trọn thái hư, lượng gồm thâu các cõi nhiều như cát. Do lấy tâm chúng sanh làm tâm, do lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh [của chính mình], nên chẳng nghĩ tưởng mà hợp, vô duyên bèn ứng. Há thế trí phàm tình hòng có thể tính lường được ư?
          Còn nếu như nước đục, mắt lòa, thì trăng chẳng thể hiện, phải đâu trăng không hiện, mà là do lỗi của nước đục, mắt lòa đấy chứ! Xét cảm ứng trên mặt Tích, thì có hiển cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng (cảm ngầm, ứng ngầm), minh cảm hiển ứng, hiển cảm minh ứng, diệc minh diệc hiển cảm nhi hiển ứng (vừa hiển vừa ngầm cảm mà lại hiển ứng), diệc minh diệc hiển cảm nhi minh ứng (vừa ngầm vừa hiển cảm mà lại ngầm ứng) sai khác (“Hiển cảm hiển ứng” là ngay trong đời này dốc lòng thành, cạn lòng kính lễ niệm cúng dường thì sẽ được gia bị, gặp điều hung trở thành điều lành, gặp nạn thành may, và nghiệp tiêu chướng tận, phước tăng, huệ rạng v.v… “Minh cảm minh ứng” là trong đời quá khứ từng tu những hạnh cạn lòng thành, tận lòng kính lễ niệm, đời này tuy chưa tu tập, nhưng do thiện căn trong đời trước, được Ngài gia bị mà không hay không biết, họa diệt, phước đến, nghiệp tiêu chướng tận v.v… “Minh cảm hiển ứng” là đời trước từng gieo thiện căn, đời này được gia bị. “Hiển cảm minh ứng” là đời này dốc lòng thành, kiệt lòng kính lễ niệm, chẳng thấy được gia bị, âm thầm được Từ lực gia bị khiến hung lui, cát (tốt lành) đến, nghiệp tiêu, chướng tận v.v… “Diệc hiển diệc minh cảm hiển ứng” là đời trước đã từng gieo thiện căn, đời này dốc cạn lòng thành lễ niệm, được gia bị rõ ràng, chuyển họa thành phước v.v… “Diệc hiển diệc minh cảm minh ứng” là đời trước từng gieo thiện căn, đời này dốc lòng thành lễ niệm, âm thầm được Từ lực gia hộ, đạt được các thứ lợi ích. Hiểu rõ điều này sẽ biết công chẳng hư uổng, quả chẳng tự nhiên mà có. Dẫu cho trọn đời chẳng thấy dấu hiệu gì được gia bị, cũng chẳng đến nỗi sanh tâm oán vọng, bỏ cuộc giữa đường. Đạo cảm ứng vi diệu khó thể nghĩ suy, tạm ghi đại lược để khơi gợi cho người sáng suốt trong mai sau).
          Sự ứng hiện ấy lớn - nhỏ, hơn - kém là do lòng Thành đã đến mức cùng cực hay chưa mà thôi! Dẫu cho tâm không thể tin chắc, chưa chí thành đến cùng cực, nhưng nếu có thể nhất niệm dốc lòng Thành ắt cũng đạt được lợi ích. Nhưng tùy theo một niệm chí thành của mình mà chia ra hơn - kém, lợi ích đạt được sẽ chẳng thể siêu tuyệt như người dốc cạn lòng Thành, tận hết lòng kính. Giống như trăng vẫn hiện bóng trong nước đục, nhưng lờ mờ không rõ. Người mù tuy chẳng thể đích thân thấy được ánh trăng, nhưng có khi nào chẳng được ánh trăng chiếu soi? Bồ Tát đại từ đại bi, làm chỗ nương tựa cho các chúng sanh trong khắp pháp giới. Do vậy, nhân dân cả nước ai nấy đều tín phụng, vì thế mới thường nói “nhà nhà Quán Thế Âm”.
          Đạo tràng ứng hóa của Ngài cố nhiên không phải chỉ có một chỗ. Như Nam Ngũ Đài Sơn, Đại Hương Sơn ở Thiểm Tây, Thiên Trúc Sơn ở Chiết Giang v.v… là những nơi cảm ứng rõ ràng, hương đèn nhộn nhịp, nhưng chỉ có Nam Hải Phổ Đà Sơn thật là bậc nhất do tên chỗ này được ghi trong kinh Hoa Nghiêm, năm xưa Thiện Tài đích thân tham học [tại đây]. Ân trọn khắp mọi loài, hoàng đế các đời sắc kiến[28], nên được cả cõi đời sùng kính, các nước ngưỡng mộ.
Tưởng nghĩ Bồ Tát ứng hóa cho hàng căn cơ Đại Thừa trong tam thừa thiên tiên, nên trải bao kiếp thường trụ nơi núi này, chứ nào phải chỉ dài lâu như trời như đất. Nhưng về phía thị hiện ứng tích cho phàm phu thì trong năm Trinh Minh thứ hai (916) nhà Châu Lương[29] thời Ngũ Đại, Huệ Ngạc[30] đại sư thỉnh tượng Quán Âm bằng đồng từ núi Ngũ Đài muốn đưa về Nhật Bản. Đi đến đây, thuyền bị ách lại không đi được nữa, mới bèn khai sơn. Đến nay đã hơn một ngàn năm, sự tích, thi văn được biên soạn thành tập với tựa đề là Phổ Đà Sơn Chí.
Tôi thường hay bệnh nên đối với những sự - lý cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát thật khó phát huy. Tính đọc khắp Đại Tạng, xem trọn các sách, phàm những sự tích Bồ Tát tùy cơ ứng theo lòng cảm đều ghi chép đầy đủ, khắc bản lưu thông, một là để xiển dương đạo mầu độ sanh của Bồ Tát, hai là khải phát duyên lành thoát khổ cho chúng sanh; nhưng do bệnh mắt chưa lành, chưa thể như nguyện.
          Cư sĩ Hà Liêm Thần ở Cối Kê, thấu hiểu tâm tủy đạo Nho, y thuật được xưng là quốc thủ[31], chí hạnh cao khiết, tín tâm thuần chân, từng kêu gọi đồng nhân[32] lập Tang Du Xã[33], với ý nghĩa cảnh chiều tà không còn
 
nhiều, nghĩ cách quay về, đồng tu Tịnh nghiệp, cầu sanh An Dưỡng. Lại do hết thảy chúng sanh đắm chìm trong biển khổ đã lâu, chẳng nương vào pháp lực thì không cách nào vượt ra được, tính đem những sự tích ứng hóa của Bồ Tát làm thuyền cứu mạng, thả trong biển khổ, vung tay kêu gấp để dẫn dắt những kẻ chìm đắm lên thuyền, ngõ hầu cùng lên được bờ kia, về thẳng quê nhà, vĩnh viễn lìa khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng những sự vui. Do vậy, bèn cho in thạch bản cuốn Phổ Đà Sơn Chí để lưu truyền rộng rãi hòng đền ân Đại Sĩ độ sanh, tạo đường nẻo cho chúng sanh gieo lòng Thành. Ông ta bảo tôi viết lời tựa, tôi khôn ngăn hoan hỷ, quên phứt mình kém hèn, liền đem những chuyện cảm ứng mầu nhiệm của Bồ Tát nêu tỏ đại lược. Những sự tích khác, cố nhiên đã chép trọn vẹn trong sách, cần gì phải dài dòng nữa!
Mùa Xuân năm Kỷ Mùi, tức năm Dân Quốc thứ tám (1919), Cổ Tân Thường Tàm Quý Tăng Ấn Quang Thích Thánh Lượng kính soạn
 
Phụ lục - Bài ký về chuyện Quán Âm Bồ Tát ứng tích tại Nam Ngũ Đài Sơn & lời tán tụng
(Núi này cách tỉnh thành Thiểm Tây bảy mươi dặm)
         
Bài ký về sự thị hiện ứng tích văn từ điển nhã, tường thuật sự việc tinh tường. Tiếc rằng diệu lực vô tác chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát còn chưa được nêu tỏ. Quang tôi chẳng nề hà kém tệ, gượng soạn một bài tán để đặt ở trước, mong sao sự lý viên dung, Thể lẫn Dụng cùng được nêu tỏ. Nguyên do chúng sanh có thể cảm, nguyên do thánh có thể ứng đều được nêu bày, ngõ hầu người sau đọc đến liền phát Bồ Đề tâm, thấy người hiền mong được bằng, lấy tâm của đức Quán Âm làm tâm mình, lấy việc của ngài Quán Âm làm việc của mình, để rồi cũng là đức Quán Âm trong đời vị lai. Tuy văn từ chẳng bóng bảy, trang nhã, nhưng ý nghĩa cũng đáng chấp nhận được. Tán rằng:
          Quán Âm đại sĩ trong vô lượng kiếp, thành Phật đã lâu. Vì độ chúng sanh chẳng lìa Tịch Quang, hiện thân Bồ Tát. Lại còn ứng khắp quần cơ, hiện hình trong lục đạo. Dùng ba mươi hai ứng thân, mười bốn vô úy, bốn vô tác diệu lực chẳng thể nghĩ bàn, tầm thanh cứu khổ, độ thoát quần manh. Nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Khác nào trăng in bóng trên ngàn con sông, mùa Xuân tăng trưởng muôn cây cỏ. Tuy trọn chẳng tính nghĩ, nhưng chẳng sai sót mảy may. Ấy là vì triệt chứng duy tâm, tỏ trọn tự tánh. Vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên, lấy niệm của chúng sanh làm tâm, lấy hết cảnh trong pháp giới làm lượng. Do vậy biết vô tận pháp giới vô lượng chúng sanh đều ở trong tâm tịch chiếu của Bồ Tát. Cho nên được mây bủa cửa Từ, sóng trào biển Bi, hễ cảm liền ứng, không nguyện nào chẳng thỏa!
          (Năm Giáp Dần tức năm Dân Quốc thứ ba (1914), Ấn Quang Thích Thánh Lượng đảnh lễ kính cẩn viết. Từ đây trở đi là phần ký về sự thị hiện ứng tích)
 
          Hang Đại Sơn Nham là chỗ rồng rắn ở, lâu năm biến thành yêu tinh, mặc tình gieo hung tác nghiệt, ăn nuốt không ngừng, gây họa lây cho dân chúng, biến ra hình thù quái dị bay lên, không ai chế ngự nổi. Nếu không phải bậc ứng thân Đại Sĩ, ai có thể cứu tế cho được! Vòi vọi thay diệu trí thần lực chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng trong cảnh chẳng nghĩ bàn, gượng dùng văn từ để ghi chép, thuật lại sự tích, ngõ hầu gợi lòng tin sâu xa cho những bậc quân tử cả ngàn năm sau.
Xưa kia, vào thời Tùy, trong niên hiệu Nhân Thọ (601-604), núi này có độc long. Do nó có sức thần thông tạo bởi nghiệp lực, nên biến hình thành người mặc áo lông (đạo sĩ)[34], cầm đan dược đi bán ở Trường An, trá xưng tiên thuật để lừa kẻ ngu tục, bảo thuốc ấy linh lắm, uống vào lập tức bay lên trời. Ô hô! Người dân vô tri nhẹ dạ tin lời ấy, phàm kẻ uống thuốc ấy bay lên trời không biết là bao nhiêu! Nào có biết sẽ bị rớt xuống sào huyệt của đạo sĩ ấy để thỏa bụng miệng hắn?
Dân cư một phương vẫn mê chẳng ngộ, chỉ có đức Đại Sĩ ta do sức bi nguyện, hiện thân tỳ-kheo, kết cỏ làm am, sống trên đỉnh núi ấy, dùng sức diệu trí hàng phục thần thông yêu quái ấy, dùng gió thanh tịnh trừ khử nhiệt não cho nó. Ý niệm từ bi thấm đến, độc khí ngầm tiêu, rồng được thanh lương ở yên trong hang núi. Dân chúng nhờ đức ấy đều giữ được mạng sống. Chuyện quái dị xưa kia chẳng còn thấy nữa. Do vậy, sự thi ân linh ứng ấy thấu đến triều đình. Vì Sư có công đối với đất nước, có ân đối với dân, nên lập chùa trên đỉnh núi để đáp tạ. Đại Sĩ dùng gió Từ, mưa pháp cứu khắp hàm linh, huệ nhật sáng ngời thanh tịnh, phá các tối tăm. Do vậy, người quyền quý[35] ngưỡng mộ, kẻ bình dân khâm phục phong cách, cắt lưới ái để quy chân, bỏ trâm anh để nhập đạo. Đại Sĩ thường ngồi trên tảng đá, vượn núi, thú hoang quây quần bên tòa, trăm loài chim tụ họp đông nghịt, đậu lặng lẽ như đang nghe pháp âm, một lúc lâu sau mới bay đi.
Ô hô! Dựng chùa vừa được một năm thì vào ngày Mười Chín tháng Sáu, Đại Sĩ đột nhiên thị hiện vô thường, điềm nhiên nhập diệt. Mùi hương lạ ngập thất, sương sầu phủ kín trời, chim thú kêu ai oán, núi rừng đổi sắc. Lúc đó, mọi người trong chùa nghe triều đình sai sứ đem hương ban xuống, phụng chỉ phúng điếu, phong tặng để đề cao phước ngầm. Lúc làm lễ trà-tỳ[36], trời đất tối tăm, trong khoảnh khắc ấy, [nơi ấy] hóa thành cõi bạc, chợt nghe trên không trung vang lên tiếng tiêu, tiếng trống, núi non lay động, mây lành phủ trùm, hương lạ ngào ngạt. Từ trên ngọn núi phía Đông chợt hiện ra cái cầu vàng, trên cầu thiên chúng đứng thành hàng, ai nấy cầm tràng phan và rải hoa vàng phơi phới chẳng rơi xuống đất. Cuối cùng trên ngọn Nam Đài, trăm thứ báu chói ngời, nhiều không biết xuể, xông lên tận trời không ngằn mé! Trong đó, [Bồ Tát] hiện tướng tự tại đoan nghiêm, từ dung vĩ đại, rực rỡ, anh lạc, thù y[37], gió trời hiu hiu, sáng ngời trước mắt. Khi ấy, hai chúng Tăng - tục một ngàn một trăm mấy mươi người đều thấy dung nghi thật sự, buồn vui lẫn lộn, không ai chẳng khóc lóc chiêm lễ, quy y, xưng danh hết sức cung kính. Lúc ấy mới biết là Quán Âm Đại Sĩ thị hiện ứng tích vậy! Thanh khí, dị hương đọng lại cả tháng.
Quan Tả Bộc Xạ[38] là ông Cao tấu trình đầy đủ sự việc. Hoàng thượng xem tờ biểu, than thở hồi lâu, thâu thập di cốt lập tháp, đích thân viết biển đề, ban hiệu là Quán Âm Đài Tự, ban tặng ruộng đất rừng núi mỗi chiều rộng trăm dặm. Mỗi năm ban ngự hương để chư Tăng làm lễ cúng tôn sùng pháp hóa rộng lớn. Đến năm Đại Lịch thứ sáu (771) đời Đường, đổi tên chùa thành Nam Ngũ Đài Sơn Thánh Thọ Tự. Thời Ngũ Đại, chiến tranh liên miên, điện vũ thuộc các đài đều bị thiêu hủy, chỉ còn tàn tăng, nhà nát ở lẫn cùng gỗ đá.
Đến mùa Hạ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ ba (978) đời Tống, trước sau sáu lần hiện những điềm lành như mây lành có hình tròn năm màu. Vị Tăng chủ trì là Hoài Vĩ tâu trình đầy đủ lên quan Phủ Doãn, được quan tâu lên triều đình. Triều đình bèn sắc tứ bảng vàng, đề là Ngũ Đài Sơn Viên Quang Tự. Do vậy, tu sửa, xây thêm điện báu, đắp vẽ tượng Bồ Tát. Ráng khói hương cùng vàng, ngọc đua sáng; nhịp mõ cùng tiếng gió thổi qua rặng tùng cùng diễn nhiệm mầu. Nhà cửa trong các đài trên dưới đều xây dựng mới, trụ trì tiếp nối hương đèn chẳng dứt. Từ quang chiếu sáng, đá ươm mây lành, mưa pháp thấm đẫm, nước thành cam lộ.
Cách mấy trăm bước về phía Nam Đài, có một thạch tuyền, chảy vào một cái ao hình vuông, sắc vị ngọt sạch, trừ được nhiệt não, làm tươi nhuận sự khô kháo. Mở rộng ra thời tràn ngập sa giới (các cõi nước nhiều như cát), thâu hẹp lại thì ao đá lặng trong. Có lúc hạn hán gắt gao, người nghênh thỉnh đứng nối tiếp nhau bên đường, đều được cảm ứng như lòng mong, châu quận đều ghi rõ [chuyện này] trong sách vở. Hữu tình được hưởng phước, cây cỏ đượm ân. Từ xưa đến nay, tiếng tăm chẳng mất.
Ôi! Đại Thánh dùng sức bi nguyện, phước phủ một phương, mà dân một phương ấy cũng chẳng quên ân phước từ bi. Mỗi dịp Thanh Minh và nhằm ngày kỵ cuối Hạ, chẳng ngại xa xôi trăm dặm, trèo leo khó khăn, hiểm trở, đều mang tấm lòng thanh tịnh noi dấu chân lên đến nơi, nào phải chỉ trăm ngàn vạn? Dìu già, dắt trẻ, đông nghịt đường nẻo, kéo dài hơn cả tháng. Ai nấy đều dùng hương hoa, âm nhạc, lọng lụa, tràng phan, vật dụng cần dùng để cúng dường. Rồi đầu mặt đảnh lễ, hết sức cung kính chiêm ngưỡng hình tượng, đi nhiễu, tán thán, không ai chẳng gột tội, được phước, trừ chướng, đượm ân, nào uổng công bôn ba leo trèo. Vị Tăng trong chùa là Pháp Nhẫn lo rằng năm tháng đã lâu, dấu thiêng bị chìm mất, nên đem các tấm bia hư vỡ nhờ ghi chép lại, Phổ Minh cố từ tạ nhưng chẳng được, thật xấu hổ chẳng phải là tay văn tài. Nếu gặp được bậc hiền sĩ sửa đổi cho đúng, chẳng hợp lẽ hơn ư?
Thái Bạch Sơn Thích Phổ Minh kính cẩn soạn (Đời nhà Nguyên, tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ bảy (1270) lập bia).
 
Bài tựa cho bản Phổ Đà Sơn Chí in theo lối thạch bản đã nêu rõ lý cảm ứng rất tường tận. Bài ký về sự thị hiện ứng tích tại Nam Ngũ Đài chính là dấu tích thật sự của chuyện Đại Sĩ hiện thân tỳ-kheo cứu khổ, đấy cũng chính là căn nguyên của lễ hội dâng hương vào ngày Mười
 
Chín tháng Sáu, cho nên tôi sao lục ngõ hầu độc giả sẽ sanh lòng chánh tín.
Thích Ấn Quang kính đề.
 
Phụ Lục - Lễ Quán Thế Âm Bồ Tát Sớ
(Đây chính là nguyên nhân soạn cuốn tụng văn này cho nên sao lục thêm vào đây)
 
          Từng nghe chư Phật Như Lai lấy đại bi làm Thể, Bồ Đề Tát Đỏa[39] nương theo Bát Nhã quán tâm. Tịch diệt hiện tiền, nên đắc thượng đồng hạ hợp; chân không vô tướng, bèn có thể cứu khổ tầm thanh. Bậc Thất Hạnh mới bắt đầu vào cõi tục độ sanh, ngôi Lục Địa mới dần dần tu tập đồng sự, ái ngữ. Nếu chẳng thành Chánh Giác đã lâu, hiện thân Liệt Ứng[40] để hành hạnh Từ, độ hết chúng sanh rồi mới hiện rõ tướng thành Phật; ai có được sức oai thần vòi vọi như thế hay chăng?
Cung kính tán dương bậc đại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, trụ trong núi Bổ Đát Lạc Ca (Potalaka), đắc pháp đại bi giải thoát, sư thừa Tĩnh Trụ[41], thị hiện thánh hiệu Chánh Pháp Minh. Bổ xứ Di Đà, được thọ ký non cao công đức. Bảo Tạng trụ thế, hồi hướng Bồ Đề[42]. Vườn rừng oai đức, thệ nguyện rộng sâu. Từ Văn - Tư - Tu, đốn nhập Chánh Định, đắc viên thông chân thường, mọi chuyện đều chân thật. Huân tu Kim Cang tam-muội, thanh tịnh bảo giác viên dung. Mười bốn vô úy, phước trọn chúng sanh. Ba mươi hai ứng thân, độ khắp muôn loài đều thành Đẳng Giác. Trọn đủ công đức đại tự tại, diệu dung liền hiện. Có đức chẳng thể nghĩ bàn, ban thí cực quả. Vì thế, niệm danh Ngài một niệm, công đức bằng với trì niệm sáu mươi hai ức danh hiệu các vị Bồ Tát khác. Hai mươi bốn pháp Viên Thông của các thánh giả đều phải lui nhường. Một nẻo Niết Bàn, ba đời học Phật vẫn phải kính nghe; thị hiện Phổ Môn, tám vạn người phát Vô Đẳng Đẳng. Đã thế, phù tá Di Đà, tuy ngự An Dưỡng, nhưng vì nhiếp hóa chúng sanh, hiện trụ Sa Bà.
Kim Thành, Hùng Nhĩ, đua nhau thuật chuyện hóa thân. Ngũ Đài, Tứ Châu, cùng phô thánh tích. Thậm chí, nơi vỏ sò, nghêu, hiện hình tượng mầu nhiệm trang nghiêm; trứng gà, ba ba, thấy dấu tích kim dung chói rạng. Vì thế biết thâm ân của từ phụ dẫu đốt thân vẫn khó đáp đền. Lòng đau đáu thiết tha, quả thật phải gào than, ứa lệ! Đệ tử Chỉ Tịnh bỏ cha trốn đi, đói rách chốn quê người đã lâu ngày[43], trôi giạt theo nghiệp, càng dùng dằng hết nửa đời người. Tám năm phụng sự, gánh phân, bỏ vàng. Ma bệnh trói buộc[44], nhận bọt sóng quên mất biển cả, tự thẹn mê cuồng[45], phát tâm kính lễ dưới chân Đại Sĩ (lễ tượng Tam Thánh tại nhà); tay lần chuỗi niệm Phật, mỗi ngày ba trăm lượt. Đảnh lễ, tụng kinh (chỉ kinh Di Đà), mỗi tháng một trăm lẻ tám quyển, đọc văn Kim Cang, chỉ cầu làm Phật. Lễ kệ Phổ Hiền, phát nguyện độ sanh; niệm chú Vãng Sanh, đức Phật thường trụ trên đảnh. Trì thần chú Đại Bi, nước tắm cũng độ được người[46]; đều cậy vào những nhân duyên đại thiện như thế, để làm công cứ vãng sanh. Vả nữa, đời này độn căn, ma chướng khó tiêu, túc thế oan nghiệt sâu nặng, chánh tín dễ lui sụt, bèn toan gõ cửa Bạch Hoa[47], kiền thành tham lễ tượng báu. Như Từ Mẫn[48] sang Tây, mong được thấy thánh dung thật sự; học Thiện Tài đi về phương Nam, nguyện gặp bạn thánh. Vẫn xin Ngài từ bi thương xót, hãy gấp gia bị cho con, giữa mây thị hiện cho Trương Sứ thấy, anh lạc đoan nghiêm[49]; vách đá hiện thân cho Sử tướng, kim quang chói ngời[50]. Cam lộ quán đảnh, tăng biện tài cho Trí Giác[51]. Tay báu phanh ruột, chữa chứng khí tật cho Pháp Nghĩa[52].
Nay con vẫn còn gởi thân nơi đất khách, chưa được ở yên, xin Ngài ban cho nhà đẹp, mong được thấu hiểu pháp môn. Lần chuỗi Lý mẫu, biết trước lúc mất. Ăn khoai Đình Chương[53], định ngày về Tây. Ấn sáp ép xuống kim nê, ấn nát mà nét ấn đã hiện, niệm Phật, Phật bèn tùy tâm hiện, duỗi cánh tay sen hồng, đón lên đài vàng, phóng bạch hào quang, đẫn về gác báu, cùng chứng An Lạc. Chúng sanh và Phật vốn chẳng sai biệt, cách ngăn. Trở lại Sa Bà, mẹ con chẳng hề xa cách. Trình tâm nguyện ấy, cúi xin chứng minh. Ngày hôm nay trên đá kim cang, quy y bậc đạo sư nơi biển trí, đến năm nào trong tương lai, nơi đóa hoa Ma Ni, con sẽ được theo hầu vị thiện hữu thù thắng đội mão trời.
Tiết Xuân năm Nhâm Tuất, tức năm Dân Quốc 11 (1922), Bành Trạch Hứa Chỉ Tịnh kính soạn (chữ Táp (卅) đọc âm giống chữ Tát (薩), nghĩa là ba mươi)
 
Phàm Lệ[54]
 
1. Sách gồm bốn quyển, ba quyển đầu là tụng văn, ca tụng nhân duyên nơi Bổn và Tích của Quán Âm Bồ Tát trong những kiếp xưa và sự tích cảm ứng trong phương này. Quyển cuối gồm những trích dẫn kinh
 
văn nhằm làm chứng, trích dẫn đại lược mười mấy bộ kinh ngõ hầu đọc giả biết duyên do đại sự của đức Quán Âm, cũng như chú thích cặn kẽ những điều thuộc về Bổn và Tích của Ngài trong tụng văn ở phần trước (trong phần văn ca tụng Bổn và Tích trong các quyển trước, dưới mỗi đoạn văn có lời chú thích đại lược nhưng từ ngữ và ý nghĩa chưa thể trọn đủ, nên cần phải tham khảo phần kinh văn dẫn chứng này thì mới có thể thông suốt nguyên ủy). Lại kèm thêm một quyển ca tụng kinh Kim Cang vì người trì tụng kinh này rất đông nên tôi cũng soạn văn ca tụng để mong người đọc sẽ được hưởng lợi ích thật sự. Tuy không phải là cùng một bộ sách với phần trước, nhưng do muốn được lưu truyền rộng rãi nên tôi kính cẩn ghép vào cuối bộ sách này.
          2. Sách Quán Âm Bổn Tích Tụng gồm bốn quyển này chính là quyển đầu của bộ Phổ Đà Sơn Chí. Do số quyển [của Phổ Đà Sơn Chí] khá nhiều, nên đem [sách Quán Âm Bổn Tích Tụng này] ấn hành riêng nhằm mong được lưu truyền rộng rãi.
          3. Cách phân chia chương mục trong sách này hết sức giản lược, chẳng câu nệ theo lệ thường, chỉ nhằm trình bày đại cương. Hơn nữa, trong phần tụng văn, gặp chỗ nào cần thiết cũng sẽ tùy nghi diễn giải, hơi khác với sườn bài. Các chương như các tướng thị hiện tại Phổ Đà, sẽ đặc biệt đánh số một, hai v.v... cho tiện tra cứu.
          4. Phàm trích dẫn kinh, luận và các sách không thuộc nhà Phật đều trích dẫn đại lược nguyên văn. Danh xưng của nguyên tác [được trích dẫn] cũng tuân theo cách gọi tắt (như những sách được nêu trong phần chú thích, có những danh xưng như Khoáng Viên, Quái Viên, Hữu Đài Tiên Quán[55] v.v... đều là tên của những bộ bút ký)
          5. Nếu phần chú thích của tụng văn khá chi ly, chẳng dễ đối chiếu, thì đối với mỗi câu tụng văn liên quan đều ghi những con số 1, 2, 3 v.v... trước mỗi câu để độc giả có thể dựa theo con số trước mỗi câu để kiếm phần chú thích tương ứng sẽ có thể thấy được ngay. Nếu phần chú thích của tụng văn không quá rắc rối, dễ đối chiếu, hoặc là lời chú thích cho cả một đoạn kinh văn, hoặc chú thích vài ý nghĩa liên quan đến tụng văn, không thể cắt rời từng phần được thì không đánh số.
          6. Cách chấm câu: Đối với mỗi đoạn tụng văn sẽ chia thành hai câu để người mới học đọc tụng thuận tiện. Còn những phần chú thích

cho lời tựa chẳng hạn thì không tuân theo lệ ấy, cứ mỗi một đoạn lớn là một câu để lời văn khỏi bị cắt vụn, tản mạn.
          7. Sau khi bản thảo hoàn thành, giao cho thợ in, ấn loát lưu truyền, có những chỗ nào chưa thỏa đáng thì mai sau rảnh rang sẽ sửa đổi lần nữa cho được hoàn thiện.
 
[1] Đồng Thể Bi: Coi hết thảy chúng sanh giống hệt như chính mình, phát lòng thương xót khởi tâm cứu độ trừ khổ não cho chúng sanh giống như tự cứu độ chính mình. Nói rộng hơn, do nhận biết hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh của mỗi một chúng sanh không khác gì chính mình, không còn phân biệt ta và người. Do vậy, trừ khổ não cho chúng sanh chính là trừ khổ não của chính mình.
[2] Vô Duyên Từ: Vô Duyên Từ là mức cao nhất trong ba loại Từ (Chúng Sanh Duyên Từ, Pháp Duyên Từ và Vô Duyên Từ), tức là lòng từ bi bình đẳng, không có đối tượng đặc biệt nào để nương tựa vào, hoàn toàn không còn thấy có sự đối lập giữa mình và người. Đây là thứ từ bi chân thật tuyệt đối. Trong Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã giảng lòng Từ này như sau: “Chư Phật khéo tu hành Tất Cánh Không nên gọi là Vô Duyên”. Trong Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Giảng Ký, pháp sư Hiển Minh giảng: “Hiểu rõ phiền não chính là Bồ Đề, sanh tử chính là Niết Bàn, pháp giới nhất tướng. Lại tiến thêm một tầng nữa, thiện - ác xét đến cội nguồn đều là do cùng một tâm tạo. Chúng Sanh Duyên Từ là pháp tu chung của cả ba thừa, Pháp Duyên Từ là pháp tu của Bồ Tát, Nhị Thừa cũng tu được chút phần. Còn Vô Duyên Từ là Trung Đạo Phật pháp, Nhị Thừa không thể tu tập, chỉ riêng hàng Bồ Tát có thể tu tập lòng Từ này, nên nó là pháp môn bất cộng”.
[3] Tam Giác: Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh viên mãn.
[4] Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (trong tụng văn thường gọi tắt là kinh Đại Bi hay Đại Bi Chú Kinh), Quán Thế Âm Bồ Tát đã thành Phật từ lâu xa trong quá khứ, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.
[5] Tịch Quang: Thường Tịch Quang Độ.
[6] Mười giới: Tức là mười pháp giới, gồm Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, thiên, nhân, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục.
[7] Hòa nam (vandanam): Kính lễ
[8] Nguyên văn “phiếm châu” (có thể bơi thuyền được).
[9] Tát Bà Nhã Trí (Sarvajña): Hiểu theo nghĩa chung thì Nhất Thiết Trí đồng nhất với Nhất Thiết Chủng Trí, là trí huệ rốt ráo nơi Phật Quả, thông hiểu Thật Tướng của các pháp. Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, quyển Hạ, giảng: “Trọn đủ vô lậu giới, thường tịch giải thoát thân, tịch diệt chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất Thiết Trí”. Du Già Sư Địa Luận, quyển 38, giảng: “Đối với hết thảy các pháp giới, hết thảy sự, hết thảy phẩm, hết thảy thời, trí vô ngại chuyển”. Có nghĩa là: Hiểu rõ đúng theo chân đế hết thảy pháp giới, sự tướng, hữu vi, chúng sanh giới, vô vi, nhân quả sai biệt v.v... Đây là quan điểm của Hoa Nghiêm Kinh Đại Sớ. Nếu hiểu theo nghĩa riêng, Nhất Thiết Trí chỉ là trí huệ viên mãn của Thanh Văn, Duyên Giác, như Đại Trí Độ Luận, quyển 27, đã giảng: “Tổng tướng là Nhất Thiết Trí, biệt tướng là Nhất Thiết Chủng Trí, nhân là Nhất Thiết Trí, quả là Nhất Thiết Chủng Trí. Nói đại lược thì là Nhất Thiết Trí, nói rộng thì là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là phá hết thảy tối tăm vô minh nơi hết thảy pháp, còn Nhất Thiết Chủng Trí phá hết thảy vô minh trong các pháp môn”.
[10] Lưỡng Túc Tôn: Bậc trọn đủ hai thứ công đức cao quý nhất. Thông thường, Lưỡng Túc Tôn được hiểu là Phước và Huệ trọn đủ, lượng bằng pháp giới; nhưng Lưỡng Túc Tôn có ý nghĩa rộng hơn rất nhiều như trong Pháp Hoa Sớ, quyển 4, ngài Gia Tường giảng: “Lưỡng Túc Tôn: Hoặc lấy Giới Định làm Nhị Túc, hoặc lấy Quyền Thật làm Nhị Túc, hoặc lấy Phước Huệ làm Nhị Túc, hoặc lấy Giải Hạnh làm Nhị Túc, đấy đều là lấy Nội Đức làm Nhị Túc. Đối với ngoại hình thì lấy Thiên Nhân làm Nhị Túc, nghĩa là Phật tôn quý nhất trong cả người lẫn trời”.
[11] Đội mũ (nhược quan): Theo lệ xưa, ở Trung Hoa khi con trai đến hai mươi tuổi liền làm lễ Gia Quan (hay Nhược Quan), búi tóc, đội mũ, không để tóc xõa nữa, ngụ ý đã đến tuổi trưởng thành. Khi ấy, cha mẹ hay thầy dạy thường đặt cho thêm một tên nữa, gọi là Quan Danh (tên đặt khi bắt đầu đội mũ) với ngụ ý nhắc nhở người thanh niên ấy hãy thực hiện hoài bão hay ước vọng của người thân.
[12] Bổn: Sự chứng đắc thật sự trong Nhất Chân pháp giới. Tích: Sự thị hiện.
Có thể hiểu Bổn như mặt trăng, còn Tích là bóng trăng hiện trong nước. Chẳng hạn, bổn địa (Bổn) của Quán Thế Âm Bồ Tát là cổ Phật, đã thành Như Lai cực quả từ lâu, nhưng để độ sanh, Ngài hiện làm thân Bồ Tát và ba mươi hai ứng thân khác để phù tá Di Đà, Thích Ca và mười phương chư Phật hóa độ chúng sanh. Sự thị hiện ấy chính là Tích.
[13] Nguyên văn “tử hư ô hữu”. Tử Hư và Ô Hữu là hai nhân vật hư cấu trong bài Tử Hư Phú của Tư Mã Tương Như. Trong bài phú ấy, Tử Hư nước Sở đi sứ nước Tề đã cùng Ô Hữu tiên sinh đối đáp. Cả hai tên này cùng mang ý nghĩa phúng thích, Tử Hư (không thật), Ô Hữu (chẳng có). Do vậy, thành ngữ “tử hư ô hữu” chỉ những gì hoang đường, giả dụ, không thật sự có.
[14] Thanh luận: Những lời luận nghị bàn bạc trong Phật giáo. Do cõi này dùng âm thanh để làm Thể, nhĩ căn của chúng sanh nhạy bén nhất, nên giáo pháp của Phật thường gọi là “thanh giáo”.
[15] Huyền ký: Những lời dự đoán về sự việc trong tương lai lâu xa, chẳng hạn, đức Phật huyền ký sau khi Phật nhập diệt, sẽ có Bồ Tát Long Thọ ra đời trung hưng Phật pháp Đại Thừa.
[16] Vì ngài A Nan chỉ chú trọng học rộng nghe nhiều, nhưng không tu chứng, nên ngài Văn Thù dạy đương cơ (đối tượng giáo hóa chánh yếu) trong pháp hội Lăng Nghiêm là ngài A Nan phải biết “xoay trở lại nghe nơi tự tánh” để chứng nhập Chân Như, không bị Thanh Trần xoay chuyển.
[17] Trụ Tích, hay còn gọi là Trác Tích, Quải Tích, đều có nghĩa là một vị pháp sư trụ tại một nơi nào đó tu tập. Tích (錫) ở đây là tích trượng.
[18] Nguyên văn “mãi độc hoàn châu” là một thành ngữ chê trách kẻ ngu dại, chỉ biết chuộng hình thức bề ngoài, không biết quý thực chất.
[19] Ông Hoàng Khánh Lan (hiệu là Hàm Chi), pháp danh Trí Hải là người xứ Thượng Hải, làm Đạo Doãn xứ Ninh Thiệu (tức hai phủ Ninh Ba và Thiệu Hưng), dinh Đạo Doãn đặt tại Cối Kê (Giang Tô). Một Đạo gồm nhiều phủ. Theo quy chế nhà Thanh, toàn quốc chia thành nhiều tỉnh, mỗi tỉnh gồm nhiều phủ, mỗi phủ gồm nhiều châu hay huyện. Đạo là cấp quản lý coi từ hai phủ trở lên. Viên quan cai trị một Đạo gọi là Đạo Doãn hay Đạo Đài.
[20] Sơn kinh thủy chí là những cuốn sách trình bày đặc điểm lịch sử của một vùng núi non, sông ngòi nào đó.
[21] Tri Sự vào cuối đời Thanh, nhỏ hơn chức Tri Huyện. Nhưng tại Đài Loan dưới thời lệ thuộc Nhật Bản thì Tri Sự lại lớn hơn Tri Huyện. Tri Sự ở Trung Hoa lục địa là người đứng đầu một trấn hay một hạt.
[22] Hòa thượng Khai Như trước kia làm Trụ Trì chùa Pháp Vũ, sau xin thôi làm Trụ Trì nên gọi là “thoái cư” (tạm dịch là “thoái ẩn”).
[23] Từ bổn địa, thị hiện các thân hay sự tướng để hóa độ gọi là “thùy tích” (lưu dấu). Chẳng hạn như Bồ Tát Quán Âm đã thùy tích tại Phổ Đà.
[24] Tổ Ấn Quang quê ở huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Do Cáp Dương có cánh đồng Tân (Sân) Dã (莘野,thường đọc trại thành Sằn Dã) là nơi ông Y Doãn cày ruộng trước khi ra giúp vua Thành Thang dựng nghiệp, nên Cáp Dương thường được gọi là Cổ Tân.
[25] Thạch ấn (lithography) là một phương pháp dùng bản in bằng đá hay kim loại, dùng chất dầu để làm dung môi cho mực in. Bản in được chia thành hai phần: Phần hút nước (hydrophilic) thường không thấm mực in và phần kỵ nước (hydrophobic) có phủ một lớp chất nhờn sẽ hút mực in. Phương pháp này do Alois Senfelder sáng chế vào năm 1796 và được sử dụng chủ yếu để in những tác phẩm nghệ thuật. Khi in một bức vẽ hay sách theo lối này, người ta chế bản in sao cho những nét vẽ sẽ là phần kỵ nước và phần để trắng sẽ là phần hút nước. Nhúng bản vẽ vào hỗn hợp nước và mực in, phần kỵ nước sẽ dính mực in, tạo ra nét chữ và hình vẽ khi áp lên giấy. Hiện thời, người ta không còn dùng đá để chế bản mẫu nữa. Hình vẽ được tạo bằng chất polymer phủ lên những tấm nhôm đã được điện cực hóa để chúng không dính mực in, còn phần polymer sẽ hút mực.
[26] Thể là bản chất, còn Dụng là tác dụng, hoặc Thể là bản tánh, là thật quả, còn Dụng là tác dụng hóa độ, tùy cơ hiện tướng ứng hóa.
[27] Chước (勺) là đơn vị đo lường dung tích rất nhỏ, gần bằng 1 ml.
[28] Vua hạ chiếu, cử quan trông coi xây dựng, hoặc ban tiền bạc để trùng tu, thì gọi là sắc kiến.
[29] Châu Lương: Châu Ôn sáng lập nhà Lương vào thời Ngũ Đại nên sử gọi là Châu Lương hoặc Hậu Lương để phân biệt với nhà Tiền Lương của Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn) thuộc thời Nam Bắc Triều.
[30] Huệ Ngạc: Không rõ quê quán, năm sanh và năm mất. Sư là người Nhật, vâng lệnh Quất Thái Hậu sang Trung Hoa cầu pháp trong thời đầu niên hiệu Thừa Hòa (834-847). Sư theo ngả Nhạn Môn lên núi Ngũ Đài triều bái thánh tích, rồi sang chùa Linh Trì ở Hàng Châu tham yết quốc sư Tế An, cung thỉnh thiền sư Nghĩa Không sang Nhật hoằng dương pháp Thiền. Tục truyền, năm Tế Xung nguyên niên (854), ngài Huệ Ngạc lại sang Trung Hoa, lên Ngũ Đài Sơn, chiêm lễ, thấy thánh tượng Quán Âm quá xinh đẹp, không cầm lòng được, bèn lén lấy đem về Nhật (Có lẽ đây là ngoa truyền. Đa số các sách như Phật Tổ Thống Kỷ, Phổ Đà Sơn Chí v.v... đều ghi là ngài Huệ Ngạc lễ Phật, xin được tượng Quán Âm đem về Nhật. Xét ra, Ngài đến Trung Hoa nhiều lần, lẽ nào không thỉnh được tượng vừa ý mà phải ăn trộm!). Thuyền đi đến núi Bổ Đà (ngoài khơi Ninh Ba), thuyền không đi được nữa, bèn thỉnh thánh tượng lên bờ thì thuyền lại đi được. Do vậy, bèn ở lại đảo, dựng chùa, đặt tên nơi ấy là Quán Âm Bất Khẳng Khứ (Quán Âm không chịu đi), gọi đảo là Bổ Đà Lạc Già Sơn (thánh địa đạo tràng ứng tích của ngài Quán Thế Âm). Do Bổ Đà Lạc Già còn phiên âm là Phổ Đà, nên hầu như không ai gọi nơi ấy là Bổ Đà Lạc Già nữa. Núi Phổ Đà, vốn có tên là Mai Sầm Sơn (vì theo truyền thuyết, tiên nhân Mai Phước ẩn cư tu tiên ở núi này), đến đời Tống, đảo được đổi tên thành Bảo Đà, nhưng dân cư vẫn quen gọi là Phổ Đà.
[31] Ý nói tài chữa bệnh rất giỏi. Khi xưa, những người giỏi về một tài nghệ nào thường được gọi là “quốc thủ”, chẳng hạn người đánh cờ vây giỏi cũng được xưng là “vi kỳ quốc thủ”.
[32] Đồng nhân: Những người cùng chí hướng, cùng căn tánh.
[33] Dựa theo ý câu thơ cổ: “Nhật lạc tang du” (Mặt trời lặn bên nương dâu) diễn tả cảnh chiều tà. Sau này thơ văn thường dùng chữ “nương dâu” để chỉ tuổi già.
[34] Vũ nhân (người khoác áo lông vũ, hay người có lông vũ) vốn là thuật ngữ chỉ thần tiên, về sau thường được dùng để chỉ Đạo Sĩ vì họ tự xưng là người tu tiên. Theo sách Bão Phác Tử, trên thân thần tiên có lông mịn như nhung màu đen, hai bên mình có cánh gắn lông vũ, có lúc hiện hình người, đi trên đỉnh núi, hay bay lượn trên không. Vì thế, gọi thần tiên là “vũ nhân”.
[35] Nguyên văn là “tấn thân” (縉紳), cắm cái hốt vào đai, mô tả cách phục sức của quan lại. Do đó, chữ “tấn thân” được hiểu theo nghĩa rộng là giới quan lại cũng như con cháu nhà quan.
[36] Trà-tỳ (Jhāpeti): Đôi khi còn phiên âm là Đồ Tỳ, Xà Tỳ, Xa Tỵ, Tà Duy, có nghĩa là hỏa thiêu, tức là dùng lửa thiêu hủy thi hài, rồi thâu nhặt di cốt.
[37] Thù y: Thù (殊) là một đơn vị đo lường thời cổ, bằng 1/24 lạng. Thù y là thứ áo cực nhẹ, trong kinh Phật thường dùng chữ “thù y” để chỉ áo của chư thiên vì nó rất nhẹ.
[38] Tả Bộc Xạ là một chức quan văn. Thời Hán, chức quan này là tùy viên của Thượng Thư Lệnh (chuyên coi sóc về xét duyệt tấu chương, chiếu biểu, có thể hiểu giống như chức Chánh Thư Ký Văn Phòng Nội Các bây giờ). Từ thời Tùy - Đường trở đi, Bộc Xạ tương đương chức Tể Tướng, và chia làm Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ (Hữu Bộc Xạ thấp hơn Tả Bộc Xạ).
[39] Bồ Đề Tát Đỏa (Boddhisattva) là danh xưng đầy đủ địa vị Bồ Tát.
[40] Liệt Ứng: Thân ứng hiện kém hèn, tức là những thân ứng hiện chỉ tốt đẹp hơn người thế gian đôi chút. Chẳng hạn như Phật Thích Ca hiện thân trượng sáu, ba mươi hai tướng đẹp, tám mươi tùy hình, chứ Thắng Ứng Thân của Ngài có vô lượng tướng, thường được nói đại lược là ‘sát hải vi trần tướng’, trong mỗi tướng lại có vô lượng vi trần sát tùy hình hảo.
[41] Theo Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quán Thế Âm Bồ Tát đắc pháp nơi đức Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai.
[42] Theo kinh Bi Hoa, khi vua cha Vô Tránh Niệm (tiền thân của A Di Đà Phật) nghe theo lời khuyên của đại thần Bảo Hải (tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật) đã đến quy y, nghe pháp với Bảo Tạng Phật, phát tâm Bồ Đề và các đại nguyện, trưởng tử là vương tử Bất Thuấn (tiền thân của Quán Thế Âm), vương tử Ni Ma (tiền thân của Đại Thế Chí Bồ Tát) và 888 vương tử đã cùng phát Bồ Đề tâm.
[43] Đây là một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: Con ông trưởng giả tự bỏ cha lưu lạc quê người, làm thuê làm mướn, ăn xin nuôi thân, chẳng biết mình là con ruột một vị trưởng giả giàu có nhất nước.
[44] Nguyên văn “nhị thụ ma triền” (ma bệnh tật trói buộc). “Nhị thụ” (二豎) là một từ ngữ chỉ bệnh tật phát xuất từ một câu chuyện thời Xuân Thu: Theo Tả Truyện, Tấn Cảnh Công bị bệnh, sai người sang nước Tần mời danh y Y Hoãn qua trị bệnh. Khi danh y chưa tới, Cảnh Công mộng thấy hai “thụ tử” (tiếng cổ chỉ hai đứa bé) nói chuyện: “Thầy thuốc giỏi sẽ được mời đến, chúng ta phải làm sao?” Đứa kia nói: “Hãy trốn vào phần trên Hoang, phía dưới Cao thì ông ta không thể nào làm gì chúng ta được”. Y Hoãn đến thăm bệnh, nói: “Bệnh không chữa được, đã nhập Cao Hoang”. Cao Hoang là từ ngữ chỉ chung phần nằm dưới tim, phía trên hoành cách mô. Do truyện này mà có hai từ ngữ: “Nhị thụ” chỉ bệnh tật rề rề và “bệnh nhập Cao Hoang” (bệnh đã nguy ngập, không còn chữa được nữa).
[45] Nguyên văn “tự quý bố đầu” (tự thẹn đã sợ hãi cái đầu của mình). Ông Hứa tự ví mình như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, soi gương thấy đầu mình bèn sợ hãi hóa cuồng. Do vậy, “bố đầu” hàm nghĩa mê cuồng, loạn mất tâm tánh.
[46] Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, người trì chú Đại Bi, nước của người ấy tắm văng dính vào thân chúng sanh nào, chúng sanh ấy cũng được giải thoát.
[47] Bạch Hoa là dịch nghĩa của chữ Phổ Đà (Bổ Đát Lạc Ca).
[48] Từ Mẫn chính là ngài Huệ Nhật sống vào thời Đường, sau khi thọ Cụ Túc Giới đã tham yết ngài Nghĩa Tịnh, nghe ngài Nghĩa Tịnh kể lại chuyến đi sang Ấn Độ cầu pháp, liền phát tâm hâm mộ, nguyện noi theo chí thầy. Trong niên hiệu Võ Tắc Thiên, Sư vượt biển, ba năm sau mới đến được Ấn Độ, tham bái các thánh địa di tích của Thích Ca Mâu Ni Phật, vừa thu thập các bản kinh Phật bằng tiếng Phạn. Trong quá trình cầu pháp, Sư gặp nhiều nỗi nhọc nhằn nên tâm nhàm chán Sa Bà càng mạnh, tâm hâm mộ Cực Lạc càng cao. Nghe nói trên quả núi to ở phía Đông Bắc thành Kiện Đà La (Gandhara), Quán Thế Âm Bồ Tát thường hiện thân, nên Sư lên đỉnh núi ấy, lễ bái suốt bảy ngày, nhịn ăn, thệ nguyện đến chết mới thôi. Đến tối ngày thứ bảy, Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tử kim trên không trung, ngồi trên sen bảy báu, duỗi tay phải xoa đầu ngài Huệ Nhật, khuyên hãy hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Pháp sư Huệ Nhật ở lại Ấn Độ học pháp suốt mười ba năm, trở về Trung Hoa nhằm thời Đường Huyền Tông, được vua ban hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sư hoằng dương Tịnh Độ, chủ trương “Giới Tịnh song tu, Giáo Thiền nhất trí, đem hết thảy công đức hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ”. Tư tưởng này được ngài Vĩnh Minh Diên Thọ kế thừa và bổ sung hoàn chỉnh.
[49] Theo Quán Âm Linh Cảm Tập, Trương Sứ ở đây chính là Trương Bồng Sơn, giữ chức Tập Hiền Học Sĩ thời Nguyên Thành Tông. Ông Trương đến Phổ Đà tham bái, trông thấy Đại Sĩ hiện bóng lờ mờ trên vách Triều Âm Động. Đến động Thiện Tài, chợt Thiện Tài đồng tử hiện thân trong đám mây lành, lại thấy Đại Sĩ đeo mão hoa, anh lạc, tay cầm cành dương liễu, các vị thần hộ pháp chắp tay cung kính đứng hầu chung quanh. Ông Trương vui sướng, kêu những người cùng đi kiền thành lễ bái, mây lành ngập tràn động một hồi lâu sau mới tan.
[50] Theo lời chú của chính cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh trong phần Hiện Tướng Ở Phổ Đà của sách này: Vào năm Mậu Thìn (1158) trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Tống Cao Tông, Sử Hạo và Trình Hưu Phủ đến động Triều Âm [triều bái] không thấy gì. Một vị Tăng dạy: “Trên đỉnh vách núi có hang báu có thể thấy được”. Họ nghe theo lời, chợt [Đại Sĩ] hóa hiện tướng tốt lành, sắc vàng chói ngời, mày mắt rành rành.
[51] Trí Giác là danh hiệu do Trung Ý Vương (Tiền Thục) phong tặng cho ngài Vĩnh Minh Diên Thọ. Trong thời gian tu học tại Thiên Thai Sơn, trong khi Thiền Quán, đại sư thấy Quán Thế Âm Bồ Tát dùng cam lộ rưới vào miệng, từ đó, Ngài đắc biện tài vô ngại.
[52] Theo Quán Âm Từ Lâm Tập, tại núi Thỉ Ninh có một vị tăng tên là Trúc Pháp Nghĩa nhằm niên hiệu Hưng Ninh đời Tấn. Sư thông thạo các kinh điển, đặc biệt là kinh Pháp Hoa. Đến năm Hàm An thứ hai (372), Sư chợt mắc bệnh hô hấp, tim cứ đau nhói mỗi khi hít thở, đau đớn khôn cùng. Sư bền lòng niệm thánh hiệu Quán Thế Âm, chợt mộng thấy một người mổ bụng mình moi ruột ra rửa ráy, khi tỉnh giấc bệnh đã lành hẳn.
[53] Theo Cư Sĩ Truyện, cư sĩ Châu Đình Chương, hiệu là Sở Phong, người tỉnh Vân Nam, sống vào khoảng niên hiệu Chánh Đức - Gia Tĩnh đời Minh, tánh tình thuần phác, gia cảnh nghèo hèn. Ai mắng nhiếc, chửi bới gì cũng cười mà thôi. Một lòng tin tưởng Phật pháp, mỗi sáng đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, Quán Âm mỗi thứ một biến. Một hôm vào tiết Thanh Minh, từ biệt cha và vợ nói: “Tôi sắp đi đây, Di Đà đến đón tôi, Quán Âm cũng đã đến”, rồi lại nói: “Ngài Quán Âm bảo tôi phải thôi ăn mặn trong năm ngày thì mới về Tây được”, bèn mỗi ngày ăn một bữa cháo, một bữa rau. Đến thời hạn, liền tắm gội, đội mũ, bảo con em tụng danh hiệu của bảy đức Như Lai, tụng kinh xong bèn ngồi ngay ngắn qua đời, đến hôm sau thân vẫn còn tỏa mùi thơm, vẻ mặt như lúc sống. Theo như pháp sư Đức Sâm đã viết trong bài ký về sự sanh Tây của cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển 2) thì khi ông Hứa Chỉ Tịnh dâng bài sớ này lên tổ Ấn Quang, Tổ Ấn Quang đọc tới câu này, hiểu ngay là ông Hứa Chỉ hãy còn ăn mặn, liền nghiêm mặt, quở trách: “Thật là tệ! Bậc đại thông gia như vậy mà vẫn chưa lấy thân làm gương ăn chay thì làm sao cảm hóa được người khác?” Cư sĩ không giận mà còn tâm phục, khẩu phục, hôm sau dâng thư xin biên tập tiếp bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục.
[54] Phàm lệ : Những quy định, cách trình bày được áp dụng cho một tác phẩm.
[55] Khoáng Viên gọi đủ là Khoáng Viên Tạp Chí do Ngô Trần Diễm soạn vào thời Đồng Trị nhà Thanh. Quái Viên là tác phẩm của Tiền Hy Ngôn soạn vào đời Minh. Hữu Đài Tiên Quán Bút Ký là tác phẩm của Du Việt được soạn dưới thời Đạo Quang nhà Thanh.

Từ Ngữ Phật Học Trong Bài Khai Thị