Chúng ta thường nói muốn vãng sanh Cực Lạc, nhưng rất nhiều người lại không hiểu rõ ý nghĩa của “Vãng sanh”, cho nên miệng tuy thường nói muốn vãng sanh Cực Lạc, mà thực tế thì thường phải uổng tử (chết uổng) tại cõi Ta Bà. Chú ý: chữ “uổng” trong từ uổng tử là chữ “uổng” trong từ oan uổng. Vãng sanh Cực Lạc vốn hoàn toàn không có ý là chết đi, cũng không phải là cái thân máu thịt này chết đi thì mới đến được thế giới Cực Lạc. Chúng ta theo mặt chữ để đơn giản mà hiểu ý nghĩa của vãng sanh Cực Lạc, đó là đã đến rồi thì không thoái lui, sống tại thế giới thanh tịnh, hạnh phúc của đức Phật, hoặc cũng có thể nói đó là tiến thẳng đến sự sống hạnh phúc nhất, không bị phiền não, đau khổ gây hại, không bị áp lực bức bách trói buộc. Cho nên vãng sanh là sống hạnh phúc trong hiện tại, hiện tại cùng với đức Phật tay nắm taysống trong hoan hỉ từ bi, thẳng đến vĩnh viễn. Nếu cứ một mực bảo rằng “chết đi” thì phải bảo rằng phiền não, đau khổ đều chết đi, chứ không nhất định là cái thân thể máu thịt chết đi. Phiền não, thống khổ mà chết đi thì tâm hạnh phúc!
Cho nên vãng sanh hoàn toàn không phải là trải qua những ngày tháng phiền não bị thống khổ bức bách, mà một mặt thì niệm Phật, một mặt thì mang tâm lo lắng rằng khi ta chết rồi, không biết có thể đến thế giơí Cực Lạc hay không. Quan niệm về vãng sanh và cách thức sống như vậy thì rất có thể bị chết oan uổng ở thế giới Ta Bà này, đó gọi là uổng tử tại Ta Bà, hoàn toàn không phải là Vãng sanh Cực Lạc.
Nói như vậy hoàn toàn không phải là tôi đây tự đặt ra, mọi người đọc kinh A Di Đà đều thấy kinh nói rõ ràng “Không có các thứ đau khổ, chỉ cảm thọ các thứ hạnh phúc, cho nên gọi là Cực Lạc”, đó cũng chính là không có các thứ phiền não, đau khổ, mà chỉ có sự thọ nhận cái thế giới sống mà thân tâm thanh tịnh, hạnh phúc. Gọi là thế giới Cực Lạc, hoàn toàn không phải là cái thân thể máu thịt chết đi mà gọi là Cực Lạc, mọi người dứt khoát chớ hiểu lầm!
Trong kinh A Di Đà có một đoạn: “Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh vào nước Phật A Di Đà, thì trong quá khứ, hoặc trong hiện tại, hoặc trong tương lai, trong vị lai được A nậu đa la tam niệu tam bồ đề tại quốc độ ấy mà không bị thoái chuyển”. Đại sư Ngẫu Ích giải thích kinh văn cho chúng ta nói đến đã phát nguyện, đã sanh Cực Lạc, nay phát nguyện, nay sanh Cực Lạc; sẽ phát nguyện, sẽ sanh Cực Lạc, rõ ràng nói cho chúng ta rằng: “nay phát nguyện, nay sanh Cực Lạc”. Từ “nay” có thể giải thích là”đời sống này”, cũng có thể giải thích là “ngay bây giờ”, ý nói người muốn vãng sanh Cực Lạc trong hiện tại thì có thể sống hạnh phúc trong hiện tại. Đó cũng là bảo rằng, người quả thật phát nguyện vãng sanh Cực Lạc, thì bây giờ phải tự nguyện bỏ đi mọi phiền não, áp lực, thì có thể ngay tức khắc được hạnh phúc, thanh tịnh. Bốn mươi tám đại nguyện của Đức Phật A Di Đà bảo, sanh vào nước Cực Lạc được mọi thứ phúc lợi xã hội của người dân của nước này. Kinh A Di Đà nói: nay nguyện, nay sanh. Hợp lại mà nói thì tức là hiện tại quả thực muốn sanh vào Cực Lạc thì hiện tại sanh vào Cực Lạc, đương nhiên là đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, ngay bây giờ có thể đem đổi mà lãnh các phúc lợi trong cuộc sống của người dân Cực Lạc. Còn người không bỏ đi được cõi ưu phiền của cõi Ta Bà thì đương nhiên phải lãnh những khổ vị của cõi Ta Bà. Đó là do tự tâm lựa chọn vậy.
Gọi là “Lâm chung” hoàn toàn không phải chuyên chỉ cái lúc sanh mạng sắp kết thúc. Nếu chúng ta hiểu rõ tâm niệm của chúng ta là sanh, diệt trong từng sát na, thì chúng ta mới có thể hiểu được từng sát na một điều là lâm chung, đều là trước đoạn kết thúc, đồng thời là sau đoạn sanh khởi. Nghiêm túc mà nói sự”tiếp dẫn lúc lâm chung” của Đức Phật A Di Đà, chính là sự tiếp dẫn trong từng sát na. trong mỗi sát na, tâm của Đức Phật, tâm của chúng ta đều liên tiếp với nhau, chưa bao giờ bị đứt đoạn. Trong mỗi sát na, Đức Phật đều dẫn chúng ta đi qua cuộc sống hợp lý và tươi vui. Sự dẫn đạo liên tục không gián đoạn này chính là sự dẫn đạo trong lúc lâm chung, trong từng sát na! người mà trong hiện tại nguyện ý quay mặt về Đức Phật mà nhận lấy sự tiếp dẫn là người trong hiện tại vãng sanh vào Cực Lạc, đến cuộc sống cuộc sống hạnh phúc của Đức Phật, thì không phải chết oan uổng tại thế giới Ta Bà!
Có một câu nói rất phổ biến là “Người trong chốn sông hồ thân mạng không do mình làm chủ”, câu này tương đương với “buông xuôi”. Hầu hết người ta đều rất buông xuôi, rất mù mịt, cứ theo dòng thế tục mà qua ngày, sống rất uổng phí ở cõi Ta Bà! Thực ra, rất ít người có trí tuệ, có dũng khí dám vãng sanh Cực Lạc tự do, tự tại. Phần lớn người ta đều cam tâm mà theo “Người trong chốn sông hồ thân mạng không do mình làm chủ”.
Trong lúc đêm khuya vắng vẻ, nếu chịu phản tỉnh, tin rằng phần lớn người ta sẽ biết được: Chạy theo danh lợi càng nhiều thì hoàn toàn không khiến cho mình hoặc khiến cho người khác thân hạnh phúc. Nhưng dù cho có được như thế thì thân mình cũng không do mình làm chủ được; dùng tuổi thanh xuân một cách uổng phí để bôn ba về danh lợi, rồi đến một ngày sẽ ngã xuống vì bệnh; một ngày ngã xuống vì bệnh rồi, thì mới phát hiện rằng danh lợi vốn không thể làm giảm nhẹ đau khổ. Đến khi chết thì danh lợi cũng không có chỗ dùng.
Một số người bình tĩnh mà suy nghĩ, cũng biết được rằng, có được cảm tình thì không hề thêm được hạnh phúc. Thế mà thường thường không kiểm soát được thân, cứ chạy theo danh lợi, cảm tình mà chết, chết thật oan uổng!
Rõ ràng mọi người đều biết rằng lối sống quá bận rộn và không có qui luật thì không tốt cho sức khỏe mà lại với không kiểm soát được thân, bận rộn đến mệt mỏi mà thân sanh bệnh. Rốt lại không có cách gì chữa bệnh, lại không ai có thể thay thế, chỉ còn cách là chết oan uổng.
Vì sao nói đây là chết uổng? Vì vốn có thể thấy rõ chân tướng của đời người để sống cho tốt đẹp; nhưng lại không thấy rõ như thế, nên cứ mù mù mịt mịt cùng với người ta sống bừa chết bừa; đó chính là oan uổng! Vốn có thể sống thanh tịnh, tự tại và chết hạnh phúc trang nghiêm, nhưng vì một niệm u tối mà phải sống rất khổ, sống mà không làm chủ thân mạng, lại chết không rõ ràng, sợ hãi kinh hoàng, đó chính là oan uổng! Vốn có thể khai phát Phật tính mà tiến đến thành Phật hạnh phúc vô ưu, thế mà lại bận rộn suốt một đời, khổ cực suốt một đời, lại tạo ra đau khổ, luân hồi cho đời sau, đó chính là oan uổng! Khổ mà chẳng có chút giá trị gì, bỏ mất cái hạnh phúc thanh tịnh đáng có.
Rốt lai, bạn muốn vãng sanh tại thế giới Cực Lạc, hay là muốn uổng tử tại cõi Ta Bà? Hỏi như thế, tôi nghĩ rằng người có lý trí là người không chọn uổng tử nơi cõi Ta Bà. Vấn đề là tuy không muốn uổng tử tại cõi Ta Bà, nhưng nếu mỗi ngày thân không do mình kiểm soát, cứ tạo ra điều kiện cho việc chết oan uổng, thì đương nhiên khi nhân duyên đã đầy đủ, dù không muốn chết oan uổng, cũng không kiểm soát được thân. Thế thì phải làm sao? Thế thì, nếu không hạ quyết tâm, không có dũng khí, không có trí tuệ thì không thể vãng sanh Cực Lạc!
Muốn vãng sanh Cực Lạc thì cần phải hiểu rõ những điều kiện chân chính tất yếu là gì; lại nữa, phải luôn luôn kiểm tra mình có phù hợp với điều kiện hay không, mới không phải là ngoài miệng nói muốn vãng sanh Cực Lạc, mà suốt đời cứ bận bịu khổ đau, kết quả là vẫn chết uổng ở cõi Ta Bà. Ví như có người ngày nào cũng nói anh ta sắp đi Mỹ, ngày nào cũng thấy anh ta chuẩn bị hành lý, sắp xếp bao lớn, bao nhỏ, mọi người thấy anh ta ra dáng là người sắp xuất ngoại. Kết quả là sau đó một thời gian anh vẫn không lên máy bay.Lại có người xem ra ngày ngày không hề sắp xếp hành lý, đi đâu cũng không nói mình sắp đi Mỹ, nhưng rốt cuộc sau đó, anh đã đáp máy bay sang Mỹ.
Bạn có thấy chuyện này có kỳ lạ lắm không? Thực ra chẳng có chút gì kỳ lạ cả, vì đâu có ai quy định rằng, đi Mỹ thì phải chuẩn bị cho thật nhiều hành lý! Ngày ngày chuẩn bị hành lý hoàn toàn không phải là điều kiện để có thể đi Mỹ. Những điều kiện đi Mỹ là phải làm hộ chiếu cho được, thị thực nhập cảnh, mua vé máy bay cho dược. Một người bề ngoài hoàn toàn không có vẻ chuẩn bị hành lý, nhưng lại có thể đi Mỹ được là vì những gì cần anh ta đều đã hoàn tất, thì đương nhiên anh có thể đi được. Còn người kia ngày nào ngoài miệng cũng nói sắp đi Mỹ, nhưng vì không thực hiện đầy đủ các diều kiện để đi Mỹ không làm hộ chiếu, không thị thực nhập cảnh, cũng không có vé máy bay mà ngày ngày cứ lo sắp xếp hành lý, lấy kem đánh răng, bàn chải, quần áo, khăn lông mà gói lại bỏ vô vali, khiến người ta nhận thấy anh ta ra vẻ sắp xuất ngoại. Kết quả ư? Lẽ đương nhiên là không đi được. Điều này chẳng có chút gì là kỳ lạ, đó là vì anh ta đã không làm những gì cần phải làm!
Vãng sanh vào thế giới Cực Lạc cũng như vậy, phải hiểu rõ các điều kiện. Đại sư Ngẫu Ích bảo, những điều kiện quyết định để vãng sanh Cực Lạc là tín và nguyện, phải có lòng tin và nghị lực. Nếu điều kiện phải thưc hiện này mà không được thực hiện thì dù có thực hiện thật nhiều hình thức bên ngoài thì cũng chẳng dính dáng gì với nội dung. Nếu có được các điều kiện cần phải có thì nhất định có thể vãng sanh Cực Lạc. Tín và nguyện đều không phải điều kiện bên ngoài, không cần phải cầu xin người khác, đó chỉ là vấn đề nội tâm của chính mình mà thôi, chỉ là vấn đề quan niệm, khoảnh khắc của một niệm mà thôi.
Rốt lại vãng sanh Cực Lạc là dễ hay khó?
Thường thường các vị lão Bồ Tát (các cư sĩ đã lớn tuổi) đã học Phật hai ba mươi năm hỏi tôi câu hỏi ấy. Họ thắc mắc: tại sao có người bề ngoài thường có vẻ không dụng công niệm Phật, đến lúc lâm chung lại bình thản cười hì hì mà đi. Nhìn thấy những người như thế, ta có cảm giác vãng sanh Cực Lạc rất dễ. Mặt khác, có một số người xem ra suốt ngày dụng công lần hạt niệm Phật, sớm tối đều ra sức lạy Phật, vẫn thường đến các hội nghe kinh, thế mà bình thường lại âu sầu phiền não, đến khi lâm chung thì lại điên đảo, không thích niệm Phật, thậm chí còn xuất hiện những hiện tượng không tốt, lại có người nghe niệm Phật thì tức giận. Nhìn thấy những người như thế, ta có cảm giác vãng sanh Cực Lạc là rất khó.
Rốt lại vãng sanh Cực Lạc là dễ hay khó?
Thật ra, người mà trong lòng đã có đầøy đủ lòng tin, thật sự mong muốn vãng sanh thì vãng sanh Cực Lạc rất dễ, chỉ trong khoảnh khắc một niệm mà thôi, so với Uổng tử tại Ta Bà quả là đơn giản hơn, lại hạnh phúc hơn. Nhưng đối với người không hiểu rõ được điều kiện hoặc trong lòng không chân thật tin tưởng, mong muốn thì vãng sanh Cực Lạc rất khó. Người như thế rất có thể chỉ thường thường hoạt động ở trong khuôn khổ Phật giáo, hùa theo người khác mua tràng hạt, mua pháp khí (chuông, mõ, tượng...) mua áo tràng, giống như ví dụ đã nêu trên, miệng thì nói sắp đi Mỹ, mà ngày ngày cứ sửa soạn hành lý, mua vali, mà không chịu thực hiện các điều kiện cần thiết như hộ chiếu, thị thực nhập cảnh vv...Anh ta bề ngoài xem ra rất giống người sắp xuất ngoại, nhưng lại không thực hiện các điều kiện cần thiết, cho nên không xuất ngoại được. Anh ta có hình thức bên ngoài là cầm tràng hạt niệm Phật, nhưng lại không thật sự dùng tín tâm mà niệm Phật, đồng thời thiếu lòng mong muốn bỏ đi những thứ tạp nhạp trong tâm, thiếu cái quyết tâm, cái nguyện lực, chân chính “mong muốn hạnh phúc”. Thiếu phần chân tín, chân nguyện này thì đương nhiên không tránh khỏi Uổng tử tại Ta Bà. Suốt một đời này khổ nhọc chuẩn bị hành lý, cũng chỉ để dùng trong sự luân hồi của cõi Ta Bà mà thôi.
Chúng ta đã quyết định muốn vãng sanh thì những sự việc lớn nhỏ trong sanh hoạt thường ngày, sự việc nào cũng là một khảo đề, cũng đều khảo nguyện lòng tin và sức nguyện của chúng ta đã đủ hay không đủ. Mỗi một cuộc khảo hạch đều là một then chốt trọng yếu, đều quyết định chúng ta được vãng sanh vào Cực Lạc hay bị Uổng tử ở Ta Bà. Ví như: Một hôm, một ký giả của một tờ báo đến tống tiền Lão Hòa thượng Quảng Khâm, anh ta chìa tay về phía Lão Hòa thượng, nói: “Đưa tiền đây, nếu không đưa tiền thì cây bút của tôi lợi hại lắm đó. Ngày mai tôi sẽ viết một bài về ngài để đăng báo, bảo đảm rằng không có ai sẽ đến sơn môn của ngài nữa!” Nhưng lão Hòa Thượng Quảng Khâm là người quyết tâm nguyện ý vãng sanh Cực Lạc, là người có đầy đủ tín nguyện, có lòng tin thì không có sợ hãi, ưu phiền; có lòng tin thì không sợ! (Hễ sợ thì không có lòng tin!) Lão Hòa thượng một lòng mong muốn vãng sanh Cực Lạc vốn chẳng cần biết ngày mai trên báo viết tốt hay xấu về ngài. Ngài vốn chẳng cần biết tới có người hay không có người đến chùa miếu của ngài. Cho nên ngài chỉ nói với kẻ tống tiền ấy rằng: “Xin ông viết báo về tôi, càng xấu càng tốt, vì mọi người cung kính tôi, cầu xin tôi gia trì, tôi phải ngày ngày niệm chú Đại bi, trì nước Đại bi; nếu mọi người đều bảo tôi là xấu mà không cung kính tôi, không ai tìm đến tôi, thì tôi mới được yên tịnh mà niệm A Di Đà Phật”.
Mấy câu nói ấy của Lão Hòa thượng chính là lời khẳng định tín, nguyện đầy đủ, nhất tâm niệm Phật. Anh ký giả kia nghe xong rất đỗi ngạc nhiên, quả là anh ta đi khắp đây đó không thấy ai như Lão Hòa thượng này, cho nên anh hết dám tống tiền ngài nữa. Lão Hòa thượng đã y theo lòng tin và sức nguyện muốn vãng sanh Cực Lạc, nên ngay đó đã thoát khỏi nạn tống tiền, đồng thời cũng hàng phục được cái tâm niệm xấu của đối phương, đó đây đều vãng sanh Cực Lạc. Đó chính là khảo đề về tín và nguyện trong sinh hoạt thường ngày.
Nếu Lão Hòa thượng không nghĩ đến ước nguyện vãng sanh Cực Lạc, thì ngài đã không bỏ được thế giới này mà sẽ phải vướng mắc vào sự phê bình ngài trên báo, sẽ phải vướng mắc vào việc có hay không có người đến chùa miếu, sẽ phải sợ anh ký giả tống tiền kia, sẽ phải sợ đưa tiền thì cứ bị tống tiền hoài, mà không đưa tiền thì thanh danh bị bôi nhọ trên báo. Nếu trong lòng càng sợ anh ta, càng buông không được, càng vướng mắc, nhất định càng có nhiều phiền bực, thế là ngày ngày mang sầu thọ khổ, không thể “không có các thứ khổ, chỉ có các thứ vui”. Như thế thì nhất định sẽ uổng tử tại Ta Bà, không thể vãng sanh vào Cực Lạc.
Lão Hòa thượng tuy bề ngoài vừa gầy ốm vừa bé nhỏ, nhưng lòng tin vào Phật, lòng tin vào Phật tính của chính mình thì lại mạnh mẽ to lớn vô cùng! Ngài biết rằng, các tướng trạng của thế gian đều hư ảo như cảnh mộng. Cho nên ngài quyết bỏ cảnh mộng mà giác tỉnh! Ngài quyết bỏ thế giới Ta Bà! Ngài quyết ngay liền vãng sanh Cực Lạc tự do, tự tại! Nguyện lực như thế quả là mạnh mẽ, to lớn vô cùng!
Anh chàng tống tiền kia dùng danh lợi làm bửu bối để uy hiếp, Lão Hòa thượng lại xem đó là thứ đồ rác rưởi phải bỏ đi. Lão Hòa thượng không bị danh, lợi, vinh làm trở ngại tâm; sỡ dĩ thế là do nguyện lực muốn vãng sanh Cực Lạc của ngài.
Chúng ta thử xem “nguyện lực” muốn vãng sanh của Lão Hòa thượng.
Chúng ta thử xem xét cái “nguyện lực” chân chính muốn vãng sanh và sự “buông bỏ” không ngần ngại của Lão Hòa thượng để thấy rằng phước báo và trí tuệ của Lão Hòa thượng là hiếm có trên đời. Phần đông người ta không buông bỏ được, không dám buông bỏ, vì sợ rằng buông bỏ đi thì sẽ mất cái gì đó, sợ rằng buông bỏ xong thì không còn có gì. Như thế là không hiểu Phật pháp, không có tín tâm, cũng giống như sợ rằng đi đại tiện sẽ mất cái gì đó.
Câu nói đầu tiên khi thành đạo của đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta là sự cảm thán và sự cảm khái vô cùng. Ngài liên tục dùng hai cảm thán từ “lạ thay!”, “lạ thay!”, thật là một sự cảm thán kỳ lạ! Thần kỳ! Vì sao lại thần kỳ? Vì tất cả chúng sanh cùng với Phật đều cùng có đức tướng trí tuệ giống nhau, do đó mà thần kỳ vậy! Nhưng cũng rất đáng tiếc, chỉ vì sự chướng ngại của vọng tưởng và chấp trước mà chúng sanh hoàn toàn mất đi trí tuệ Phật tính và phước báo vốn có của mình, không chứng được những thứ ấy; cũng là vì không có cách nào khai phát hiển lộ cái bảo tàng của chính mình. Câu nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà không chứng được đức tướng ấy”, chúng tôi nghĩ rằng, đa số Phật giáo đồ đã nghe câu này, nhưng những người tin và có thể thọ dụng thì rất ít.
Khi mới khai ngộ, Lục Tổ (Huệ Năng) cũng cảm thán rằng “ Từ bao giờ, tự tính vốn đầy đủ”! Phật tính của chúng ta vốn viên mãn đầy đủ, cái gì cũng có. Tín tâm của Phật giáo đồ chúng ta là phải tin đức Phật, lại còn phải tin tự mình cũng có Phật tính, giống như đức Phật. Chúng ta tin rằng, phước báo và trí tuệ vốn có của chúng ta bình đẳng với đức Phật, chỉ vì chúng ta vọng tưởng, chấp trước quá nhiều chướng ngại, nên không hiển lộ ra được, giống như mây đen quá nhiều nên khiến ánh sáng mặt trời không thể xuyên qua mà hiển lộ được.
Do đó, chúng ta quyết không nên xem nhẹ ý nguyện “mong muốn vãng sanh Cực Lạc”, nhất quyết không nên xem nhẹ sự “buông bỏ”. Ýù niệm này về sự buông bỏ ở thế giới Ta Bà này, cũng giống như sự tiêu tan của mây đen, khiến Phật tính vốn có có thể hiển lộ ra. Nên biết, buông bỏ mây đen, phá tan mây đen chẳng hề mất đi ánh sáng mặt trời, việc gì phải lo! Buông bỏ vọng tưởng và chấp trước thì phước báo và trí tuệ vốn có mới có thể hiện ra. Nguyện sanh Cực Lạc, niệm Phật chính là niệm Phật hiệu để phá tan mây đen của vọng tưởng chấp trước, khiến cho Phật quang hiển hiện ra, cũng khiến cho sự diệu dụng của Phật lực hiển hiện ra. Phải biết rõ những chướng ngại trong tâm chúng ta, “dính mắc cái này, lo toan cái kia” chính là mây đen. Chúng ta nhờ chuyện này của Lão Hòa thượng mà ít nhiều hiểu được cái sức mạnh của “tín”, “nguyện” và những khảo đề về tín trong sinh hoạt hàng ngày.
Đại sư Ngẫu Ích nói: Tín và nguyện là điều kiện quyết định vãng sanh. Nhưng chưa chắc người có tín tâm đã phát nguyện. Còn người đã phát nguyện thì nhất định đã có đủ tín tâm. Cho nên then chốt của vãng sanh quyết định ở “nguyện”. Có người nói: “Có chứ! ngày nào tôi cũng niệm bài nguyện văn nguyện sanh Tây Phương”. Phải biết rằng, cứ theo từng chữ mà niệm bài nguyện văn chưa chắc đã là chân thực có lòng. “Nguyện” là mong cầu chân chính, ước muốn chân chính trong lòng. Người thành tâm phát nguyện không chỉ là người niệm bài nguyện văn trước đức Phật, mà còn lấy nguyện ước này là người dẫn đạo, cũng như khi Lão Hòa thượng bị tống tiền, ngài lấy nguyện ước này làm chủ đề. Ngài chỉ có một đại nguyện này, hoàn toàn không hy vọng người đời cung kính cúng dường tấm lòng của ngài, thậm chí cũng không cố ý nguyện làm nên sự nghiệp gì cho Phật giáo.
Có lần một vị cư sĩ đưa một vị Hoa Kiều Thụy Sĩ đến bái kiến ngài. Vị cư sĩ này giới thiệu với Lão Hòa Thượng: “Vị Hoa Kiều nay là một phú hào ở Thụy Sĩ, nếu ngài giúp ông ta học Phật thì sau này ngài muốn làm sự nghiệp gì của Phật giáo, ông ta đều giúp đỡ.” Lão Hòa thượng chỉ nhắm mắt, nhẹ nhàng đáp: “Tôi không muốn làm gì cả”. Lão Hòa thượng đang ở trong tâm trạng không muốn làm gì, chỉ làm sự việc vô lượng vô biên cứu độ chúng sanh. Ngài cứu độ chúng sanh là tự nhiên vậy, là vì đức hạnh của Phật tính tuôn chảy, tự nhiên vĩ đại, tự nhiên cảm được lòng người.
Có người thấy ngài ngày ngày bị rất nhiều người vây quanh hỏi han thắc mắc, thì cảm khái nói với ngài: “Lão Hòa thượng, quả thật ngài đang độ cho đông đảo chúng sanh!” Lão Hòa thượng chỉ bình tĩnh đáp: “ Hàng ngày tôi ăn no, nhàn nhã không làm việc gì”. Nếu dùng con mắt hữu vi của người bình thường chúng ta mà nhìn thì ngài phải rất bận rộn và rất mệt mỏi. Nhưng vì tâm của ngài không bị chấp trước ngăn ngại, cho nên ngài chỉ cảm thấy “ăn no, nhàn nhã, không làm việc gì”. Vì trong lòng không có việc gì, việc gì cũng đều buông bỏ, nên tự nhiên thanh thản, an vui! Vì trong lòng không có việc gì, nên trí tuệ mới trống không linh mẫn, mới có thể quán chiếu, mới có thể làm tốt mọi sự mà không mệt mỏi, chỉ cảm thấy rất nhàn nhã. Nếu có ai thấy đông đảo người mà trong lòng phiền bực, vội lo lắng mà mệt nhọc với được hay không được, trong lòng đã bị ngăn ngại thì sẽ quán sát không rõ ràng, việc gì cũng không làm tốt được.
(Ai bảo chúng ta không tin Phật quang, tin mây đen!)
Phần lớn người trong chúng ta không có ước nguyện vãng sanh chân thực, việc gì ở cõi Ta Bà này cũng dính vào, chấp trước, lo được lo mất, đó cũng chính là mây đen gây nhiều trở ngại, ánh sáng mặt trời không xuyên qua được, còn Lão Hòa thượng thì có ước nguyện vãng sanh chân thực, không vướng mắc vào đâu, lại có trí tuệ thấu suốt, rọi sáng mọi sự vật rõ ràng minh bạch. Ai bảo chúng ta không tin Phật, không tin vào trí tuệ phước báo vốn có của chúng ta, mà tin vào vọng tưởng chấp trươcù, tạo nên nhiều mây đen như thế?! Mây đen càng nhiều thì càng không có phước báo, càng không có trí tuệ.
Nếu người tham gia khảo hạch đều có kinh nghiệm, hoàn toàn không càng lúc càng khẩn trương, dính mắc thì thành tích sẽ tốt. Trái lại, càng dính mắc thì càng lo được lo mất thì thành tích có thể càng kém. Vì áp lực lớn, quá khẩn trương, huyết quản sẽ co rút lại, máu đưa dưỡng khí cung cấp cho não không đủ, khiến cho người bình thường thông minh cũng sẽ biến thành ngốc nghếch. Lại nữa, khi áp lực lớn, thân và tâm đều trơ cứng không linh hoạt, phản ứng sẽ trở nên kém đi. Đồng thời chúng ta có thể quan sát người khẩn trương thì thường không được an vui, cái ấn tượng gây cho người ta cũng không tốt. Cho nên nếu đâu đâu cũng không được tốt lành, thì đó là do phước báo vốn bị “dính mắc, chấp trước” làm mai một đi mà không hiển lộ đầy đủ. Sự khẩn trương lo được lo mất như thế thật là rất oan uổng, quả là phải “Uổng tử tại Ta Bà”, vì sao chứ? Vì thiếu cái nguyện lực chân thật muốn vãng sanh Cực Lạc, cho nên đối với những danh nhỏ lợi nhỏ đều bị dính mắc, bị trở ngại kết quả ư? Cũng là chẳng được gì cả! Chỉ một việc là biến thành tên quỷ quèn, nội tâm không bỏ được, chịu khổ, không thể cảm nhận hạnh phúc; ngoài ra quả thực không được gì cả.
Chúng tôi không hề khuyên mọi người tham qua khảo hạch không cần phải học cho tốt, mà khuyên họ hãy cởi bỏ cái áp lực bức bách về việc lo được lo mất, khiến cho trí tuệ, phước báo của Phật tính chúng ta có thể hiển lộ đầy đủ, từ đó mà có thể học hành giỏi, làm việc giỏi. Như thế, dù không cố ý mong muốn tham gia khảo hạch tốt cũng vẫn được tốt. Giống như Lão Hòa thượng Quảng Khâm, ngài không hề mong muốn mọi người cung kính ngài, mọi người cũng tự nhiên cung kính ngài. Nên biết rằng, mây đen một khi đã tan thì ánh mặt trời tự nhiên hiển lộ, muốn ngăn cản cũng không ngăn cản được. Nếu còn mây đen giăng kín thì có muốn thấy ánh mặt trời, có cố cầu như thế cũng không cầu được. Phước báo, trí tuệ của chúng ta cũng như thế. Nếu có tín, nguyện, chịu buông bỏ, phá tan mây đen trong tâm thì phước báo, trí tuệ tự nhiên hiển lộ, có ngăn cản cũng không ngăn cản được, chớ nên cưỡng cầu cái gì khác. Người mà chịu vén mở đám mây đen, thì có thể làm lộ ra ánh sáng và phước báo một vùng. Nếu chịu vén mở toàn bộ mây đen thì có thể làm lộ ra vô lượng ánh sáng trọn đầy, đó là điều tự nhiên vậy.
Vãng sanh thế giới Cực Lạc, hưởng thọ mọi an lạc chính là phước báo trí tuệ to lớn nhất của chúng ta.
Người nguyện vãng sanh Cực Lạc, nhất định chịu vén mở mây đen, người không chịu vén mở mây đen thì không có ước nguyện chân chính.
Khi định nghĩa chữ “nguyện”, Đại sư Ngẫu Ích giải thích là “chán bỏ Ta Bà, vui cầu Cực Lạc”. Ý nghĩa của chán bỏ không phải là bảo chúng ta thật ghét, thật chán, chán bỏ là hoàn toàn không có hứng thú, tự nhiên dứt bỏ đi, nội tâm không tương ứng, không mong cầu.
Đại sư Ngẫu Ích bảo, thế giới Ta Bà chính là thế giới do sự chiêu cảm ô uế của nội tâm chúng ta, đã thế thì nó là đồ rác rưởi của tự tâm, có gì đâu mà quí báu? Đương nhiên là không có gì là vui thú, không tương ứng cũng không đang mong cầu. Mong cầu Cực Lạc chính là rất vui vẻ mà hướng về thế giới Cực Lạc, rất vui vẻ mà tương ứng với thanh tịnh, an lạc. gọi là thế giới Cực Lạc chính là cái thế giới được chiêu cảm bởi sự thanh tịnh, an lạc của nội tâm. Đã là sự an lạc, thanh tịnh của nội tâm thì đương nhiên là nên tương ứng mà mong cầu.
Nếu chúng ta quả thật mong nguyện vãng sanh Cực Lạc thì phải y theo định nghĩa của Tổ sư. Trong sinh hoạt hàng ngày chúng ta phải kiểm thảo cho đúng đắn xem nguyện chúng ta có chân thực hay không, kiểm thảo xem sự mong cầu chân chính của nội tâm chúng ta là gì. Ví dụ: Có một cô em dâu của một thiếu phụ nói xấu cô ta với mẹ chồng, khiến cho bà mẹ chồng hiểu lầm cô, đi đâu cô em dâu này đều bảo rằng cô không tốt. Cô hay chuyện liền bực bội, muốn giải thích rõ ràng cho cô em dâu, hy vọng mọi người sẽ không hiểu lầm cô. Đó là “nguyện” của cô ta. sự cầu mong như thế, nguyện ước như thế là cái thường tình của người ta, đương nhiên không có gì không phải, và cũng không thể thực hiện được, có thể cầu mong được. Nhưng cần phải chú ý: Cái nguyện như thế hoàn toàn không phải là cái nguyện vãng sanh Cực Lạc! Vì cô ta bị dính mắc vào lời phê bình đánh giá cô của người mẹ chồng và người em dâu, sự phê bình của người khác khiến cô đau lòng tức giận. Trong lòng cô u ám vì tâm cô bị dính mắc vào sự việc này, bị dính mắc vào những lời phê bình kia. Nhưng cần chú ý: “chán ghét (thảo yếm) hoàn toàn không phải là chán bỏ (yếm ly)”, mà là “chán nhưng không bỏ”. Vì tâm niệm của cô cứ nghĩ tới nó, cứ không chịu thoát ra khỏi sự ràng buộc dày vò của nó, đó là chán mà không bỏ, đó là mong muốn uổng tử tại Ta Bà, không phải là mong muốn vãng sanh và Cực Lạc.
Phải hiểu rõ vãng sanh Cực Lạc là hoàn toàn không nên mong muốn “Cô em dâu hiền lành, bà mẹ chồng sáng suốt hiểu rõ chúng ta”. những điều kiện này đều ở bên ngoài, mong cầu ở người khác. Vãng sanh Cực Lạc là phải giống như đã nói trước đây, như Lão Hòa thượng Quảng Khâm, cái sức nguyện vãng sanh Cực Lạc của chính mình rất kiên cường, ngay đó là buông bỏ được, ngay đó là an lạc tự tại! Quả thực mình có sức mạnh như thế thì có thể chuyển biến người khác, chuyển biến hoàn cảnh.
Năm ấy, Lão Hòa thượng Quảng Khâm tu tại một ngôi chùa ở Đại lục, vị sư trong chùa vì muốn khảo nghiệm công phu của ngài, nên đã cố ý lấy tiền trong thùng công đức, rồi sau đó trước mặt mọi người, bảo rằng ngài đã ăn cắp. Kết quả là mọi người trong chùa đều nhìn ngài với cặp mắt khinh khi, cho rằng ngài là kẻ cắp. Nếu gặp hoàn cảnh này thì nhất định chúng ta khổ mà chết, chết oan uổng! Nhưng vì tâm ngài vãng sanh Cực Lạc, cho nên vẫn không dính mắc vào những lời vu cáo và phê phán của cõi đời này, cho nên bị người ta “khinh khi nhìn”, ngài cũng “như tắm gió xuân”, hoàn toàn không ảnh hưởng đến sự tự tại an vui của ngài. Cuối cùng, khi nhà chùa tuyên bố sự thật, mọi người không những xám hối mà còn khẳng định công phu tu tập của ngài, càng tôn kính ngài nhưng ngài chỉ nguyện vãng sanh Cực Lạc nên cũng chẳng tham luyến gì. Nguyện lực của Lão Hòa thượng rất kiên định: mọi người bảo ta là kẻ cắp, khinh rẻ ta, ta cũng vãng sanh Cực lạc! mọi người bỗng nhiên là vị cao tăng dày công phu, có tu có chứng, ta cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc! nguyện của ngài không dao, không động, không theo với hoàn cảnh, nhân sự bên ngoài mà lắc lắc lay lay, không bị người ta đưa đẩy cho nên khi lâm chung mới có thể “không đến không đi” (vô lai vô khứ), vì nguyện lực bình thường chính là không giao động. Mọi người có thể thấy rõ người có nguyện lực kiên định, không dao động đều có thể chuyển biến hoàn cảnh, cải biến nhân sự, khiến mọi người khâm phục. Như thế thì tốt hơn nhiều so với việc tự mình bị dao động mà dính mắc, mà giải thích, vì sự giải thích biện luận của chúng ta càng thêm rối rắm tối tăm, chắc gì mọi người muốn nghe? Thực ra, người có tâm dao động thì tâm lực không kiên cường, lời nói nhất định không có sức ảnh hưởng đến người khác. Trước khi vãng sanh, Lão Hòa thượng có nói: “Vô lai vô khứ, vô đãi chí”, “Vô đãi chí” trong tiếng Đài Loan nghĩa là “không việc gì”, theo cách phát âm từ này có hai nghĩa. Vì bình thường chỉ có một đại nguyện (nhứt tâm chí) là vãng sanh Tây Phương chứ không có chí nguyện không tốt nào khác (vô đãi chí), cho nên không có sự việc luân hồi (không có việc gì) có thể không đến không đi (vô lai vô khứ) không giống như chúng ta năm tâm bảy ý, lắc lắc, lay lay, đi đi, đến đến, hoàn toàn là cái”đãi chí” của sáu đường luân hồi, không có cái “chân nguyện “ vãng sanh.
Một hôm có một bà cụ rất tức giận bảo với Lão Hòa thượng rằng cô dâu của bà rất tệ, thường không nghe lời bà. Lão Hòa thượng chỉ hỏi bà: “Nếu dạ dày bà đau thì bà có cách nào bảo mình không đau không?”
Bà cụ đáp: “không thể được”. Lão Hòa thượng nói: “Bà tự bảo mình mà bảo không được, tự bản thân bà còn không nghe lời, làm sao có thể bảo người khác nghe lời bà được?” Nếu chúng ta muốn chuyển đổi hoàn cảnh cho được như ý, chỉ cần nguyện lực của mình phải thành khẩn kiên cường. Chúng ta bình thường niệm Phật, lạy Phật tại Phật đường, xướng niệm “nguyện vãng sanh Cực Lạc”, nhưng khi ra khỏi Phật đường, gặp phải khảo đề trong sinh hoạt thì liền lãng phí sinh mạng mà dính mắc, so đo. Lãng phí sinh mạng thì uổng tử tại Ta Bà! Ví dụ: con bạn thi rớt đại học, nên lòng bạn bị dính mắc vào, cảm thấy mất thể diện không dám ra ngoài gặp bạn bè sợ người ta hỏi “con ông đi thi thế nào?” nếu bạn có cái tâm như thế thì nên kiểm thảo lại cái nguyện muốn vãng sanh Cực Lạc của chính mình. Đương nhiên, hy vọng con mình đậu đại học là một hy vọng rất chính đáng, nhưng loại nguyện này một khi có vấn đề thể diện, lo được lo mất thì nó biến thành loại nguyện truy cầu danh lợi Ta Bà, sai khác với loại nguyện vãng sanh Cực Lạc của chính mình. Người nguyện vãng sanh Cực Lạc thì không dính mắc vào danh lợi ở Ta Bà, không mong cầu đứa con làm thỏa mãn cái tâm hư vinh của mình. Người ấy sẽ giúp đứa con cùng sanh vào nước Cực Lạc, khiến cho chân tâm của đứa con được an lạc, sẽ bồi dưỡng lòng tin, sức nguyện và lòng từ bi của đứa con. Điều này khiến cho người ấy vui vẻ giúp người, và giúp ông vĩnh viễn được hạnh phúc rốt ráo. Người ấy sẽ nhận thấy con có đậu vào đại học hay không cũng không quan trọng lắm. Vì trên thế giới này, những người giúp ích cho chúng sanh không nhất thiết phải học đại học! Thực ra tự mình không qua được kỳ khảo hạch về tín và nguyện của đại học Cực Lạc mới là trọng yếu, tự mình phải uổng tử tại Ta Bà, luân hồi trong sáu nẻo, so với việc thi rớt đại học thì nghiêm trọng hơn nhiều!
Tôi quen biết một người nông dân mà mọi người đều tôn xưng là “Bồ Tát hoan hỉ”. Một hôm, bà đánh mất năm ngàn đồng, câu nói đầu tiên của bà là: “Người nhặt được cũng có thể dùng, như thế thật là vui!” Tâm của bà quả thật đã nguyện vãng sanh Cực Lạc, cho nên gặp chuyện gì bà đều nghĩ đến chỗ hạnh phúc nhất, nghĩ đến cái góc độ từ bi nhất, bà liền buông bỏ, bố thí, khiến cho chính mình ngay đó mà hạnh phúc; tự mình được hạnh phúc thì tự nhiên tỏa ra mùi thơmvà ánh sáng hạnh phúc, khiến mọi người đều hạnh phúc! Nếu tự mình không hạnh phúc, mặt sầu mày khổ, ngày ngày buồn bã, tỏa khí u ám, bảo rằng có thể tạo phước cho mọi người thì quả là không thể được, mà có lẽ còn khiến cho mọi người phiền khổ. Cho nên, quả thực muốn giúp mọi người thì tự mình ngay đó phải sống hạnh phúc, vãng sanh Cực Lạc. Tự mình ngay đó hạnh phúc thì giống như ngọn đèn được thắp sáng, làm cho cả thế giới được sáng sủa. Nếu trong tâm giống như một khối rác bốc mùi tanh, hoặc như một chiếc xe đầy khói đen, gây ảnh hưởng không tốt, làm cho cả thế giới bị ô nhiễm. Cho nên chớ xem thường một niệm của chính mình. Mỗi tâm niệm của chúng ta đều tỏa khắp vũ trụ, đều có ảnh hưởng đến cả thế giới. Không nenâ xem nhẹ một niệm vãng sanh Cực Lạc là niệm chân chính, buông bỏ mây đen rác rưởi, mới có thể mang lại cái hạnh phúc sáng sủa, mãnh mẽ, chiếu sáng chính mình và thế giới, cũng có thể ban cái công năng từ bi trừ khổ, mua vui. Cho nên bảo rằng “tín”, “nguyện” cũng là tâm Bồ Đề. Loại hạnh phúc sáng sủa và nhẹ nhàng này, một người mà ngày nào của lo được lo mất, không thể nào tượng tưởng ra được.
Tại Yến sào có một vị sư bà, pháp danh Ngộ Quang, bà từng đóng cửa hơn mười năm tu trì nghiêm túc. Bà có hai lời dạy nêu ra được tâm cảnh của bà, hết sức hay giản đơn mà sâu sắc, quả là một sự biểu lộ tín tâm, nguyện lực đầy đủ. Bà dùng âm thanh rất nhẹ nhàng, tự tại, rất ôn hòa nhu nhuyễn mà nói: “Không có việc nào gây ưu sầu, không có việc nào gây hối hả”, đây là hoàn cảnh sinh hoạt rất tốt đẹp, nghe được thì cảm thấy thân và tâm rất mát mẻ. Một người chân thành tin vào Phật lực, tin vào tự tính, tín tâm đầy đủ thì không có việc nào gây ưu sầu, mà đều vãng sanh Cực Lạc, ưu sầu mà làm gì? Đối mọi sự ở thế giới Ta Bà, không còn quái ngại chấp trước thì không bị áp lực bức bách, không bị chuyện gì gây hối hả, mà tất cả đều hết lòng hết sức để hoàn thành tốt đẹp thì tự nhiên công việc được hoàn thành tốt đẹp. Hối hả cũng không thể nhanh hơn, không hối hả cũng không thể chậm hơn. Không thể để cho tâm tư lanõ g phí vì hối hả thì mới có thể thực sự hết lòng hết sức mà làm việc, lại có thể nhanh nhất trọn vẹn nhất!
Có người hiểu nhầm rằng nguyện vãng sanh Cực Lạc không dính mắc gì với thế giới Ta Bà thì không cần phải làm việc gì cả. Thật ra thì trái ngược lại, không dính mắc là không dính mắc với danh lợi cá nhân, không dính mắc với lợi hại, được mất của chính mình, mà trái lại tâm tình vui sướng, tâm cảnh rộng rãi, làm cái gì thì toàn tâm toàn lực mà làm, không lãng phí tâm tư vì so đo, hoặc gấp rút âu lo, làm việc gì cũng đều vui vẻ hết lòng hết sức, lại cảm thấy trong lòng thanh thản không có việc gì, không mệt mỏi. Như thế cũng giống như Bồ Tát Quán Thế Âm do trong lòng vô vi mà khởi lên tâm từ bi thì mới có thể toàn tâm toàn lực giúp chúng sanh dứt khổ, ban vui.
Điều chủ yếu của nguyện sanh Cực Lạc là sự điều chỉnh phương hướng và tiêu điểm của nội tâm, hoàn toàn không phải có sự sinh hoạt hình thức nào đó, đầy đủ một biểu hiện bên ngoài nào đó, hoặc phải làm một số sự việc thì mới là nguyện vãng sanh Cực Lạc. câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu rõ: Có một vị sư trồng rất nhiều hoa lan. Một hôm khi ông có việc phải rời chùa, người đệ tử vô ý làm vỡ một chậu lan rất quí, rất đẹp, người đệ tử rất lo lắng sợ rằng khi sư phụ trở về sẽ quở mắng ông. Không ngờ, vị sư trở về chỉ mỉm cười, người đệ tử bèn hỏi: “Vì sao thầy không giận?” Vị sư đáp: “Ta vì muốn làm cho cảnh trí trở nên đẹp đẽ, khiến mọi người an vui mới trồng hoa lan, chứ không hề muốn nóng giận mà trồng hoa lan, cho nên chậu vỡ cũng không nóng giận!”
Câu chuyện trên gây cho chúng ta một ấn tượng thâm sâu. Một số người không những trồng hoa lan, mà có thể làm bất cứ việc gì cũng không tự chủ, lại bị dính mắc vào sự thành bại, được mất của sự việc, cảm thấy thành quả bị hư hoại, những mất mát không kể là hoa cỏ bị chết, hoặc đồ vật bị hư hoại, hoặc thi không đậu, hoặc con cái không nghe lời thì họ buồn bã phiền bực, đây cũng là uổng tử tại Ta Bà! Vị sư ấy nói đúng, “Ta hoàn toàn không muốn nóng giận mà trồng hoa lan”, ngài hiểu rất rõ động cơ mục đích của mình, có thể nói nguyện của ngài là an vui cùng với mọi người, và nguyện đồng sanh Cực Lạc, không hề nóng giận mà uổng tử tại Ta Bà.
Ta tự phản tỉnh, cảm thấy rất hổ thẹn không được như ngài! Vì có lúc làm việc, nguyện ban đầu là vãng sanh Cực Lạc, nhưng đến nửa chừng thì gặp trở ngại, mà bỗng nhiên uổng tử tại Ta Bà, lại tạo ra năm loại rác rưởi lớn là tham (tham lam) sân (nóng giận), si (ngu muội), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ). Thực ra thì phải giống như ngài mới là cái nguyện chân chính, trước sau như một, vẫn giữ gìn sự an vui thanh tịnh, gặp phải hoàn cảnh thuận hay nghịch, tâm cũng không thoái chuyển, không để cho đây đó rơi vào cái địa ngục thâm sâu của sự nóng giận, khổ đau.
Nếu trong sinh hoạt hàng ngày, con cái bạn phụ giúp việc mà lỡ đánh vỡ chén, làm hư đồ dùng, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, chỉ ôn tồn dạy bảo chúng, không giận dỗi không la mắng.
Khi về nhà, phát hiện bị trộm, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc mà vui vẻ bố thí, không sợ hãi âu sầu.
Giả như chồng bạn có ngoại tình, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, mà không nóng giận lại đối với chồng càng tốt hơn; trong công việc bếp núc, bạn vẫn nguyện vãng sanh Cực Lạc, vui vẻ lau chùi nồi nêu sạch sẽ.
Bạn bè có hiểu lầm bạn, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc mà không đau buồn, vì đức Phật A Di Đà hiểu bạn.
Hôm nay ăn được món ăn ngon, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, không vì tham ăn mà uổng tử tại Ta Bà.
Bạn trai hay bạn gái có đối xử tốt với bạn, bạn cũng nguyện vãng sanh Cực Lạc, hiểu rằng Đức Phật A Di Đà đối với bạn tốt hơn, lại còn mãi mãi không thay lòng. Được như thế thì mới có thể ngay đây mà an lạc, nếu không thì khổ vẫn là khổ, giận vẫn là giận, ngoại trừ phải uổng tử ra thì không được gì cả. Sao bằng lấy uổng tử mà đổi thành vãng sanh!
Nếu trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta có thể luyện tập, nêu cao nguyện vãng sanh Cực Lạc mà niệm Phật, thì khi sắp chết, nguyện lực sẽ mạnh mẽ, không có chướng ngại. Mong rằng mọi người đều thuộc bài “kệ phát nguyện” mà trong các khóa tụng tại chùa thường được tụng:
Nguyện khi lâm chung không chướng ngại
Di Đà Thánh chúng đến tương nghinhXa rời ngũ trọc, sinh tịnh độTrở lại Ta Bà độ hữu tình.
Trước đây chúng ta đã nói: Có thể nói tâm niệm, sinh mệnh của chúng ta đều sinh, đều diệt trong từng sát na, cho nên lúc nào cũng là lâm chung. Do đó:
Câu thứ nhất: “Nguyện khi lâm chung không chướng ngại” cũng có thể nói là”Nguyện tôi thời thời không chướng ngại”. Bảo rằng chướng ngại là chúng ta vọng tưởng, chấp trước mà tự mình sinh ra chướng ngại. Muốn “không chướng ngại” thì tự mình phải quyết tâm buông bỏ.
Câu thứ hai: “Di Đà Thánh chúng đến tương nghinh”. Để đề tỉnh chính mình, thông thường chúng ta niệm thành “Di Đà Thánh chúng thường tiếp dẫn”, cũng chính là hy vọng đức Phật A Di Đà và tất cả Thánh chúng, giờ nào phút nào cũng liên tiếp với tâm của ta, tương tiếp thông suốt, luôn luôn dẫn đạo ta.
Câu thứ ba: “Xa rời ngũ trọc, sinh tịnh độ”. Chỉ nguyện tâm của ta mau mau buông bỏ những thứ “rác rưởi”, mau mau thoát rời mọi ô nhiễm của những ác niệm, khôi phục lại sự thanh tịnh của bổn tính mà luôn luôn sinh hoạt trong sự an lạc của Tịnh độ.
Được như thế thì mới: ”Trở lại Ta Bà độ hữu tình” và đồng thời mãi mãi vui mừng độ chúng sanh, mãi mãi không mệt mỏi, mãi mãi không chán nản.
Nguyện tôi thời thời không chướng ngại
Di Đà Thánh chúng thường tiếp dẫn Xa rời ngũ trọc sinh Tịnh Độ Mãi mãi vui mừng độ chúng sanh.